-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Phật Học Cơ Bản
-
Tập Hai
- Ban Hoằng Pháp
Trung Ương
GHPGVN
-
Chương Trình Phật Học Hàm Thụ (1998-2002)
Nguyệt San Giác Ngộ
- --- o0o ---
- Phần
II - Bài 3
- Sơ lược lịch
sử hình thành và phát triển
các tông phái Phật giáo Trung Quốc
- Thích Tâm
Khanh
-
A- Dẫn nhập
- Từ Ấn Ðộ du
nhập vào Trung Quốc, Phật giáo đã nhanh chóng hòa nhập vào các
hệ tư tưởng văn hóa - tôn giáo bản địa. Trong quá trình du nhập,
hình thành và phát triển có thể nói Phật giáo Trung Quốc đã tạo
ra bản sắc riêng so với nguồn cội Ấn, đồng thời đã ảnh hưởng
mạnh mẽ đến hệ thống tư tưởng - văn hóa Trung Quốc. Công lao ấy
thuộc về các bậc cao tăng của nhiều thế hệ Phật giáo Trung
Quốc.Ðây là ý kiến nhận định chung của các nhà nghiên cứu văn
hóa - tư tưởng Trung Quốc: Giáo sư Zenryu Tsukamoto trong tác
phẩm The Path of the Buddha đã nhận định: "Chính nhiều
các thế hệ thiền sư trong nỗ lực truyền giáo đã đưa tư tưởng và
nghệ thuật Phật giáo vào trong nền văn hóa Trung Quốc và đem lại
sự thay đổi vĩ đại trong văn hóa, triết học, văn học, nghệ thuật
và ngay cả trong các tập tục truyền thống của dân tộc Trung
Quốc" (1).
-
B- Nội dung
-
I. Phật giáo và Nho gia: sự tiếp xúc
của hai nền văn hóa Á Ðông
- Văn hóa Trung
Quốc và Ấn Ðộ là hai nguồn tư tưởng văn hóa tối cổ của Á Ðông.
Trước khi Phật giáo, đại diện cho luồng tư tưởng văn hóa Ấn Ðộ
có mặt tại Trung Quốc thì ngay tại bản địa đã hình thành nền văn
hóa khá cao.Trong hệ tư tưởng lúc bấy giờ, Nho gia theo tư tưởng
hiện thực "lễ nghi chủ nghĩa" được xem là hệ tư tưởng chủ đạo.
Tư tưởng Nho gia được khởi đầu từ thời Xuân Thu -Chiến Quốc (kéo
dài từ 722 - 221 TTL) với các học thuyết của Bách gia chư tử và
hoàn thiện trong khoảng 400 năm thời kỳ nhà Hán. Từ khi Phật
giáo Ấn Ðộ và Tây Vực được truyền tới Trung Quốc vào cuối đời
Hậu Hán, có thể nói đây là thời điểm tiếp xúc đầu tiên của hai
nền văn hóa Á Ðông. Dân tộc Trung Quốc theo tinh thần hiện thực
của tư tưởng Nho gia tiếp nhận Phật giáo, và do vậy ngay từ đầu
Phật giáo ở Trung Quốc đã có những nét đổi thay so với cội nguồn
Ấn Ðộ mà biểu hiện rõ là sự hình thành và phát triển của các
tông phái Phật giáo.
-
II. Sơ lược lịch sử hình thành và phát
triển của các tông phái Phật giáo Trung Quốc
- Khác với Phật
giáo Ấn Ðộ, quá trình hình thành và phát triển các tông phái
Phật giáo Trung Quốc luôn đi liền với công tác phiên dịch thánh
điển. Theo quá trình phiên dịch, các tông phái Phật giáo Trung
Quốc thường y cứ và cổ xướng theo tư tưởng của kinh luận để lập
tông.Tuy quá trình phân phái và lập tông đã manh nha từ thời
Ðông Tấn nhưng hoàn chỉnh việc lập tông thì rõ nét nhất là ở
thời đại Nam - Bắc triều. Theo nhận định của các nhà Phật học
như Thích Thanh Kiểm trong "Lịch sử Phật giáo Trung Quốc"
và J. Takakusu trong "The Essentials of the Buddhism
Philosophy" (Các tông phái Phật giáo, bản Việt dịch của Tuệ
Sỹ), chúng ta có thể phác thảo sơ lược lịch sử hình thành và
phát triển của các tông phái Phật giáo Trung Quốc như sau:
- 1.
Tỳ Ðàm tông (Câu Xá tông):
- Tỳ Ðàm (nói
đủ là A Tỳ Ðàm) là tên gọi tắt của Trung Hoa về Abhidharma.
Trước khi luận Câu Xá (Abhidharma Kosa) được dịch sang Hán ngữ
thì đã có một học phái mệnh danh là Tỳ Ðàm tông. Người đầu tiên
nghiên cứu về A Tỳ Ðàm là Ngài An Thế Cao ở đời Hậu Hán. Các tác
phẩm của A Tỳ Ðàm được dịch sang Hán ngữ rất sớm trong giai đoạn
từ 383 đến 434 TL như "A Tỳ Ðàm Cửu Thập Bát Kết Kinh" của Ngài
An Thế Cao, "A Tỳ Ðàm Tâm Luận", "A Tỳ Ðàm Bát Kiền Ðộ
Luận"...của Ngài Tăng Già Ðề Bà đời Tiền Tần. Các học giả thuộc
Tỳ Ðàm tông nổi bật có thể kể đến là các Ngài Huệ Tập, Tăng Mân,
Pháp Vân,Tăng Tung... Tuy nhiên, khi Luận Câu Xá của Ngài Thế
Thân được Ngài Chân Ðế (Paramartha) dịch sang Hán ngữ từ năm
563-567 TL, sau đó là Ngài Huyền Trang dịch từ 651-654 TL và
được truyền bá rộng rãi thì Tỳ Ðàm tông được thay thế bằng Câu
Xá tông.
- 2.
Thành Thật tông:
- Tông này được
lập và cổ xướng từ thời Ngài La Thập theo tư tưởng của Luận
Thành Thật (Satyasiddhi), một bộ luận thuộc Tiểu thừa Phật
giáo.Bộ luận này do Ngài Ha Lê Bạt Ma (Harivarman) viết và được
Ngài Cưu Ma La Thập (Kumàrajìva) chuyển sang Hán ngữ thật
sớm,vào 411-412 TL.Kể từ thời Ngài La Thập về sau, không khí
nghiên cứu học thuật của Thành Thật tông được phát triển nhanh
chóng.Trong khoảng từ 411 đến 498 TL đã có hơn 12 bộ sớ giải của
các môn đồ Ngài La Thập viết về Luận Thành Thật và đã có: "Hàng
trăm buổi giảng thuyết về bản văn này được truyền bá khắp Trung
Hoa" (2). Ðến đời Lương (502-507) thì Thành Thật tông phát triển
cực thịnh và được phổ biến rộng rãi với công lao của ba ngài
Pháp Vân, Trí Tạng và Tăng Mẫn. Trong giai đoạn này, Thành Thật
tông được xem là khuynh hướng Ðại thừa. Thế nhưng, vào đời Tùy,
kể từ khi Ngài Gia Tường Ðại Sư Cát Tạng nhận định Thành Thật
luận là bộ luận thuộc Tiểu thừa Phật giáo thì Thành Thật tông
bắt đầu kém phát triển. Ðến đời Ðường, Ngài Ðạo Tuyên tuyên bố
luận Thành Thật thuộc kinh Lượng bộ,một tông phái Ấn Ðộ được xem
là tiểu thừa, thì Thành Thật tông bước vào thời kỳ suy vi và
không còn phát triển ở các thời kỳ sau đó.
- 3.
Nhiếp luận tông (Pháp tướng tông):
- Nhiếp luận
tông (Samparigraha) là tiền thân của Pháp tướng tông
(Dharmalaksana). Nhiếp luận tông được thành lập từ khi Ngài Chân
Ðế (499-569) dịch và giảng về bộ Nhiếp Ðại Thừa luận
(Mahàyànasamparihraha) Nhiếp Ðại Thừa Luận do Ngài Vô Trước viết
vào thế kỷ V (được Ngài Thế Thân chú giải) là bộ luận đầu tiên
phát biểu học thuyết Duy thức. Ngài Phật Thủ (Buddhasanta) dịch
bộ luận này sang Hán văn lần đầu vào năm 531 TL, nhưng kể từ khi
bản dịch của ngài Chân Ðế vào năm 563 hoàn thành và do nỗ lực
truyền bá của Ngài thì Nhiếp Luận tông mới chính thức phát triển
tại phía Nam Trung Quốc.Sau khi Ngài Chân Ðế viên tịch, do công
lao của ngài Ðàm Thiên nên tông phái này cũng dần dần phát triển
ở phía Bắc Trung Quốc. Ðến đời Ðường, Ngài Huyền Trang đã dịch
lại hai bản "Nhiếp Ðại thừa luận" và "Nhiếp Ðại thừa luận
thích", đồng thời theo học thuyết "Thành Duy Thức luận " của
Ngài Hộ Pháp mà thành lập và truyền giảng tư tưởng Duy Thức.Ðệ
tử Ngài Huyền Trang là Ngài Khuy Cơ là người có công hệ thống
hóa và chính thức thành lập nên Pháp tướng tông. Hai sáng tác
quan trọng của Ngài: "đại thừa Pháp Uyển Nghĩa Lâm Chương" và
"Thành Duy Thức luận thuật ký" là căn bản của tông phái này.
Nhiếp luận tông kể từ đời Ðường đã được hòa nhập vào Pháp tướng
tông.
- 4.
Tam Luận tông:
- Tam luận là
ba bộ Trung luận, Bách luận và Thập nhị môn luận. Lịch sử của
tam luận bắt đầu ở Trung Quốc với sự xuất hiện của Ngài Cưu Ma
La Thập. Ngài là người có công phiên dịch cả ba bộ luận trên
sang Hán ngữ. Quá trình truyền thừa của Tam luận tông bắt đầu từ
thời Ngài Cưu Ma La Thập và được phân thành hai giai đoạn:
- - Giai đoạn
1: Giai đoạn này được sử Phật giáo Trung Quốc gọi là "Cổ Tam
luận tông" gồm các Ngài Cưu Ma La Thập, Ðạo Sinh, Ðàm Tế, Ðạo
Lãng (Tăng Lãng), Tăng Thuyên, Pháp Lãng.Trong đó, Ngài Tăng
Lãng là người có công tách hẳn Tam luận tông khỏi ảnh hưởng của
Thành Thật tông, và Tam luận tông kể từ Ngài Tăng Lãng đã có một
nền móng thật sự.
- - Giai đoạn
2: là giai đoạn truyền thừa của Ngài Cát Tạng. Ngài ngụ ở chùa
Gia Tường nên thường được gọi Gia Tường Ðại Ar Cát Tạng. Ngài đã
trước tác và biên soạn nhiều khá nhiều tác phẩm. Trong đó có 3
tác phẩm Tam Luận sớ, Tam Luận Huyền Nghĩa và Ðại thừa Huyền
Luận đã đem lại một cái nhìn mới cho tông Tam luận. Do vậy, Tam
Luận tông trong thời kỳ của Ngài Cát Tạng được gọi là "Tân Tam
Luận tông".
- Cả hai giai
đoạn trên kéo dài trong hai thế kỷ thứ V và VI TL.Tuy nhiên, khi
Pháp Tướng tông hưng khởi do công của các Ngài Huyền Trang và
Khuy Cơ thì Tam Luận tông tại Trung Quốc đã không còn phát triển
như trước mà được truyền sang và quảng bá tại Nhật Bản do công
Ngài Tuệ Quán (người Cao Ly) và sau đó là Phúc Lượng (người Nhật
Bản).Tam Luận tông bắt đầu có mặt tại Phật giáo Nhật Bản từ thế
kỷ thứ XII.
- 5.
Hoa Nghiêm tông:
- Khai tổ chính
thức của Hoa Nghiêm tông là ngài Ðỗ Thuận (551-640).Pháp danh
của Ngài là Pháp Thuận nhưng vì Ngài họ Ðỗ nên thường được gọi
là Ðỗ Thuận. Tuy nhiên, trước khi Hoa Nghiêm tông chính thức
được thành lập ở đời Ðường thì tại Trung Quốc đã có hai học phái
là Niết Bàn tông và Ðịa Luận tông.
- Niết Bàn tông
là học phái y cứ trên nội dung của kinh Niết Bàn. Ðịa Luận tông
là học phái chuyên nghiên cứu và truyền giảng trên tinh thần và
nội dung của tác phẩm "Thập Ðịa Kinh Luận", bản luận giải của
Ngài Thế Thân về kinh Thập Ðịa (Dasabhumi sutra) vốn là một bộ
phận của Kinh Hoa Nghiêm.Về sau do có nhận thức, giải thích khác
nhau về các chủ đề tư tưởng trong hai bộ kinh luận trên nên cả
Niết Bàn tông và Ðịa Luận tông đều được phân thành hai dòng phía
Bắc và phía Nam. Các nhóm học giả của "Bắc phái Niết Bàn" cũng
như "Nam phái Thập địa" về sau đều hòa nhập vào tông Hoa Nghiêm.
Các bậc cao tăng trong phổ hệ truyền thừa của Hoa Nghiêm tông
của Phật giáo Trung Quốc tiếp theo Ngài Ðỗ Thuận là các Ngài Trí
Nghiễm (602-668), Nghĩa Tương (625-702), Pháp Tạng (643-712),
Trừng Quán (738-839), Tôn Mật (780- 841). Trong các vị trên,
Pháp Tạng là người có công rất lớn trong việc hệ thống hóa toàn
vẹn nền triết học Hoa Nghiêm. Có thể nói Hoa Nghiêm tông trở
thành một tông phái đích thực là do công lao của Ngài.
- 6.
Thiên Thai tông (Pháp Hoa tông):
- Thiên Thai là
tên một hòn núi ở tỉnh Thai Châu miền Nam Trung Quốc. Suốt trong
hai thời đại Trần và Tùy, Ngài Trí Khải (531-597) trú ở núi này
và xiển dương kinh Pháp Hoa. Tông phái do Ngài thành lập do vậy
có tên Thiên Thai tông hoặc Pháp Hoa tông. Trước Ngài Trí Khải,
kinh Pháp Hoa vốn đã là bộ kinh được nghiên cứu rất kỹ ngay sau
khi Ngài La Thập phiên dịch xong bộ kinh này, gồm 7 quyển - 27
phẩm, vào năm 406 TL. Về sau, Ngài Pháp Hiển từ Ấn trở về đã
phiên dịch và bổ sung thêm phẩm Ðề Bà Ðạt Ða vào nên mới có 28
phẩm. Trong giai đoạn đầu, quá trình hình thành giáo nghĩa của
Pháp Hoa tông có liên hệ tới việc nghiên cứu của Ngài Huệ Văn
(505-577) về tư tưởng: "Không - Giả - Trung trong Ðại Trí Ðộ
luận. Ngài đã dựa theo đó mà lập tư tưởng: "Nhất tâm tam quán"
(3). Phương pháp quán niệm này được truyền bá mạnh do công của
đồ đệ Ngài là Ngài Huệ Tư (514-577). Ðồng thời Huệ Tư còn đề ra
pháp tu thiền quán theo tư tưởng "chỉ quán nhất như", tức chủ
trương việc kiêm tu định và huệ. Tuy nhiên, chỉ khi truyền đến
Ngài Trí Khải thì giáo nghĩa Thiên Thai tông mới chính thức được
kiện toàn. Kể từ đấy tông này mới được gọi là Thiên Thai tông.
Từ pháp tu quán "Nhất tâm tam quán", Ngài Trí Khải đề ra một
pháp tu quán mới là "Nhất niệm tam thiên" (4). Sự nghiệp trước
tác, chú sở của Ngài Trí Khải là một công trình đồ sộ, nhưng nổi
bật là ba bộ sách Pháp Hoa Văn Cú, Pháp Hoa Huyền Nghĩa và Ma Ha
Chỉ Quán; giải thích rõ ràng về yếu nghĩa kinh Pháp Hoa.Về sau
ba bộ này được Ngài Quán Ðảnh (561-632), đệ tử truyền thừa của
Ngài Trí Khải soạn tập và thường được gọi là "Pháp Hoa Tam Ðại
Bộ".Sau khi Ngài Quán Ðảnh viên tịch, do sự ảnh hưởng mạnh mẽ
của các tông phái khác như Pháp Tướng, Hoa Nghiêm,Thiền và Chân
Ngôn nên Thiên Thai tông đã suy yếu dần. Ðến thế kỷ thứ VIII,
Thiên Thai tông được phục hưng do công của Ngài Trạm Nhiên
(717-782) và sau đó được Ngài Ðạo Toại, đồ đệ của Ngài Trạm
Nhiên dạy cho Ngài Tối Trừng (người Nhật).Thiên Thai tông chính
thức được truyền sang Nhật Bản kể từ Ngài Tối Trừng.
- 7-
Mật tông (Chân Ngôn tông):
- Chân Ngôn
dịch nghĩa Phạn ngữ "Mantra", nghĩa là "Bí mật giáo", giáo pháp
không thể phát hiểu bằng những ngôn ngữ thông thường. Chân Ngôn
tông hay Mật tông phát xuất từ Ấn Ðộ và được truyền tới Trung
Quốc khá muộn. Vào thời Ðông Tấn, tuy đã có một vài bản kinh
tiếng Phạn được các vị Tăng Ấn Ðộ như Ngài Cát Hữu (Srimitra),
Ngài Bạch Thi Lê Mật Ða La dịch sang Hán ngữ như Ðại Quán Ðính
kinh, Khổng Tước Vương Kinh...và rải ráác các bài thần chú trong
các kinh điển, nhưng đó không phải là thuần túy Mật giáo.Phải
đến đời Ðường (618-907) thì Mật tông mới chính thức du nhập vào
Phật giáo Trung Quốc, khởi đầu với sự hiện diện của ba đại học
giả Ấn Ðộ là Ngài Thiện Vô Úy (Subhakarasimha, 637-735), Ngài
Kim Cương Trí (Vajrabodhi, 671-741), Ngài Bất Không
(Anoghavajra,705-774). Bộ kinh căn bản của Mật tông là bộ Ðại
Nhật kinh được Ngài Thiện Vô úy dịch sang Hánngữ với sự trợ giúp
của đệ tử là Ngài Nhất Hành (cũng là đệ tử của Ngài Kim Cương
Trí, 638-727).
- Sự truyền
thừa của Mật tông tại Trung Quốc tương đối giản đơn hơn các tông
phái khác. Tuy vậy, tông này lại rất được các triều vua Ðường:
Huyền Tông, Túc Tôn, và Ðại Tôn ủng hộ.Ðặc biệt là Ngài Bất
Không đều được ba đời vua trên trọng đãi. Các công trình phiên
dịch kinh điển Mật tông được tiến hành với qui mô đồ sộ.Theo sử
Phật giáo Trung Quốc, Ngài Bất Không cùng với các ngài La Thập,
Chân Ðế và Huyền Trang được gọi là "bốn nhà đại phiên dịch" của
Phật giáo Trung quốc. Không những trong Phật giáo mà Mật tông
còn ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực trong nền văn hóa Trung Quốc
như điêu khắc, kiến trúc, hội họa...Tuy nhiên, do chịu ảnh hưởng
của nạn Võ Tôn phế Phật vào cuối đời Ðường (5) nên Mật tông của
Phật giáo Trung Quốc bị suy yếu trầm trọng nhưng lại được truyền
sang Nhật Bản do thầy trò hai ngài Huệ Quả (người Trung Quốc, đệ
tử Ngài Bất Không) và Không Hải (người Nhật Bản theo học với
Ngài Huệ Quả). Ngài Không Hải là người sáng lập ra "Chân Ngôn
tông" của Phật giáo Nhật Bản.
- 8.
Thiền tông:
- Trong các
tông phái Phật giáo Trung Quốc, Thiền tông là tông phái có tầm
ảnh hưởng quan trọng nhất đối với toàn bộ hệ thống tư tưởng Phật
giáo Trung Quốc từ đời Ðường trở về sau.Ðây là nhận định chung
của hầu hết các nhà nghiên cứu Phật học hiện nay. Nếu xét từ cội
nguồn thì hai phái chính trong hệ thống Thiền tông là Như Lai
Thiền và Tổ Sư Thiền. Như Lai Thiền được xem là phương pháp tu
thiền có cội nguồn từ Phật giáo Ấn Ðộ, trong khi Tổ Sư Thiền lại
có khuynh hướng được xem là sáng tạo riêng của Phật giáo Trung
Quốc và khởi nguyên với sự hiện diện của Ngài Bồ Ðề Ðạt Ma. HT
Thích Thanh Kiểm viết: "Ở Trung Quốc, đời Hậu Hán, Ngài An Thế
Cao đã thông đạt thiền kinh và đã thực hành về Tiểu thừa
Thiền.Nhưng tới khi Ngài La Thập dịch kinh "Tọa Thiền tam muội"
và sau đó Ngài Phật Ðà Bạt Ðà La (Giác Hiền) dịch "Ðạt Ma Ða La
Thiền kinh" thì thời đại cơ vận Ðại thừa Thiền được nhanh chóng
lưu hành. Trong tình thế ấy, lại xuất hiện một hệ thống Thiền
của Tổ Bồ Ðề Ðạt ma và trở thành nền tảng cho Thiền tông các đời
sau" (6).
- Bồ Ðề Ðạt Ma
(Bodhidharma) là thái tử thứ 3, con vua Kancipura xứ Nam Ấn.
Theo lời dạy của thầy là Ngài Bát Nhã Ða La (Prajnàtara), Ngài
sang Trung Quốc vào đời Lương ,khoảng năm 470-520 TL (7). Theo
phổ hệ truyền thừa của Thiền tông Ấn Ðộ, từ Ðức Phật Thích Ca
Mâu Ni đến đời Ngài là thứ 28, nhưng Ngài được xem là người khai
sáng của phổ hệ truyền thừa Thiền tông Trung Quốc gồm; 1/Bồ Ðề
Ðạt Ma. 2/Huệ Khả (? - 593) 3/ Tăng Xán (?-606) 4/ Ðạo Tín
(580-651) 5/ Hoằng Nhẫn (602-675). Bắt đầu từ Ngài Hoằng Nhẫn,
Thiền tông Trung Quốc đã bắt đầu phát triển cực mạnh với sự
truyền giảng của hai ngài Thần Tú (605-706) và Huệ Năng (được
xem là Tổ thứ 6 của Thiền tông Trung Quốc, 638-713). Ngài Thần
Tú truyền giáo ở phương Bắc nên dòng thiền này gọi là dòng thiền
Bắc tông.Tương tự dòng thiền của Huệ Năng được gọi là dòng thiền
Nam tông.Thiền Bắc tông chủ trương giáo pháp tiệm ngộ (sự bừng
sáng của trí tuệ giải thoát có được theo quá trình tu tập thứ
lớp) nên được gọi là "Bắc tiệm".Trong khi đó, Thiền Nam tông lại
có mục tiêu đốn ngộ (giác ngộ ngay, không theo thứ lớp) nên được
gọi là "Nam đốn".Trong các thời đại sau đó,thiền phái của Ngài
Huệ Năng phát triển rất mạnh và phân thành 5 tôn là Lâm Tế, Quy
Ngưỡng, Tào Ðộng, Vân Môn và Pháp Nhãn. Lâm Tế tôn sau lại chia
thành hai phái là Hoàng Long và Dương Kỳ. Năm tôn trên, thêm vào
hai phái sau thường được sử viết là "Ngũ gia thất tôn".
- Vào các thời
đại Nguyên, Minh, Thanh, trong khi một số tôn phái khác bị suy
thoái dần do sự du nhập và phát triển mạnh mẽ của Lạt ma giáo
Tây Tạng thì Thiền tông lại trở thành tông phái phổ biến nhất.
Từ Trung Hoa Dân Quốc đến nay, Thiền tông vẫn là một tông phái
chủ đạo của Phật giáo Trung Quốc.
- 9.
Tịnh Ðộ tông:
- Tịnh Ðộ tông
là tông phái cùng với Thiền và Mật tông có ảnh hưởng trong Phật
giáo Trung Quốc hiện nay.Tịnh Ðộ tông là tông phái chủ trương
pháp môn "Vãng sanh Tịnh Ðộ". Pháp môn tu Tịnh Ðộ ở Trung Quốc
khởi thủy từ khi Ngài Tuệ Viễn lập ra hội "Bạch Liên xã" ở Lư
Sơn vào đời Ðông Tấn, chủ trương quán tưởng niệm Phật, tức quán
niệm tướng tốt của Ðức Phật A Di Ðà. Ðến thời Nam - Bắc triều,
Ngài Bồ Ðề Lưu Chi dịch bộ "Vãng sanh Tịnh Ðộ luận" do Ngài Thế
Thân trước tác và trở thành bộ luận căn bản cho tông Tịnh Ðộ.
Pháp tu Tịnh Ðộ của Ngài Bồ Ðề Lưu Chi được Ngài Ðàm Loan kế
thừa và truyền cho cao đệ là Ngài Thiện Ðạo (613-681). Ngài
Thiện Ðạo là vị có công hoàn thành giáo nghĩa của tông Tịnh
Ðộ.Các tác phẩm của Ngài viết như "Quán Kinh Sớ", "Vãng Sinh Lễ
Tán", "Ban Chu tán", "Quán Niệm Phật Môn", "Pháp Sự tán" bao hàm
giáo lý tinh yếu của Tịnh Ðộ tông, giải thích kinh Quán Vô Lượng
Thọ, bộ kinh trọng yếu của tông phái này.
- Sau Ngài
Thiện Ðạo còn có pháp môn niệm Phật của Ngài Từ Mẫn (Tuệ Nhật,
680-740) nhưng đã chịu ảnh hưởng của Thiền tông.Từ Ngài Từ Mẫn
trở về sau, giáo nghĩa Tịnh Ðộ có khuynh hướng "Thiền Tịnh song
tu". Tịnh Ðộ tông vẫn âm thầm phát triển theo khuynh hướng trên
và được hưng khởi mạnh mẽ vào thời nhà Minh do công của các Ngài
Vân Thê Châu Hoằng (1535-1615), Ngẫu Ích Trí Húc (1599-1655) và
Ðại sư Ấn Quang ở cuối đời nhà Thanh tới thời Trung Hoa Dân
Quốc.
-
10- Luật tông:
- Luật tông là
tông phái nương theo giới luật mà thành lập nên có những điểm
khác với tông phái khác.Giới luật là những qui giới phải tuân
thủ của giáo đoàn Phật giáo. Trước khi truyền vào Trung Quốc,
mỗi bộ phái Ấn Ðộ đều có giới luật của bộ phái mình. Thế nhưng,
khi truyền đến Trung Quốc chỉ có 4 bộ "Ma Ha Tăng Kỳ luật" do
Ngài Pháp Hiển và Phật Ðà Bật Ðà La dịch; "Thập Tụng luật" do
hai Ngài Phất Nhã Ða la và Ðàm Ma Lưu Chi dịch; "Tứ phần luật"
do Ngài Phật Ðà Da Xá đời Diêu Tần dịch; "Ngũ Phần luật" do Ngài
Phật Ðà Thập dịch là được lưu hành. Dưới thời đại Nam - Bắc
triều, việc nghiên cứu Thập Tụng Luật rất được thịnh hành ở
phương Nam; nhưng kể từ khi Ngài Huệ Quang ở Bắc Ngụy bắt đầu
nghiên cứu và truyền giảng Tứ Phần luật thì xu hướng theo Tứ
Phần luật được hưng thịnh. Trong suốt đời Tùy đầu đời Ðường, qua
sự nghiên cứu và giảng giải của các Ngài Pháp Thông đời Bắc
Ngụy, Ngài Ðạo Phú, Ngài Tuệ Quang (468-537), Ðạo Vân, Ðạo
Huy,Trí Thủ (môn đệ của Ngài Ðạo Vân), Hồng Tuân (đệ tử Ngài Ðạo
Huy) thì Tứ Phần luật trở thành bản luật phổ biến của Phật giáo
Trung Quốc. Ðến đời Ðường, Tứ Phần luật tôn hoàn toàn được thành
lập và chia thành ba phái: Nam Sơ tôn của Ngài Ðạo Tuyên, (môn
đồ Ngài Huyền Trang, 596-667), Tướng Bộ tôn của Ngài Pháp Lệ
(569-635) và Ðông Tháp tôn của Ngài Hoài Tố (624-697).Tuy nhiên,
chỉ có Nam Sơn tôn của Ngài Ðạo Tuyên còn được duy trì và phát
triển cho tới ngày nay.
-
C- Kết luận
- Quá trình
hình thành và phát triển của các tông phái Phật giáo Trung Quốc
luôn gắn liền với lịch sử văn hóa - tư tưởng Trung Quốc. Trong
mỗi giai đoạn lịch sử, ở từng thời đại và mỗi triều đại, sự phát
triển của các tông phái Phật giáo Trung Quốc như nước ở trong
đại dương, đôi khi lặng lẽ êm đềm nhưng cũng có lúc hưng khởi
mãnh liệt. Sự hưng khởi của tông phái này dường như là để bổ túc
cho sự suy vi của một tông phái khác. Ðiều này phản ánh trọn vẹn
tinh thần Duyên khởi rất hiện thực của đạo Phật. Tuy nhiên, một
đặc điểm quan trọng cần lưu ý là không bao giờ có sự đối kháng
đến trở thành mâu thuẫn trong quá trình phát triển các tông phái
của Phật giáo Trung Quốc nói riêng và Phật giáo nói chung. Bởi
lẽ toàn bộ quá trình ấy luôn nằm trong tinh thần xây dựng những
tư tưởng hướng nghiệm cho con người trong quá trình sống - tu
tập - đạt đến giải thoát. HT Thích Thanh Kiểm trong sách Lịch
sử Phật giáo Trung Quốc đã viết: "Giáo học của Phật giáo
được cấu thành bởi ba môn học là "Giới học", "Ðịnh học" và "Tuệ
học". Phật giáo Trung Quốc vì nghiên cứu về Tuệ học nên Tam Luận
tông, Thiên Thai tông, Hoa Nghiêm tông được thành lập; vì tu tập
về "Ðịnh học" nên có Thiền tông ra đời; và nương theo "Giới học"
để tu trì nên có Luật tông xuất hiện (8). Ðây có lẽ không phải
là một đặc tính riêng Phật giáo Trung Quốc mà còn là đặc điểm
chung của toàn bộ lịch sử phát triển Phật giáo từ Ấn Ðộ cho đến
các quốc gia có Phật giáo trên thế giới và cả ở Phật giáo Việt
Nam chúng ta hiện nay./.
- -oOo-
-
* Chú thích:
- (1) Kenneth
W. Morgan, The Path of the Buddha, Chapter V: Buddhism in China
and Korea (Zenryu Tsukamoto, translated by Leon Hurvitz).The
Ronard Press Company. NewYork 1956, p 183-184.
- (2) J.
Takakusu, The Essentials of the Buddhism Philosophy (Xem "Các
tông phái Phật giáo" bản dịch Tuệ Sỹ, Tu thư Ðại học Vạn
Hạnh , 1973, tr.147).
- (3) Tam quán
là "Không quán", "Trung quán" và "Giả quán". Nhất tâm tam quán
nghĩa là trong một tích tắc của ý niệm đều có đầy đủ ba tính
chất không , giả và trung.
- (4) Nhất niệm
tam thiên: Theo Ngài Trí Khải, mỗi ý niệm mê vọng của con người
đều bao hàm toàn thể thế giới , nói hẹp là 10 giới (Tứ thánh và
lục phàm), nói rộng là 3000 pháp, có nghĩa là toàn thể thế giới.
Ba tính Không, Giả, Trung trong mỗi ý tưởng đều có quan hệ mật
thiết với nhau, chúng thật ra chỉ là một. Ở đây, Ngài Trí Khải
chủ yếu muốn nêu lên phương pháp quán niệm trên để người tu tập
có nhận thức đúng về bản chất của tâm mình.
- (5) Xem lại
bài PHHT, Ðại cương lịch sử Phật giáo Trung Quốc, phần
2b.
- (6) Thích
Thanh Kiểm, Giáo trình lịch sử Phật giáo Trung Quốc (Tài
liệu giảng dạy của Học viện Phật giáo Việt Nam tại TP.HCM) tr.14
(bản ronéo).
- (7) Tài liệu
của Thích Thanh Kiểm ghi "khoảng năm 470" (Giáo trình lịch sử
...Sđd,t.14) trong khi J. Takakusu trong Essentials of
Buddhism Philosophy lại viết "đến Trung Hoa năm 520" (Xem
"Các tông phái Phật giáo" , bản Việt dịch của Tuệ Sỹ, Tu thư
Ðại học Vạn Hạnh, 1973, tr. 304). Do vậy, chúng tôi ghi khoảng
thời gian ước định để học viên tiện việc tham khảo (tg).
- (8) Thích
Thanh Kiểm, Lịch sử Phật giáo Trung Quốc, Thành hội PG
TP.HCM ấn hành,1991. tr 157.
- (*) Sđd: Sách
đã dẫn.
- (*) TL: Tây
lịch . TTL: trước Tây lịch
-
* Sách tham khảo:
- 1. Kenneth W.
Morgan, "The Path of the Buddha", Chapter V: Buddhism in
China and Korea (Zenryu Tsukamoto, translated by Leon
Hurvitz). The Ronard Press Company. NewYork 1956.
- 2. J.
Takakusu, The Essentials of the Buddhism Philosophy (Các
tông phái Phật giáo; bản Việt dịch của Tuệ Sỹ, Tu thư Ðại
học Vạn Hạnh ấn hành 1991).
- -oOo-
-
Câu hỏi hướng dẫn ôn tập
- Trình bày và nêu nhận định về quá trình hình thành và
phát triển của một tông phái Phật giáo Trung Quốc
(Học viên nên tham khảo thêm các tài liệu khác để trả lời).
|
--o0o--
|
|