-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Phật Học Cơ Bản
-
Tập Hai
- Ban Hoằng Pháp
Trung Ương
GHPGVN
-
Chương Trình Phật Học Hàm Thụ (1998-2002)
Nguyệt San Giác Ngộ
- --- o0o ---
- Phần
II - Bài đọc thêm
- Lịch sử kết
tập kinh-luật-luận lần thứ ba
- Thích Phước
Sơn
- Sau Phật Niết
bàn 100 năm thì Ðại hội kết tập Pháp Tạng lần thứ hai diễn ra,
và sau lần kết tập lần thứ 2 đúng 118 năm lại diễn ra cuộc kết
tập lần thứ 3. Như vậy lần kết tập này xảy ra sau Phật Niết bàn
218 năm, tức là 325 năm trước Tây lịch. Ðại hội lần này do Hoàng
đế A Dục (Asoka) đề xướng và bảo trợ .
- Vua A Dục ra
đời khoảng 200 năm sau Phật Niết Bàn, tức khoảng 340 năm trước
Tây lịch. Lúc ông còn trẻ vốn tính tình hung bạo, nên không được
phụ vương yêu thích, do đó ông bị đưa đi trấn nhậm một vùng đất
xa xôi. Ðến khi phụ vương băng hà, ông liền đem quân về triều,
giết người anh cả là Hoàng thái tử Tu Ma Na (Sumara) và tất cả
những người anh em khác, chỉ để lại người em cùng mẹ là Túc Ðại
Ða (còn gọi là Ðế Tu) rồi lên ngôi vua. Sau khi tức vị, trong
khoảng 3 năm đầu, nhà vua chỉ phụng sự ngoại đạo, theo truyền
thống của tiên vương để lại.Ðến năm thứ ba, nhân trông thấy một
Sa di tên Nê Cù Ðà (Nigrodha) oai nghi tề chỉnh, tướng mạo đoan
trang, nên vua phát tâm tín kính Phật pháp.
- Vị Sa di này
chính là con của Tu Ma Na khi vua sát hại các người anh em trong
hoàng tộc, thì người chị dâu, vợ Tu Ma Na, đang mang thai, trốn
được.Sau đó bà sinh ra Nê Cù Ðà.Lúc Nê Cù Ðà lên 7 tuổi, thì
được A la hán Bà Lưu Na (Mahàvaruna) độ cho xuất gia làm Sa di.
Chuyện kể rằng, lúc Bổn sư thế phát, tóc rơi chưa tới đất thì Nê
Cù Ðà đã đắc quả La hán. Vị Sa di này, trong một tiền kiếp xa
xưa, vốn là anh của A Dục. Hai anh em cùng mộ đạo tu hành, tạo
nhiều công đức. Do nhân duyên ấy nên khi vừa thấy ông, vua A Dục
đã có thiện cảm ngay tức khắc.Hơn nữa, nhờ đã gieo trồng phước
đức trong quá khứ, nên nhà vua dễ dàng kính tín Tam bảo, và phát
tâm cúng dường Tăng chúng một cách nhiệt thành. Số người nhận
được sự cúng dường của Vua lên đến 6 vạn người trong mỗi ngày.
Ðồng thời, vua cho xây cất 84.000 ngôi già lam, và kiến tạo
84.000 ngôi bảo tháp trong khắp quốc độ, cũng như tại các nước
chư hầu xung quanh.
- Khi các ngôi
bảo tháp và tự viện hoàn thành, nhà vua mở tiệc khánh hạ, cúng
dường rộng rãi chư Tăng. Nhân thấy oai nghi tề chỉnh và đạo hạnh
thanh cao của Thánh chúng, nhà vua càng thêm tin tưởng Phật pháp
nhiệm mầu. Do đó, vua cho một người con trai là Ma Sẩn Ðà
(Mahinda) và một người con gái tên là Tăng Già Mật Ða
(Sanghamitta) cùng xuất gia một lúc.Ma Sẩn Ðà bấy giờ đúng 20
tuổi.Hòa thượng Bổn sư của Thầy là Mục Kiền Liên Tử Ðế Tu
(Moggaliputta - tissa) và Tăng Già Mật Ða vừa 18 tuổi, Hòa
thượng Bổn sư của cô là Ðàm Ma Ba La (Dhammapàli).
- Nhà vua càng
ngày càng nhiệt thành ủng hộ Phật pháp, cúng dường Tăng chúng
một cách trọng hậu, thì ngoại đạo đi khất thực mỗi ngày mỗi trở
nên khó khăn. Do đó, họ gia nhập vào hàng ngũ Tăng chúng càng
lúc càng đông. Trong số đó, có người xuất thân từ đạo thờ lửa,
có người theo đạo lõa thể, và có người theo đạo dầm nước lạnh.
Do tiêm nhiễm lối sống ngoại đạo, nên mặc dù đã vào trong Tăng
chúng, các Tỳ kheo tân tòng này vẫn hành xử như ngoại đạo. Thậm
chí, họ còn đem giáo luật ngoại đạo ra giảng dạy cho tín chúng,
khiến cho Phật pháp trở nên hỗn loạn.Vì thế, các Tỳ kheo chân
chính không thể hòa hợp bố tát, tự tứ và làm Phật sự chung với
họ. Tình trạng bất ổn cứ kéo dài mãi, khiến Tăng chúng sống
trong sự rạn nứt, bất hòa, suốt 7 năm mà không bố tát được. Vua
A Dục chứng kiến tình trạng chia rẽ của Tăng đoàn như vậy, nên
rất đau lòng. Nhằm chấn chỉnh lại hàng ngũ Tăng chúng, vua bèn
sai một viên quan đại thần đem sắc lệnh của mình đến các tự
viện, truyền cho Tăng chúng phải cùng nhau hòa hợp Bố Tát. Nhưng
họ không nói gì cả. Vị quan Khâm sai không biết làm thế nào,
đành phải trở về triều, bàn bạc với một viên quan đồng liêu.Vị
quan này bèn hiến kế bằng cách gợi ý: "Tôi thấy đại vương khi
chinh phục các nước, hễ ai không tuân lệnh thì giết chết; trường
hợp này cũng phải làm như thế".
- Nghe bạn nói
có lý, viên Khâm sai liền trở lại tu viện, chất vấn vị Thượng
tọa: "Ðại vương đã có sắc lệnh khiến Tăng chúng phải hòa hợp
thuyết giới, vì sao các vị không phục tùng?". Thượng tọa đáp:
"Thưa thượng quan. vì các thiện Tỳ kheo không chịu bố tát chung
với các Tỳ kheo ngoại đạo, chứ không phải không phục tùng".
- Ngay lậạp tức, viên Khâm sai
liền tuốt gươm giết vị Thượng tọa ấy, và lần lượt giết đến chỗ
Tỳ kheo Túc Ðại Ða, Túc Ðại Ða lền bảo vị ấy dừng tay lại không
được cuồng sát bừa bãi những người vô tội.Viên Khâm sai đành
phải dừng tay, rồi trở về triều để yết kiến nhà vua.
- Bây giờ nói
về nguyên nhân khiến cho Túc Ðại Ða đi tu: Sau khi vua A Dục lên
ngôi bèn phong cho em là Túc Ðại Ða làm Thái tử. Một hôm Túc Ðại
Ða vào rừng du ngoạn, bỗng thấy các con ni làm việc theo bản
năng chúng sinh để duy trì nòi giống. Ông nghĩ: "Các con nai này
ăn cỏ xanh, uống nước lã, mà còn như thế, thì các chư Tăng ở
trong phòng kín, có chăn êm nệm ấm, ăn uống no đủ thì lẽ nào lại
không việc ấy". Thế rồi ông trở về hoàng cung, đem ý nghĩ ngây
thơ của mình trình bày với hoàng huynh A Dục, vua nghe thế, tự
nhủ: "Thật quái lạ! Chuyện không đáng nghi ngờ mà bỗng dưng sinh
nghi ngờ. Có khác nào nơi bình địa bỗng khởi phong ba!". Do đó,
để dạy cho Túc Ðại Ða một bài học, vua âm thầm sắp đặt mưu kế,
khiến Túc Ðại Ða phạm phải tội nặng đáng bị tử hình. Lúc ấy, vua
phẫn nộ bảo với em mình: "Nay ta ban cho ngươi một ân huệ cuối
cùng, cho phép ngươi làm vua trong vòng 7 ngày, sau đó ta sẽ trị
tội".
- Thế rồi Túc
Ðại Ða được lên ngôi báu, ngự nơi lầu son điện ngọc, có cung tần
mỹ nữ, đờn ca xướng hát và đủ các thứ sơn hào hải vị không thiếu
thứ gì. Nhưng ông chẳng màng để tâm đến những thứ ấy mà chỉ
ngong ngóng sợ chết đến nỗi thân thể cực kỳ tiều tụy.
- Sau 7 hôm, A
Dục hỏi Túc Ðại Ða trong thời gian qua hưởng vinh hoa phú quí
tột bực như vậy có cảm thấy thích thú hay không, thì Túc Ðại Ða
thực thà bộc bạch hết những tâm sự khổ đau của mình. Vua liền
bảo: "Chỉ vì biết trước sinh mệnh mình trong 7 hôm nữa sẽ kết
thúc mà ngươi còn hốt hoảng, quên ăn bỏ ngủ, thân thể trở nên
tàn tạ đến thế, huống gì các Tỳ kheo trong từng hơi thở đều nghĩ
đến lẽ vô thường, không biết cái chết đến lúc nào, thử hỏi còn
tâm trí đâu nữa mà đắm trước những vật dục ở đời?".
- Ðược lời như
cởi tấm lòng, Túc Ðại Ða liền sinh tín tâm đối với Phật pháp và
chẳng bao lâu ông phát tâm xuất gia làm một Tỳ kheo.
- Nhắc lại việc
trước, khi viên quan Khâm sai bị Túc Ðại Ða ngăn lại. Ông liền
trở về triều tâu lên nhà vua sự kiện diễn tiến vừa rồi.Vua nghe
thế vô cùng kinh ngạc, đau đớn tột cùng, ngất xỉu, té quỵ xuống
đất. Hồi lâu vua mới tỉnh lại, thống trách viên quan ấy: "Trẫm
sai khanh đến tu viện là để truyền lệnh cho các Tỳ kheo phải hòa
hợp thuyết giới chứ đâu phải bảo đến giết họ!". Thế rồi, vua tức
tốc ngự giá đến hỏi chư Tăng, trong trường hợp vừa rồi, vua có
tội hay viên Khâm sai kia có tội.Trong các Tỳ kheo, có người nói
do có lệnh của vua mà Tăng chúng bị chết oan, nên vua có tội. Có
người thì bảo cả hai đều có tội. Nhưng có người bình tĩnh hơn,
hỏi vua có ý định giết hại hay không, thì vua đáp là chỉ muốn
xây dựng Tăng đoàn, tạo lập công đức chứ không có tâm sát hại.
Vị ấy kết luận: "Nếu tâm đại vương như thế, thì đại vương vô
tội,mà kẻ giết người kia có tội"
- Qua những
trình bày khác nhau như thế, vua càng thêm phân vân, liền hỏi
các Tỳ kheo, ai có thể làm cho vua hết nghi hoặc. Các Tỳ kheo
bảo rằng chỉ có trưởng lão Mục Kiền Liên Tử Ðế Tu, người đã đạt
tam minh, chứng quả A la hán, mới có thể chấm dứt được sự nghi
ngờ của vua mà thôi.Sau khi nghe lời chỉ dẫn, vua liền cáo từ
các Tỳ kheo, trở về cung đình, chuẩn bị lễ cúng dường.Chuẩn bị
xong các việc, vua phái người đến tu viện cung thỉnh Mục Kiền
Liên Tử Ðế Tu và đại chúng vào triều thọ trai.Thọ trai xong, vua
mời trưởng lão Ðại Tu cùng Tăng chúng đến một đạo tràng đã được
thiết lập tại Viên Lâm (Uyỳana). Khi đến nơi, để biết chắc
trưởng lão có thể đoạn trừ được điều nghi ngờ của mình hay
không, vua thỉnh cầu trưởng lão thi thố vài phép thần thông.
Trưởng lão đã hoan hỷ đáp ứng lời yêu cầu ấy khiến vua rất khâm
phục nghĩ rằng ác pháp sẽ diệt trừ, Phật pháp sẽ lại trùng hưng.
Thế rồi, vua đem sự việc trước kia ra chất vấn trưởng lão.
Trưởng lão bèn hỏi lại nhà vua: "Khi ấy đại vương có tâm sát hại
hay không?", vua đáp: "Ðệ tử chỉ mong có công đức,chứ không có
tâm sát hại". Trưởng lão khẳng định: "Nếu không có tâm giết hại
thì đại vương vô tội". Rồi trưởng lão đem kinh Bản sinh ra giảng
cho vua nghe. Sau khi nghe pháp, mọi thắc mắc trong lòng của vua
đều giải tỏa. Tiếp đến trưởng lão trình bày thế nào là đúng
luật, thế nào là trái luật, thế nào là đúng pháp, thế nào là phi
pháp, những gì do Phật dạy và những gì không phải do Phật
dạy...Vua được diễm phúc nghe pháp liên tục như thế suốt 7
ngày.Với tâm trạng hân hoan sau khi nghe pháp, vua nghĩ rằng lần
kết tập pháp tạng này chắc chắn sẽ thành công, liền sai người
ngăn đạo tràng ra thành hai khu vực a và b. Những ai cùng một
kiến giải thì ở chung một khu vực. Ðồng thời mỗi khu vực cử ra
một vị đại diện để trả lời những điều vua hỏi.
- Thế rồi, vua
hỏi vị đại diện của một khu vực: "Thưa Ðại đức, Phật pháp như
thế nào?". Họ bèn lao nhao lên. Có người bảo là thường; có người
bảo là đoạn; có người nói là có tưởng, có người nói là không
phải tưởng cũng không phải không tưởng; có người nói là thế gian
Niết bàn...".
- Vua nghe họ
đáp lung tung như thế, biết chắc nhóm Tỳ kheo này đích thực là
ngoại đạo, chứ không phải Tỳ kheo chân chính. Do đó, vua ra lệnh
họ cởi bỏ pháp phục, ban cho y phục màu trắng, và đuổi ra khỏi
Tăng đoàn. Rồi vua sang khu vực của 6 vạn Tỳ kheo kia, lên tiếng
hỏi vị đại diện: "Thưa Ðại đức, Phật pháp như thế nào?". Vị ấy
đáp: "Thưa đại vương, Ðức Phật phân biện giảng dạy theo từng
trình độ". Quay sang trưởng lão Mục Kiền Liên Tử Ðế Tu, vua hỏi:
"Có đúng thế không, thưa Ðại đức?". Trưởng lão đáp: "Ðúng thế,
thưa đại vương".Biết Phật pháp đã được thanh tịnh, vua bèn thỉnh
cầu chư Tăng thuyết giới bố tát trở lại, và sai người bảo vệ
chúng Tăng rồi từ biệt, hồi loan.
- Sau khi vua
rời khỏi đạo tràng, 6 vạn Tỳ kheo liền suy cử trưởng lão Mục
Kiền Liên Tử Ðế Tu làm chủ tọa và tuyển chọn 999 Tỳ kheo tinh
thông tam tạng, đã đắc tam minh,mở cuộc đại hội kết tập pháp
tạng. Thể thức kết tập lần này giống hai lần trước, không khác
gì cả.Do vậy, Phật pháp trở lại thanh tịnh, mọi hỗn loạn, cấu uế
đều được dẹp trừ.
- Ðại hội kết
tập lần này trải qua 9 tháng thì hoàn tất, do trưởng lão Mục
Kiền Liên Tử Ðế Tu làm chủ tọa, 999 vị Tỳ kheo A la hán tham dự,
nên gọi là cuộc kết tập của 1000 vị La hán.
- Sau khi kết
tập, trưởng lão Mục Kiền Liên Tử Ðế Tu bèn soạn ra luận thư để
phản bác nghĩa lý của các phái ngoại đạo đương thời. Ðến khi
biết mình sắp viên tịch, trưởng lão bèn sai vị cao đồ là Ðại đức
Ma Sẩn Ðà đem luật tạng truyền sang nước Sư Tử (Srilanca:Tích
Lan). Vâng lệnh sư phụ, Ðại đức Ma Sẩn Ðà đem giáo pháp sang
Tích Lan truyền bá. Ðến khi sắp viên tịch, Ðại đức lại đem
truyền cho đệ tử là A Túc Tra (Arittha); A Túc Tra truyền cho đệ
tử là Ðế Tu Ðạt Ða (Tissadatta); Ðế Tu truyền cho đệ tử là Già
La Tu Mạt Na (Kàlasumana); Già La Tu Mạt Na truyền cho đệ tử là
Ðịa Già Na (Dìghanàmaka); Ðịa Già Na truyền cho Tu Mạt Na
(Dìghasumana); Tu Mạt Na truyền cho Ðàm Vô Ðức (Dhamarakkhita);
Ðàm Vô Ðức truyền cho Ðế Tu (Tissa); Ðế Tu truyền cho Ðề Bà
(Deva); Ðề Bà truyền cho Tu Mạt Na (Sumana); Tu Mạt Na truyền
cho Chuyên Na Già (Cùlagàna); Chuyên Na Già truyền cho Ðàm Vô Ba
Li (Dhammapàlinàma); Ðàm Vô Ba Li truyền cho Xí Ma (Khemanàma);
Xí Ma truyền cho Ưu Ba Ðế Tu (Upatissa); Ưu Ba Ðế Tu truyền cho
Pháp Cự (?); Pháp Cự truyền cho A Bà Gia (Abhaya); A Bà Gia
truyền cho Tiểu Ðề Bà (Cùladeva); Tiểu Ðề Bà truyền cho Tư bà
(Sìva).
- Ðó là các
luận sư trí tuệ đệ nhất, thần thông vô ngại, ái tận La hán, thầy
trò truyền nhau, đến nay không dứt (Thiện Kiến Luật Tỳ Bà Sa,
quyển I,II ÐTK 24, tr 678b - 684).
-
Vài điều ghi nhận:
- 1. Lý do kết
tập: Vì các ngoại đạo trà trộn vào hàng ngũ Tăng đoàn làm cho
Tăng chúng bất hòa và Phật pháp trở nên hỗn loạn, nên mới mở đại
hội kết tập.
- 2. Thời gian
kết tập: Lần kết tập này diễn ra sau khi Phật Niết Bàn 218 năm,
tức trước Tây lịch 325 năm. Và công việc được thực hiện trong
thời gian 9 tháng.
- 3. Ðịa điểm
kết tập: Tại Viên Lâm (Uyỳana), thành Hoa Thị (Pàtaliputta) nước
Ma Kiệt Ðà (Magadha).
- 4. Vị chủ tọa
cuộc kết tập: Trưởng lão Mục Kiền Liên Tử Ðế Tu (Moggaputta -
Tissa).
- 5. Số người
tham dự kết tập: gồm 1000 vị A La Hán (kể cả vị chủ tọa) đã
chứng Tam minh, tinh thông Tam tạng.
- 6, Người khởi
xướng và bảo trợ cuộc kết tập: Hoàng đế A Dục (sinh khoảng năm
350 trước Tây lịch).
- 7. Giá trị
của cuộc kết tập: hai lần kết tập thứ nhất và thứ nhì sử Phật
giáo Nam truyền và Bắc truyền đều có ghi chép, và đều công nhận.
Nhưng lần kết tập thứ ba này chỉ thấy ghi lại trong Thiện Kiến
Luật Tỳ Bà Sa (bộ sớ giải Luật tạng của Nam truyền) và Ðảo sử
Tích Lan. Còn thư tịch của Bắc truyền không ghi chép. Vì quan
điểm của Bắc truyền cho đây là sự kết tập của Bộ phái mà thôi,
nên không công nhận như một cuộc kết tập chính thức./.
--o0o--
|
|