-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Phật Học Cơ Bản
-
Tập Hai
- Ban Hoằng Pháp
Trung Ương
GHPGVN
-
Chương Trình Phật Học Hàm Thụ (1998-2002)
Nguyệt San Giác Ngộ
- --- o0o ---
- Phần
II - Bài 2
- Ðại cương
lịch sử Phật giáo Trung quốc
- Thích Tâm
Khanh
-
A- Dẫn nhập
- Nếu xem Phật
giáo (PG) như một thực thể văn hóa - tôn giáo sống động góp phần
tạo ra văn hiến - văn minh nhân loại thì chính vì lý do này đã
khiến PG có nhiều khuôn mẫu, hình thái rất khác nhau trong mỗi
thời đại lịch sử và ở mỗi quốc gia khác nhau. Từ nguồn cội Ấn
Ðộ, PG đã theo dòng thời gian truyền đi khắp nơi. Cách đây hơn
2000 năm, PG đã có mặt tại Trung Quốc. Trên phương diện tổng
quát, quá trình du nhập - phát triển của Phật giáo Trung Quốc
(PGTQ) có liên hệ mật thiết với lịch sử phát triển PG của các
nước trong khu vực, mà đặc biệt là PG Việt Nam. Do vậy, tìm hiểu
về lịch sử PGTQ giúp chúng ta rất nhiều trong việc nghiên cứu
lịch sử PG Việt Nam.
-
B- Nội dung
-
I- Phật giáo du nhập vào Trung Quốc
-
1)- Con đường du nhập của PG vào Trung Quốc:
- Về mặt địa
lý, PG đã theo chân các nhà sư truyền giáo Phạm Tăng được truyền
đến Trung Quốc theo hai ngả đường là đường bộ và đường thủy. Về
đường bộ, chủ yếu là hai con đường giao thông lớn: phía Bắc và
phía Nam của các nước Tây vực. Về sau, giữa hai con đường trên,
còn có con đường "Nhập Trúc cầu pháp" của ngài Pháp Hiển. Về
đường thủy thì chủ yếu là từ các hải cảng ở tỉnh Quảng Ðông (1).
- 2)- Niên
đại du nhập:
- Hiện nay, có
rất nhiều thuyết khác nhau đề cập đến niên đại du nhập của PG
vào Trung Quốc. Có hai thuyết đáng tin tưởng hơn cả là thuyết
Khẩu truyền PG của Y Tồn được chép trong sách Ngụy thư Thích
Lão Chí và thuyết Niên hiệu Vĩnh Bình năm thứ 10 (67 TL)
chép trong sách Hậu Hán Kỷ và sách Phật Tổ Thống Kỷ.
- - Theo thuyết
thứ nhất thì PG được biết đến ở Trung Quốc sớm nhất cũng từ năm
thứ 2 trước Tây lịch (niên hiệu Nguyên Thọ năm đầu - đời vua Ai
Ðế nhà Tiền Hán).
- - Theo thuyết
thứ hai thì PG có mặt ở Trung Quốc từ năm 67 Tây lịch (niên hiệu
Vĩnh Bình năm thứ 10 - đời vua Minh Ðế nhà Hậu Hán).
- Từ hai thuyết
trên, có thể nói PG được truyền vào Trung Quốc rất sớm, chủ yếu
là theo hai con đường thủy - bộ từ phía Bắc và phía Nam của các
nước Tây vực vào thế kỷ đầu Tây lịch.
-
II- Ðại cương lịch sử phát triển của
PGTQ
-
1)- Năm thời đại phát triển của PGTQ:
- Trên đại
cương, một số nhà nghiên cứu sử học PG hiện nay (2) đã theo
những nét đặc trưng của quá trình hoạt động PG mà phân lịch sử
phát triển của PGTQ thành 5 thời đại là:
- a/- Thời đại
phiên dịch: từ khi PG bắt đầu truyền tới cho đến đầu đời Ðông
Tấn.
- b/- Thời đại
nghiên cứu: từ đầu đời Ðông Tấn cho đến thời đại Nam - Bắc
triều.
- c/- Thời đại
kiến thiết: từ đời Tùy đến đời Ðường.
- d/- Thời đại
kế thừa: kể từ đời Ngũ đại đến đời nhà Minh.
- e/- Thời đại
suy vi: từ đời Thanh trở về sau.
- Ðến thời đại
Trung Hoa Dân quốc thì nhiều phong trào chấn hưng PG nổi lên tạo
cho PG Trung Hoa cận đại có nhiều bước phát triển.
- 2)- Các
danh tăng và các sự kiện Phật giáo nổi bật của PGTQ qua 5 thời
đại:
- a/-
Thời đại phiên dịch:
- PGTQ thời kỳ
này bao gồm PG ở các đời Hậu Hán (25-220 TL); Tam quốc (220-280
TL) gồm hai nhà Ngụy (220-265 TL), Ngô (222-280 TL) và Tây Tấn
(265-317 TL).
- PGTQ giai đoạn này chủ yếu lấy
việc phiên dịch làm công tác Phật sự chính. Tuy ở mỗi triều đại,
mức độ phát triển của PG có khác nhau, nhưng nhìn chung sự thành
tựu của các công trình phiên dịch đã dần định hình, tạo tiền đề
cho các công trình nghiên cứu ở thời đại sau. Trong thời đại này
có các danh tăng kiệt xuất xuất hiện với các công trình phiên
dịch giá trị như sau:
- * Ðời Hậu Hán
(25-220 TL): Ca Diếp Ma Ðằng (Kàsyapamátanga) và Trúc Pháp Lan
(Dharmaraksa) là hai vị Tăng Ấn Ðộ đầu tiên đến Trung Quốc vào
niên hiệu Vĩnh Bình năm thứ 10 (67 TL) thời vua Minh Ðế Hậu Hán.
Trong khi truyền đạo tại miền Bắc Ấn, hai Ngài đã sang Trung
Quốc theo lời thỉnh cầu của phái đoàn 18 người do vua cử đến Tây
Trúc tìm đạo. Khi hai Ngài tới Trung Quốc, vua Minh Ðế rất tôn
kính, vua cho dựng chùa Bạch Mã, là ngôi chùa đầu tiên ở Trung
Quốc, để hai Ngài phiên dịch kinh điển. Tứ Thập Nhị Chương
là bộ kinh đầu tiên được hai Ngài dịch tại chùa Bạch Mã.
- Sau hai ngài
Ca Diếp Ma Ðằng và Trúc Pháp Lan, được sự ủng hộ của Sở Vương
Anh - người em khác mẹ của Hán Minh Ðế, nhiều vị Tăng và cư sĩ
người Ấn khác cũng tới Trung Quốc và tiếp tục các công trình
phiên dịch kinh điển từ tiếng Phạn (chủ yếu là Bắc Phạn,
Sanskrit) sang Hán ngữ như ngài Trúc Phật Sóc (Sangha Buddha),
cư sĩ An Huyền - người nước An Tức (Parthia), ngài Ðàm Quả
(Dharmaphàla) - người Tây vực... Nổi bật trong số đó là các ngài
An Thế Cao (Arsakes) và Chi Lâu Ca Sấm (Lokaraksa), đến Trung
Quốc vào đời vua Hoàn Ðế cuối đời Hậu Hán. Ðặc biệt, có ngài
Nghiêm Phật Ðiều là vị tu sĩ người Trung Quốc đầu tiên tham gia
vào công trình phiên dịch kinh điển. PG đã dần dần được phổ cập
trong dân gian.
- * Ðời Tam
quốc (220-280 TL): Sau đời Hậu Hán, Trung Quốc chia thành ba
nước là Ngụy, Thục, Ngô. PG trong thời kỳ này phổ cập chủ yếu ở
hai nước Ngụy và Ngô. Cũng như thời kỳ mới du nhập, các hoạt
động PG ở thời kỳ này chủ yếu vẫn là các công trình phiên dịch
kinh điển.
- Ở nước Ngụy,
có các bậc cao tăng có công phiên dịch và quảng bá giới luật đầu
tiên là các ngài Ðàm Ma Ca La (Dharmakàla) và ngài Ðàm Ðế. Bộ
Tăng kỳ giới bản của ngài Ðàm Ma Ca La và bộ Ðàm vô đức
Yết ma là hai bản giới pháp căn bản đầu tiên của người xuất
gia. Tuy vào thời Hậu Hán đã có tu sĩ người Hán, nhưng người
Trung Quốc được thọ giới luật theo các pháp Yết ma đầu tiên lại
là ngài Chu Sĩ Hành, người nước Ngụy. Cũng chính Ngài là Tăng sĩ
Trung Quốc đầu tiên sang Tây vực để cầu pháp, là người mở đường
cho các chuyến "nhập Trúc cầu pháp" của các thời đại sau này.
- Các bậc cao
tăng thạc học của PG nhà Ngô nổi bật là ngài Khương Tăng Hội và
cư sĩ Chi Khiêm. Trước khi sang Ngô, ngài Khương Tăng Hội (Kang
Seng-Hui) là một trong những vị Tăng sĩ Ấn Ðộ đã có công đưa PG
vào Việt Nam (thời đó gọi là Giao Chỉ). Tác phẩm kinh điển của
Ngài phiên dịch nổi bật còn lại đến ngày nay là Lục độ tập
kinh, cũng là nguồn sử liệu giá trị cho việc xác định niên
đại du nhập của PG Việt Nam (3).
- * Ðời Tây Tấn
(265-317 TL): Theo bộ sách Khai nguyên Thích giáo lục, PG
đời Tây Tấn có nhiều vị Tăng sĩ rất có công trong việc phiên
dịch Tam tạng, nhưng nổi bật hơn cả là ngài Ðàm Ma La Sát
(Dharmaraksa - Hán dịch âm là Trúc Pháp Hộ).
- Sau hơn 3 thế
kỷ, PG đã phổ cập trong nhân dân. Các cơ sở vật chất của PG như
chùa, tháp được xây dựng, số lượng Tăng Ni và tín đồ Phật tử tuy
chưa nhiều nhưng đã đặt nền móng vững chắc cho các thời đại PG
sau này. Nét đặc trưng chủ yếu của PGTQ thời đại này là các công
trình phiên dịch kinh điển của các vị Tăng sĩ Ấn Ðộ cũng như
Trung Quốc.
- b/-
Thời đại nghiên cứu:
- Về phương
diện lịch sử, thời đại PG này bao gồm trong hai thời đại lịch sử
Ðông Tấn và Nam - Bắc triều. Trong cả hai thời đại lịch sử này,
PGTQ ngoài công tác phiên dịch, đã dần bước vào nghiên cứu những
giáo nghĩa trong kho tàng kinh luận PG. Xu hướng nghiên cứu này
được bắt đầu từ thời Ðông Tấn. HT Thích Thanh Kiểm đã nhận định:
"Trong thời đại Ðông Tấn, PG đều được phát triển trên cả hai
phương diện hình thức tín ngưỡng và tư tưởng giáo học. Vì trong
thời đại này có nhiều bậc Phạm tăng từ Tây phương tới, lại có
nhiều bậc cao tăng của Trung Quốc xuất hiện" (4).
- Các bậc cao
tăng của thời Ðông Tấn có rất nhiều. Nổi bật là các ngài Phật Ðồ
Trừng (Buddhasimha), Ðạo An, Cưu Ma La Thập (Kumarajiva), Ðạo
Sinh, Tăng Triệu, Tăng Duệ, Ðạo Dong... của các nước Ngũ hồ ở
phía Bắc Trung Quốc. PG nhà Ðông Tấn ở phương Nam có các ngài
Tuệ Viễn, Giới Hiền, Phật Ðà Ba La (Buddhabhadra)... Về tổng
quan, PGTQ thời đại này có các sự kiện nổi bật là:
- * Phong trào
"nhập Trúc cầu pháp": Theo bước chân của ngài Chu Sĩ Hành của
thời Tam quốc sang Tây vực học đạo, phong trào du học trong thời
đại này đã phát triển khá mạnh với các vị nổi tiếng như ngài
Pháp Hiển, ngài Trí Nghiêm, ngài Bảo Vân. Nhưng đáng kể nhất vẫn
là ngài Pháp Hiển. Ngoài những kinh sách phiên dịch, tác phẩm
Phật quốc ký (còn gọi là Cao tăng Pháp Hiển truyện)
là bộ sách tư liệu PG sử đầu tiên của PGTQ.
- * Giáo đoàn
của PGTQ hình thành: Kể từ ngài Chu Sĩ Hành, vị Tăng sĩ thọ giới
đầu tiên của PGTQ, đến thời Ðông Tấn, số lượng Tăng sĩ đã phát
triển rất nhanh và theo sau đó là sự gia tăng số lượng chùa
cảnh. Ðã có 1.768 ngôi chùa lớn với 23.000 Tăng Ni trong thời kỳ
này. Các tổ chức Tăng đoàn do vậy cũng nhanh chóng được thành
lập. Giáo đoàn PGTQ được hình thành đầu tiên là tổ chức giáo
đoàn của ngài Phật Ðồ Trừng và sau đó là của các ngài Thích Ðạo
An, ngài La Thập ở phía Bắc Trung Quốc. Về phương Nam có tổ chức
giáo đoàn "Bạch Liên xã" của ngài Tuệ Viễn. Các chức vụ Tăng như
Tăng chính, Tăng lục... cũng bắt đầu có trong thời kỳ này.
- * Phiên dịch
bốn bộ kinh điển trọng yếu và sự phát huy của giáo lý Ðại thừa -
nền tảng cho sự thành lập các tông phái: Có thể nói PGTQ là nơi
triển khai mạnh mẽ tư tưởng Ðại thừa PG. Các kinh luận thuộc hệ
thống Ðại thừa PG được phiên dịch và trở thành những bộ sách căn
bản cho giới học Phật nghiên cứu. Trong thời PG Ðông Tấn (kể cả
16 nước thuộc Ngũ hồ ở phương Bắc Trung Quốc), có 4 bộ kinh quan
trọng được phiên dịch là kinh Bát Nhã (bao gồm đại phẩm Bát Nhã
và tiểu phẩm Bát Nhã) và kinh Pháp Hoa do ngài La Thập dịch,
kinh Ðại Bát Niết Bàn do ngài Ðàm Vô Sấm dịch, kinh Hoa Nghiêm
do ngài Giác Hiền dịch. Các bộ luận liên quan đến Bát Nhã được
dịch trong thời kỳ này là Ðại Trí Ðộ luận, Trung luận, Thập Nhị
Môn luận đều do ngài La Thập dịch. Các kinh luận nêu trên cùng
với một số kinh luận Ðại thừa khác, sau khi phiên dịch đã là các
tác phẩm y cứ cho tư tưởng Ðại thừa và ảnh hưởng mạnh mẽ đến
giáo nghĩa của các tông phái PGTQ các thời kỳ sau.
- PGTQ trong
thời kỳ Nam - Bắc triều (420-588 TL) (5) tuy chịu nhiều thăng
trầm do hai lần bị "phế Phật" vào đời vua Võ Ðế - Bắc Ngụy và
vua Võ Ðế - Bắc Chu, cũng như các nghịch duyên về chiến tranh,
nhưng nhìn chung PG vẫn phát triển về mọi phương diện từ tư
tưởng - tín ngưỡng, tổ chức giáo đoàn và các mặt văn hóa vật
chất như kiến trúc, điêu khắc, hội họa...
- Các bậc danh
tăng của Nam triều có các ngài Phật Ðà Thập (Buddhajìva), Cương
Lương Da Xá (Kàlayàsas), Câu Na Bạt Ma (Gunavarman), Cầu Na Bạt
Ðà La (Gunabhadra)... của nhà Tống. Ở nước Tề có các ngài Tăng
Tuệ, Huyền Xướng, Tăng Già Bạt Ða La (Sanghabhadra)... Ðến đời
Lương, vua Lương Võ Ðế rất thâm tín PG. Do vậy, PG ở Nam triều
thịnh phát nhất trong giai đoạn này. Các bậc danh tăng trong và
ngoài nước có rất nhiều như Trí Tạng, Pháp Vân và Tăng Mân đều
là những bậc cao tăng người Trung Quốc .; Bồ Ðề Ðạt Ma
(Bodhidharma), Tăng Già Bà La (Sanghapàla), Ba La Mật Ða
(Paramàntha) tức ngài Chân Ðế. Ðiểm đặc biệt là trong thời nhà
Lương, nhiều bộ luận PG quan trọng cũng được dịch, giảng, và
không khí nghiên cứu học thuật ấy còn được kéo dài cho đến PG
đời Trần.
- PG ở Bắc
triều khá phát triển trong quảng đại quần chúng. Do ảnh hưởng
của hai pháp nạn dưới thời vua Thái Võ Ðế nước Bắc Ngụy (466 TL)
và sau đó hơn 100 năm là của vua Võ Ðế nước Bắc Chu (560 TL),
nên sự phát triển của PG không có tính ổn định như PG Nam triều.
Tuy vậy, không khí sinh hoạt của PG không vì thế mà bị tắc trệ.
Hàng ngàn bậc danh tăng từ Tây vực và Ấn Ðộ vẫn đến Trung Quốc.
Nhiều bộ kinh, luận được phiên dịch từ thời Ðông Tấn hoặc trong
đương đại đã trở thành kim chỉ nam lập tông cho các tông phái PG
như Niết Bàn tông lấy giáo nghĩa kinh Niết Bàn làm chỗ y cứ,
Thành Thật tông theo bộ luận Thành Thật để lập tông. Các tông
phái PG khác cũng theo khuynh hướng trên mà thành lập như Tỳ Ðàm
tông, Tam Luận tông, Tịnh Ðộ tông, Ðịa Luận tông, Thiền tông...
- Như vậy, có
thể nói không khí nghiên cứu học thuật của PG dưới thời Nam -
Bắc triều đã được nâng lên ở mức độ cao hơn và cũng phức tạp
hơn. Ðặc biệt là sự xuất hiện của Thiền tông do Sơ tổ Bồ Ðề Ðạt
Ma với tuyên ngôn "bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền"
(không dựa vào văn tự, chỉ truyền riêng ngoài giáo) thành lập.
Ðiều này dường như phản ánh thái độ cách mạng tư tưởng của PG
giai đoạn này. Bởi lẽ, khi nghiên cứu học thuật trong PG một khi
đã trở thành lối mòn trí thức, gây nhiều tranh cãi luận lý,
thiếu hẳn hơi thở của sự chứng nghiệm thì sự ra đời của tinh
thần chú trọng vào thực nghiệm tâm linh của Thiền tông hẳn là
hết sức cần thiết.
- PGTQ thời
Ðông Tấn và Nam - Bắc triều đã phát triển khá mạnh về mặt nghiên
cứu học thuật, thành lập tông phái và đặt nền tảng cho sự thăng
hoa của PG trong các thời đại sau. Ðến thời Tùy - Ðường, sự ổn
định trong cơ cấu kinh tế - văn hóa xã hội đã tạo điều kiện cho
PG thực hiện những công trình Phật sự quan trọng.
- c/-
Thời đại kiến thiết:
- Cuối thời Nam
- Bắc triều, PG do ảnh hưởng của nạn "phế Phật" nên suy yếu trầm
trọng. Bước sang đời nhà Tùy, được sự ủng hộ của các vị minh
quân Tùy Văn Ðế và Tùy Dạng Ðế nên được phục hưng nhanh chóng.
Sách Lịch sử Phật giáo Trung Quốc viết: "Ngay sau khi tức
vị, vua (Văn Ðế) hạ chiếu dựng chùa ở các danh sơn thuộc Ngũ
Nhạc, và dựng một chùa công cộng lớn ở mỗi châu, gồm có 45 châu,
đều lấy tên là "Ðại Hưng Quốc", công hứa cho dân gian được tự do
đi xuất gia, nên số Tăng Ni đã có tới 100.000 người" (sđd,
tr.135-136). Sau khi Văn Ðế băng hà, tiếp nối truyền thống của
vua cha, Tùy Dạng Ðế cũng tận lực hưng long PG. Năm Khai Hoàng
thứ 11 (năm 591 TL), vua thọ giới Bồ tát với ngài Trí Khải, tổ
chức hội "Thiên Tăng trai" cúng dường cho 1.000 vị Tăng và sau
đó đặt tên hiệu "Trí Giả Ðại sư" cho ngài Trí Khải. Tông Thiên
Thai (Pháp Hoa tông) do vậy cũng được hoằng truyền mạnh mẽ kể từ
đời vua Tùy Dạng Ðế. Các học phái, tông phái có từ trước như Tam
Luận tông có từ thời Ðông Tấn giờ đây được cách tân thành Tân
Tam Luận tông do công của ngài Cát Tạng.
- Các danh tăng
của các học phái nổi bật là các ngài Ðàm Thiên của Nhiếp Luận
tông, ngài Ðàm Diên, ngài Tuệ Viễn của Niết Bàn tông... Các công
trình phiên dịch kinh tạng vẫn tiếp tục với các ngài Na Liên Ðề
Xá (Nàrendrayasas), Xà La Quật Ða (Jnanagupta) và Ðạt Ma Cấp Ða
(Dharmagupta). Ðặc biệt PGTQ đời Tùy có các công trình biên soạn
để chỉnh lý những kinh điển đã phiên dịch từ trước như Chúng
kinh mục lục, Lịch đại Tam bảo ký của các ngài Pháp Kinh,
Phi Trưởng Phòng, Ngạn Tôn đều là các tư liệu rất giá trị cho
việc nghiên cứu lịch sử PGTQ.
- Từ nền tảng
của PG nhà Tùy, PGTQ đời Ðường đã phát triển vượt bậc. Có thể
nói đây là thời kỳ PG phát triển mạnh mẽ nhất trong lịch sử
PGTQ. Gần 300 năm (618-907 TL), PG được các đế vương bảo hộ nên
nhiều bậc cao tăng thạc đức cũng xuất hiện tổ chức các tông phái
PG mang tính quy củ ảnh hưởng không những trong đương đại mà còn
đến tận các thời kỳ sau; không những trong phạm vi Trung Quốc mà
còn quảng bá đến các nước khác như Nhật Bản, Triều Tiên, Việt
Nam... Ðó là Tịnh Ðộ tông của ngài Ðạo Xước, Thiện Ðạo; Nam Sơn
Luật tông của ngài Ðạo Tuyên; Pháp Tướng tông của ngài Huyền
Trang và Từ Ân; Hoa Nghiêm tông của ngài Pháp Tạng; Thiền tông
của ngài Thần Tú và Huệ Năng; Mật giáo của ngài Thiện Vô Úy, Kim
Cương Trí và Bất Không. Sự nghiệp phiên dịch kinh điển và các
tác phẩm trước tác của ngài Huyền Trang đã vượt quá khuôn khổ PG
trở thành một công trình văn hóa - lịch sử của toàn nhân loại.
Tác phẩm Ðại Ðường Tây vực ký (Tây du ký) của Ngài là
nguồn tư liệu vô giá cho khoa văn bản học, văn hiến học... và
các ngành khoa học lịch sử hiện nay. Có thể nói PGTQ kể từ đời
Ðường đã thoát ra khỏi các tư tưởng PG từ thời đại Ðông Tấn và
Nam - Bắc triều và phát triển thành một hệ tư tưởng mới mà về
sau các ngài Nghĩa Tịnh, Bát Nhã, Thiện Vô Úy... kế thừa. Tuy
nhiên, cuối đời Ðường, do chịu pháp nạn Võ Tôn phế Phật (năm 842
TL) nên PG đã kém phát triển, không còn rực rỡ như các giai đoạn
lịch sử PG sơ Ðường và thịnh Ðường trước đó.
- d/-
Thời đại kế thừa:
- Sau thời kỳ
PG toàn thịnh của đời Ðường, PG ở các thời Ngũ đại (gồm Hậu
Lương, Hậu Ðường, Hậu Tấn, Hậu Hán, Hậu Chu), Tống, Liêu - Kim,
Nguyên, Minh vẫn phát triển nhưng không được rực rỡ như trước.
Chủ yếu tư tưởng của PG các thời đại lịch sử nêu trên là kế thừa
các thành tựu của PG đời Ðường. Lần thứ tư trong lịch sử PGTQ,
PG lại gặp pháp nạn "phế Phật" vào đời Hậu Chu theo lệnh của vua
Thế Tôn Anh Mại (năm 955 TL). Ngoài ra, xu hướng thoái hóa trong
tổ chức giáo đoàn phần nào cũng tác động khiến PG thời đại này
hầu như không tạo ra các giai đoạn thăng hoa tư tưởng nào như PG
đời Ðường. Tuy nhiên, có thể nói PG từ Ngũ đại đến đời Minh vẫn
kế thừa được tư tưởng cơ bản của PG thịnh Ðường. PG trong thời
đại này có các sự kiện nổi bật như sau:
- - Sau suốt
200 năm gián đoạn, kể từ đời vua Ðức Tôn cuối nhà Ðường, công
tác phiên dịch kinh điển đến đời Tống lại được phục hưng. Dưới
các triều đại Bắc Tống và sau đó là Nam Tống, PG đã tiến hành
công trình khắc in Ðại tạng kinh PG. Trong suốt đời Tống, tổng
cộng có 5 lần khắc ván ấn hành Ðại tạng kinh. Bản Ðại tạng kinh
(thục bản) khắc vào năm Thái Bình Hưng Quốc thứ 8 (năm 983 TL)
là bộ Ðại tạng kinh lịch sử đầu tiên của PGTQ.
- Về sinh hoạt
của các tông phái PG thì trong các tông phái PG có từ trước, chỉ
Thiền tông vẫn duy trì và phát triển qua các thời kỳ lịch sử.
Các tông phái còn lại vẫn hiện diện nhưng không đạt đến tầm vóc
quốc tế như Thiền tông. Ðến đời Nguyên - Minh, Lạt Ma giáo của
Mật tông Tây Tạng trở thành tông phái chính và có ảnh hưởng khá
mạnh trong xã hội. Vào đời nhà Minh, Ðại tạng kinh Tây Tạng cũng
truyền vào và được chuyển ngữ sang chữ Hán. Tuy nhiên, chính do
khuynh hướng quá chú trọng các hình thức lễ nghi và biểu tượng
hư ảo cộng thêm sự thoái hóa trong tổ chức giáo đoàn đã khiến PG
thời đại Nguyên - Minh dần dần thu hẹp sự phát triển và khởi đầu
cho thời đại suy vi của PG trong các giai đoạn sau.
- e/-
Thời đại suy vi và công cuộc chấn hưng Phật giáo của Thái Hư Ðại
sư:
- Trong 12 đời
vua nhà Thanh từ Thế Tổ Hoàng đến đời vua cuối cùng là vua Tuyên
Thống, suốt gần 250 năm (1622-1911 TL), PG vẫn được xem như tôn
giáo chính thống. Trong các đời vua Thế Tổ Thuận Trị, Thánh Tổ
Khang Hy, Thế Tôn Ung Chính và Cao Tôn Càn Long, tông phái PG
được chú trọng đặc biệt là Lạt Ma giáo (Mật tông). Thiền tông và
Tịnh Ðộ tông là hai tông phái còn có ảnh hưởng trong quần chúng.
PG dưới thời bốn vị vua trên đã có một số công trình Phật sự
quan trọng mà nổi bật nhất là công tác ấn hành và xuất bản Ðại
tạng kinh. Vào đời Thanh có ba bản Ðại tạng kinh được khắc in là
Tục tạng kinh vào đời vua Khang Hy, Long tạng bản khắc in kéo
dài trong hai đời vua Thế Tôn Ung Chính và Cao Tôn Càn Long; Mãn
Châu văn Ðại tạng kinh là bản Ðại tạng kinh Hán được chuyển ngữ
sang chữ Mãn Châu, cũng hoàn thành trong thời vua Càn Long.
Trong ba bản Ðại tạng kinh trên, hai bộ đầu được xem là có nhiều
giá trị nghiên cứu.
- Tình hình
giáo đoàn PG dưới thời nhà Thanh tuy đông đảo về số lượng tự
viện và Tăng Ni, nhưng về thực chất, tổ chức giáo đoàn khá lỏng
lẻo, việc độ người xuất gia tùy tiện khiến cho PG rơi vào tình
hình "có lượng mà không chất". Sách Lịch sử Phật giáo Trung
Quốc viết: "Riêng về giáo học của PG thì không có gì phát
triển mới lạ, chỉ là duy trì các học thuyết của tiền nhân. Trong
giới PG lại không có nhân tài xuất hiện, Tăng Ni không có chí
hoằng pháp. Hơn nữa, PG lại bị tai nạn phá hủy của loạn "Thái
Bình thiên quốc" nên PG ở đời nhà Thanh đã bước xuống dốc suy
vi" (6).
- Sau loạn Thái
Bình thiên quốc, ngày 25-12-1911, Cách mạng Tân Hợi thành công
đã mở ra một thời đại mới cho nhân dân Trung Quốc, PG cũng theo
đó mà có cơ hội phục hưng. Ngay từ năm 1912, Hiệp hội Trung Quốc
PG Tổng hội được thành lập tại Thượng Hải; năm 1913, Trung ương
PG Công hội cũng ra đời tại Bắc Kinh. Tuy nhiên, mãi đến năm
1924, sự nghiệp vận động hộ pháp mới bắt đầu phát triển mạnh mẽ
do công lao của các ngài Thái Hư, Ấn Quang, Ðế Nhàn, Ðạo Giai,
Viên Anh, Nhân Sơn, Vương Nhất Ðình, Ðại Bi... Ðến tháng 8-1931,
PG mới chính thức được sự bảo hộ của Chính phủ. Kể từ đó, PGTQ
nhanh chóng được phục hưng về mọi phương diện, từ tổ chức giáo
đoàn, tông phái đến các công trình Phật sự kiến thiết, trùng tu
danh lam, văn hóa học thuật, xuất bản Ðại tạng kinh... Công cuộc
vận động phục hưng PGTQ không những thành công trong nước mà còn
ảnh hưởng sâu rộng đến PG trên thế giới. PG Việt Nam cũng do đó
mà thành lập nhiều tổ chức hội đoàn PG - Phật học trên cả ba
miền Bắc, Trung, Nam.
-
C- Kết luận
- Lịch sử PGTQ
trên phương diện lịch đại đã trải qua nhiều thăng trầm biến đổi.
Như lớp sóng sau phủ lên lớp sóng trước, các giai đoạn PG đi sau
luôn kế thừa, phát huy những thành tựu của các giai đoạn PG
trước đó tuy mức độ đậm nhạt có khác nhau. Có thể nói PGTQ từ
thời đại phiên dịch đến thời đại kiến thiết đã từng bước đạt đến
đỉnh cao mà thời kỳ rực rỡ nhất là triều đại nhà Ðườâng. Từ thời
đại kế thừa trở về sau, PGTQ cũng đã duy trì được các thành tựu
PG trong các thời kỳ trước đó. Tuy nhiên, đến đời Thanh, ngoài
công trình Phật sự đáng chú ý nhất là công tác in ấn xuất bản
Ðại tạng kinh, sự vắng mặt của các bậc cao tăng khiến cho công
tác quản lý và công tác tổ chức Tăng đoàn lỏng lẻo. PGTQ thời kỳ
này dường như đánh mất vị trí trong lòng người dân. Sự suy vi
của PG do vậy là điều không tránh khỏi. Các phong trào chấn hưng
trong những thập niên đầu thế kỷ XX của Thái Hư Ðại sư đã đem
lại cho PGTQ luồng sinh khí mới. Từ đó đến nay, theo khuynh
hướng ấy, PGTQ đã được phát triển nhanh chóng và trở thành một
tôn giáo có tầm ảnh hưởng rất quan trọng trong đời sống tinh
thần của nhân dân Trung Quốc./.
- -oOo-
-
* Chú thích:
- (1) Theo ý
kiến của các học giả nghiên cứu sử PGVN hiện nay, PG đã du nhập
vào trung tâm Luy Lâu - Giao Chỉ (Việt Nam hiện nay) rất lâu
trước khi truyền sang trung tâm Bành Thành và sau đó là trung
tâm Lạc Dương của nhà Hán.
- (2) Thích
Thanh Kiểm, Lịch sử Phật giáo Trung Quốc, TP HCM, 1991,
tr.6-7.
- (3) Xem
Lục độ tập kinh và Lịch sử khởi nguyên dân tộc ta, Lê
Mạnh Thát, 1972.
- (4) Lịch
sử Phật..., sđd, tr.47.
- (5) Nam triều
gồm các nước Tống (420), Tề (479), Lương (502), Trần - Tùy
(589). Bắc triều có các nước Bắc Ngụy (439), sau chia thành Ðông
Ngụy (534) và Tây Ngụy (535). Kế tiếp triều Ðông Ngụy là Bắc Tề
(550), kế tiếp triều Tây Ngụy là Bắc chu (536). Về sau, Bắc Chu
thôn tính Bắc Tề nhưng cuối cùng bị nhà Tùy diệt vong.
- (6) Lịch
sử Phật..., sđd, tr.271.
-
* Giới thiệu sách đọc thêm:
- 1- Lịch sử
Phật giáo Trung Quốc, tác giả Thích Thanh Kiểm, Thành hội PG
TP HCM xuất bản, 1991.
- 2- Lịch sử
Phật giáo thế giới, tập I (nguyên tác: Thế giới Phật giáo
thông sử, tác giả Thích Thánh Nghiêm, Việt dịch: Trung tâm
Tư liệu Phật học - Phân viện Nghiên cứu Phật học Hà Nội), Nxb Hà
Nội, 1995 (xem Chương VII, từ tr.450 đến tr.461).
- -oOo-
-
Câu hỏi hướng dẫn ôn tập
- 1- Trình bày khái quát
các thời đại phát triển của PGTQ.
- 2- Trình bày và nhận định
ngắn gọn các nguyên nhân chính đưa Phật giáo đời Ðường phát
triển đến mức toàn thịnh (học viên có thể tham khảo các
sách, tư liệu khác để trả lời).
|
--o0o--
|
|