-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Phật Học Cơ Bản
-
Tập Hai
- Ban Hoằng Pháp
Trung Ương
GHPGVN
-
Chương Trình Phật Học Hàm Thụ (1998-2002)
Nguyệt San Giác Ngộ
- --- o0o ---
- Phần
II - Bài đọc thêm
- Lịch sử kết
tập kinh luật lần thứ nhất
- Thích Phước
Sơn
- Không bao lâu
sau khi Ðức Thế Tôn nhập Niết bàn, tôn giả Ðại Ca Diếp tập họp
500 vị đại Tỳ kheo tại giảng đường Trùng Các, bên dòng sông Di
Hầu, thành Tỳ Xá Ly, để chuẩn bị kết tập kinh luật. Trong số 500
Tỳ kheo này, 499 vị đã đắc quả A La Hán, chỉ trừ tôn giả A Nan.
- Bấy giờ, tôn
giả Ðại Ca Diếp nói với các vị Tỳ kheo: "Này chư hiền, trên
đường tôi trở về thành Câu Thi (Kusinàrà) để đảnh lễ Ðức Thế Tôn
lần cuối cùng, khi hay tin Ngài nhập Niết bàn, thì có một việc
đáng buồn xảy ra: Trong khi các Tỳ kheo khóc than thảm thiết,
không thể kiềm chế được lòng thương tiếc Ðức Thế Tôn, có người
lảo đảo trên mặt đất, bước đi không nổi, thì Tỳ kheo Bạt Nan Ðà
(Upananda) đang đi trước họ, bảo họ im lặng và nói: "Vị trưởng
lão ấy thường dạy chúng ta nên làm như thế này, không nên làm
như thế kia; nên học những điều này, không nên học những điều
kia, thật là phiền toái.Bọn chúng ta ngày nay mới thoát được nỗi
khổ ấy, tùy ý muốn làm gì làm, không còn ai ngăn cản nữa.Vì sao
các ông lại thương tiếc khóc than?". Ta nghe lời nói ấy, cảm
thấy đau đớn và lo âu. Ngày nay, tuy Phật đã Niết bàn, nhưng
giới luật vẫn còn đó, chúng ta phải hợp sức kết tập lại giới
luật chớ để cho Bạt Nan Ðà cấu kết cùng bè đảng phá hoại chánh
pháp.
- Các Tỳ kheo
đều tán đồng lời nói của tôn giả Ðại Ca Diếp, và thưa rằng:
"Thưa trưởng lão, A Nan thường hầu cận Thế Tôn, Thầy ấy thông
minh, nghe nhiều, gìn giữ kho tàng chánh pháp đầy đủ, nay ta nên
mời Thầy vào trong số những người kết tập luật tạng".
- Tôn giả Ca
Diếp liền bảo: "A Nan còn ở địa vị cần phải học (hữu học),còn bị
tham ái, sân hận, si mê và sợ hãi chi phối, không nên cho tham
dự".
- Thế nhưng,
lúc này tôn giả A Nan đang ở tại thành Tỳ Xá Ly, ngày đêm thường
thuyết pháp cho 4 chúng.Mọi người nghe pháp đông đúc chẳng kém
gì khi Phật tại thế. Tại đây, có một Tỳ kheo người xứ Bạt Kỳ
đang ngồi thiền trên lầu, vì không khí ồn ào không thể du hí
trong tam muội giải thoát, bèn quán chiếu xem A Nan đã giác ngộ
hay chưa, thì thấy rằng A Nan còn ở bậc hữu học, liền đến chỗ A
Nan, đọc lên bài kệ:
- " Ngồi dưới chỗ cây vắng
Tâm hướng đến Niết bàn.
Thiền định chớ phóng dật
Nói nhiều có ích chi?"
- A Nan nghe vị
Tỳ kheo ấy đọc kệ như vậy, lại biết việc Ca Diếp không cho mình
tham dự kết tập luật tạng nên đầu đêm, giữa đêm và cuối đêm đều
siêng năng đi kinh hành, mong cầu được giải thoát, nhưng vẫn
chưa đạt được. Ðến lúc nửa đêm, thân thể mỏi mệt cực độ, thầy
định nằm nghĩ một chút, liền nghiêng đầu xuống gối, khi đầu vừa
chấm gối, thì bỗng dưng dứt hết lậu hoặc. Các Tỳ kheo biết thế
bèn thưa với Ca Diếp: " Ðêm qua A Nan đã được giải thoát, giờ
đây nên cho thầy vào trong số người kết tập luật tạng". Ca Diếp
liền chấp nhận đề nghị ấy. Thế rồi tôn giả chọn thành Vương Xá
làm nơi kết tập; vì ở đây có đầy đủ các phương tiện và thực
phẩm.
- Bấy giờ, 500
vị La Hán liền đến thành Vương Xá. Trong tháng đầu mùa hạ, họ lo
sửa chữa phòng ốc và chuẩn bị ngọa cụ; tháng thứ hai tọa thiền
để hưởng pháp vị giải thoát; đến tháng thứ ba mới tập họp lại
một chỗ. Thế rồi, tôn giả Ca Diếp đề cử tôn giả Ưu Ba Ly kết tập
Luật tạng, và được đại chúng chấp thuận.Ca Diếp bắt đầu hỏi Ưu
Ba Ly: Giới nào Phật chế trước nhất, chế tại đâu, người nào sai
phạm, phạm về tội gì v.v... Ưu Ba Ly trình bày rằng: Phật chế
giới dâm trước nhất, do Tu Ðề Na (Sudinna) vi phạm đầu tiên
v.v...Một người hỏi, một người đáp và cuối cùng hỏi lại đại
chúng, đại chúng cũng hoàn toàn nhất trí với sự trình bày của
tôn giả Ưu Ba Ly. Công việc này kéo dài đến 80 lần mới hoàn tất
gồm đủ cả giới Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni và được đặt tên là Bát thập
tụng luật (Bộ luật được đọc đến 80 lần).
- Tiếp theo,
tôn giả Ca Diếp đề cử tôn giả A Nan kết tập kinh tạng và được
đại chúng nhất trí.Tôn giả A Nan lần lượt kết tập các kinh sau
đây:Tăng nhất, Tăng thập, Ðại nhân duyên, Tăng Kỳ Ðà, Sa môn
quả, Phạm Ðộng và những kinh Phật thuyết giảng cho Tỳ kheo, Tỳ
kheo Ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di, chư Thiên và nhân loại. Những kinh
dài kiết tập thành một bộ gọi là Trường A Hàm, những kinh trung
bình kết tập lại thành một bộ gọi là Trung A Hàm. Những kinh nói
cho nhiều đối tượng như Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di
và chư Thiên kết tập thành một bộ gọi là Tạp A Hàm. Những kinh
lần lượt nói từ một pháp tăng dần đến mười một pháp kết tập
thành một bộ gọi là Tăng Nhất A Hàm. ngoài ra tập họp các kinh
nói bao quát nhiều vấn đề thành một bộ gọi là Tạp Tạng. Thế
rồi,tôn giả Ca Diếp tuyên bố: "Từ nay chúng ta đã kết tập giáo
pháp hoàn tất. Từ nay trở đi, những gì Phật không chế định thì
không được tùy tiện chế định, những gì Phật đã chế định thì
không được vi phạm. Chúng ta phải kính cẩn học tập những gì Phật
đã chế định".
- Tôn giả A Nan
bấy giờ thưa với tôn giả Ca Diếp: "Chính bản thân tôi từng nghe
Phật dạy rằng: "Sau khi ta Niết bàn, nếu thấy những giới nào có
tính cách nhỏ nhặt, các ngươi có thể loại bỏ".
- Ca Diếp liền
hỏi: "Thầy cho những giới nào là nhỏ nhặt?".
- A Nan đáp:
"Không biết".
- - Vì sao
không biết?
- - Vì tôi
không hỏi Thế Tôn.
- - Vì sao
không hỏi?
- - Vì bấy giờ
thân Phật đang bất an, sợ làm não loạn Ngài.
- - Vì thầy
không hỏi ý nghĩa những vấn đề ấy, nên phạm tội Ðột cát la, phải
tự mình nhận tội và sám hối.
- - Thưa Ðại
đức, không phải là tôi không tôn kính giới mà không hỏi ý nghĩa
những vấn đề ấy nhưng vì sợ làm phiền Ðức Thế Tôn, nên không
hỏi. Trong vấn đề này, tôi không thấy mình phạm tội, nhưng vì
kính trọng và tin tưởng Ðại đức, nên tôi xin sám hối.
- - Khi thầy vá
y Tăng già lê cho Thế Tôn, thầy đã dùng chân đạp lên y, do đó,
phạm tội Ðột cát la...(nt).
- - Thưa Ðại
đức, không phải là tôi không kính trọng Phật, nhưng vì lúc đó
không có ai cầm y,nên tôi phải dùng chân đạp lên y để vá...(nt).
- - Thầy đã ba
lần cầu xin Thế Tôn cho phép nữ giới xuất gia trong chánh pháp,
nên phạm tội Ðột cát la...(nt).
- - Thưa Ðại
đức, không phải là tôi không tôn kính pháp, nhưng vì bà Ma Ha Ba
Xà Ba Ðề Cù Ðàm Di từng nuôi dưỡng Thế Tôn đến trưởng thành, rồi
Ngài đi xuất gia mà thành Chánh giác. Công ơn ấy cần phải báo
đáp, nên tôi mới ba lần cầu thỉnh Thế Tôn cho phép nữ giới xuất
gia...(nt).
- - Khi Phật
sắp nhập Niết bàn đã hiện tướng nói với Thầy rằng: Nếu người nào
đạt được bốn thần túc, muốn giữ thọ mạng một kiếp hoặc hơn một
kiếp đều có thể làm được, Ðức Như Lai đã thành tựu vô lượng
thiền định, và đã ba lần hiện tướng nói với thầy như thế mà thầy
không cung thỉnh Phật trụ thế một kiếp, hoặc hơn một kiếp, nên
phạm tội Ðột cát la...(nt).
- - Thưa Ðại
đức, không phải tôi không muốn thỉnh Phật trụ thế lâu dài, nhưng
vì ác ma Ba Tuần che mờ tâm trí của tôi, nên tôi không thưa
thỉnh... (nt).
- - Ngày xưa,
Phật đã ba lần nhờ thầy đi lấy nước cho Phật uống, mà rốt cuộc
thầy không dâng nước cho Phật, nên phạm tội Ðột cát la...(nt).
- - Thưa Ðại
đức, không phải là tôi không dâng nước cho Phật, nhưng vì bấy
giờ có 500 chiếc xe vừa đi qua phía trên dòng sông khiến cho
nước đục sợ uống vào sinh bệnh, nên tôi không lấy nước cho Thế
Tôn...(nt).
- - Thầy đã cho
phép nữ giới lễ Xá lợi Phật trước mọi người, nên phạm tội Ðột
cát la...(nt).
- - Thưa Ðại
đức, không phải tôi muốn cho phép nữ giới lễ Xá lợi Phật trước
nhưng vì trời sắp tối,họ vào thành không kịp, nên tôi mới cho
phép...(nt).
- Tiếp theo,
đại hội cứu xét những giới nào có thể loại bỏ,tôn giả Ca Diếp
trình bày: " Nếu chúng ta xem chúng học pháp (những pháp cần
phải học) là những giới nhỏ nhặt có thể loại bỏ thì các Tỳ kheo
khác sẽ bảo: Bốn giới Ba la đề đề xá ni cũng là những giới nhỏ
nhặt có thể loại bỏ. Nếu chúng ta bảo bốn giới Ba la đề đề xá ni
là những giới nhỏ nhặt, thì các Tỳ kheo khác sẽ bảo: Các giới Ba
dật đề cũng là những giới nhỏ nhặt v.v... giờ đây, chúng ta
không thể khẳng định giới nào là giới nhỏ nhặt mà loại bỏ một
cách tùy tiện thì bọn ngoại đạo sẽ bảo: "Pháp của sa môn Thích
tử giống như mây khói, khi thầy còn sống thì những pháp do thầy
chế định các đệ tử tuân thủ một cách nghiêm túc, nhưng sau khi
thầy nhập Niết bàn, họ không chịu thực hành nữa". Do vậy, tôi
xin khẳng định lại: "Những gì không do Phật chế thì không được
tự ý chế định, và những gì do Phật chế định thì không được vi
phạm. Chúng ta phải kính cẩn học tập những gì mà Phật đã truyền
dạy".
- Sau khi nghe
trình bày, tất cả đại chúng đồng thanh nhất trí với lời tuyên bố
của tôn giả Ca Diếp.
- Lúc này
trưởng lão Phú Lâu Na đang ở phương Nam, nghe Phật Niết bàn tại
thành Câu Thi, và các trưởng lão Tỳ kheo đang kết tập Tỳ Ni pháp
tạng tại thành Vương Xá, liền dẫn đồ chúng đến đó tham dự. Nhưng
khi đến nơi, đại hội kết tập vừa xong.Do đó, trưởng lão yêu cầu
đại hội đọc tụng lại một lần nữa để trưởng lão và đồ chúng cùng
nghe. Ðại hội đã hoan hỷ đáp ứng lời yêu cầu ấy.
- Trong đại hội kết tập này, được
các trưởng lão sau đây chủ trì:
- 1. Trưởng lão A Nhã Kiều Trần Như
làm đệ nhất Thượng tọa
2. Phú Lâu Na làm đệ nhị Thượng tọa
3. Ðàm Di làm đệ tam thượng tọa
4. Ðà Bà Ca Diếp làm đệ tứ Thượng tọa
5. Bạt Ðà Ca Diếp làm đệ ngũ Thượng tọa
6. Ðại Ca Diếp làm đệ lục Thượng tọa
7. Ưu Ba Ly làm đệ thất Thượng tọa
8. A Na Luật làm đệ bát Thượng tọa.
- Vì cuộc kết
tập này vừa đúng 500 vị La hán, không nhiều, không ít, nên được
gọi là cuộc kết tập giáo pháp của 500 vị La hán (ngũ phần luật,
ÐTK.1421, tr 190b- 192a).
-
So sánh và nhận xét
- 1.
Nhận xét tổng quát:
- - Luật ngũ
phần trình bày tóm tắt, cô đọng, và chỉ trình bày về sự kết tập.
- - Luật tứ
phần, ngoài phần trình bày sự kiện kết tập, còn nói thêm đôi nét
về lúc Phật Niết bàn.
- - Luật Thập
tụng trình bày tương đối phong phú nhất, vì còn thêm nhiều chi
tiết lúc Phật Niết bàn.
- 2.
Những vị chủ trì cuộc kết tập:
- - Luật Ngũ
phần (xem lại trước)
- - Luật Tứ
phần ghi: a) Ðà Ê La Ca Diếp, b) Trưởng lão Bà bà Na, c) Ðại Ca
Diếp, d) Trưởng lão Ðại Châu Na.
- Luật Thập
tụng ghi: a) A Nhã Kiều Trần Như, b) Trưởng lão Quản Ðà, c) Thập
Lực Ca Diếp, d) Ma Ha Ca Diếp.
- 3.
Những vấn đề Ca Diếp chất vấn A Nan:
- - Luật Ngũ
phần (tóm tắt những trình bày trên): a)- A Nan không hỏi Phật
những giới nào là nhỏ nhặt có thể loại bỏ, b)- A Nan đạp chân
lên y Tăng già lê của Phật, c)- A Nan đã xin Phật cho phụ nữ
xuất gia, d)- A Nan không xin Phật trụ thế lâu hơn nữa mà để
Phật Niết bàn, e)- A Nan không lấy nước cho Phật uống khi Phật
đang cần. f)- A Nan đã cho phép nữ giới lễ xá lợi Phật trước
nhất.
- - Luật Tứ
phần: Bộ này đề cập đến 7 điều.Riêng điều thứ hai khác hẳn hai
bộ kia, như sau: Phật đã ba lần yêu cầu A Nan làm người cúng
dường mà A Nan nhất quyết không nhận. Còn các điều 1, 3 , 4, 5,
6, thì giống như các điều 1-5 của Ngũ phần, chỉ đảo lộn vị trí.
Ðiều 7 cuối cùng thì viết: A Nan không ngăn nữ giới khiến họ làm
bẩn chân Phật (1) (ÐTK, 1428, tr 966a).
- - Luật Thập
tụng: 5 điều trước giống như Luật ngũ phần, chỉ đảo lộn vị trí.
Riêng điều thứ sáu, luật này nói "A Nan đã để lộ âm tàng tướng
của Phật cho nữ giới xem (2) (ÐTK 1428, tr 449b).
- 4-
Một số khía cạnh khác:
- a. Ðịa điểm
kết tập: cả ba bộ đều nhất trí cho là tại thành Vương Xá.
- b. Thời gian
kết tập: cả ba bộ đều đồng ý cho rằng vào mùa hạ năm Phật Niết
bàn.
- c. Số người
tham dự kết tập: cả ba bộ đều ghi nhận con số 500 vị La hán.
- d. Người phấn
khởi nhất khi hay Phật nhập Niết bàn: cả ba bộ đều cho là Tỳ
kheo Bạt Nan Ðà, một Tỳ kheo bán thế xuất gia khi đã lớn tuổi.
- e. Tất cả đều
đồng ý giữ nguyên những gì Phật chế, nhưng tùy nghi áp dụng,
không thêm cũng không bớt.
- g . Vấn đề
tạng Luật: cả 3 bộ đều nhất trí cho rằng kết tập Luật tạng trước
do Ưu Ba Ly đảm trách, Kinh tạng sau, do A Nan thực hiện,
- - Bộ Ngũ
phần: chỉ nói kết tập tạng Luật và tạng Kinh. Hai bộ kia thì bảo
kết tập cả Luận tạng và do A Nan phụ trách, như sau:
- - Bộ Tứ phần
nói: điều gì liên quan đến những việc làm có nạn hay không có
nạn, đều tập họp lại thành tạng Luận.
- - Bộ Thập
tụng nói: Phật dạy rằng ai phạm 5 tội - sát sinh, trộm cắp, tà
dâm, vọng ngữ, uống rượu thì sau khi chết sẽ đọa vào địa ngục
nhanh như tên bắn, đó là tạng Luận. Bộ này nói rõ: Từ nay trở
đi, mở đầu tất cả các bộ Kinh, Luật, Luận đều dùng câu "Như thị
ngã văn, nhất thời ...." (Tôi nghe như vầy, một thuở...)
- Có một điều
khiến chúng ta phải lưu ý:tuy xuất phát từ một đại hội kết tập
mà khi tường thuật lại vẫn có những điều dị biệt. Ðó là do trình
độ ghi nhận, phương thức trình bày và quan điểm của mỗi bộ phái.
Thế nhưng, đặc biệt tư liệu này nằm trong luận tạng, được bảo
trì khá tốt, và tương đối còn giữ được tính chất nguyên thủy và
trung thực, chưa bị tình trạng "tam sao thất bổn" làm cho sai
lạc. Vì vậy, khi đề cập đến lịch sử kết tập Tam tạng giáo điển,
chúng ta có thể yên tâm phần nào trong việc dẫn chứng về phương
diện sử liệu./.
-
* Chú thích:
- (1) Tôn giả
Ca Diếp chất vấn A Nan: "Vì sao thầy không ngăn cản nữ giới để
họ làm bẩn chân Phật?", A Nan đáp: "không phải tôi cố ý làm như
vậy, nhưng vì tâm hồn nữ giới rất mềm yếu, nên khi đảnh lễ chân
Phật, họ khóc lóc làm rơi nước mắt trên chân Phật, khiến chân
Phật bị nhiễm bẩn".
- (2) Tôn giả
Ca Diếp hỏi A Nan: "Vì sao thầy để lộ âm tàng của Phật cho nữ
giới xem?", A Nan đáp: "Vì nữ giới phúc đức mỏng manh, nên muốn
cho họ xem tướng âm tàng của Phật. Khi thấy rồi họ sẽ nhàm chán
cái thân nữ giới, sau đó mong được cái thân nam tử, nên tôi cho
họ xem".
--o0o--
|
|