-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Phật Học Cơ Bản
-
Tập Hai
- Ban Hoằng Pháp
Trung Ương
GHPGVN
-
Chương Trình Phật Học Hàm Thụ (1998-2002)
Nguyệt San Giác Ngộ
- --- o0o ---
- Phần
II - Bài đọc thêm
- Lịch sử kết
tập Pháp tạng lần thứ tư
- Thích Phước
Sơn
-
I- Thuyết thứ nhất
- Sau Phật Niết
bàn khoảng 400 năm, tại nước Kiền Ðà La (Gandhàra) có vua Ca Nị
Sắc Ca (Kanishca) trị vì, đất nước phú cường, danh vang khắp nơi
,các nước xung quanh đều quy phục. Trong những lúc rảnh rỗi việc
triều đình, nhà vua thường đọc kinh Phật. Mỗi ngày vua thỉnh một
vị cao tăng vào cung thuyết pháp. Nhưng vua thấy quan điểm mỗi
người một khác, không ai giống ai, nên rất băn khoăn, không biết
làm sao để giải tỏa. Vì vậy vua liền thỉnh giáo Hiếp Tôn Giả
(Parsva), Hiếp Tôn Giả liền thưa: " Tâu Ðại vương, vì đức Như
Lai nhập diệt trải qua năm tháng đã lâu, các đệ tử thường dựa
theo quan điểm của thầy mình, có những nhận thức bất đồng, do đó
mà sinh ra mâu thuẫn với nhau".
- vua nghe nói
thế rất lấy làm buồn lòng, trầm ngâm hồi lâu, rồi bạch với tôn
giả: "Trẫm nhờ hưởng được phúc đức của tổ tiên, nên được kế thừa
tông miếu, cai trị muôn dân, nay tuy xả cách Thánh nhân (Phật),
nhưng còn may mắn nếm được pháp vị. Trẫm muốn quên sự hèn kém
của mình, dốc lòng thiệu long chánh pháp, mở đại hội kết tập
pháp tạng để thống nhất những quan điểm riêng của các bộ phái".
- Hiếp Tôn Giả
tán thán: "Ðại vương đã gieo trồng căn lành từ đời trước, nên
đời này đủ phước lộc, lại lưu tâm đến Phật pháp,thực là hợp với
nguyện vọng của bần tăng". Thế rồi, vua truyền lệnh triệu tập
các bậc thánh triết xa gần. Nhận được sắc chỉ, các bậc minh
triết thông đạt tam tạng, những bậc hiền tài xuất chúng từ bốn
phương vân tập về kinh thành.Vua bèn thiết lễ cúng dường suốt 7
ngày, và bàn kế hoạch mở đại hội kết tập. Nhưng thấy số người
khá đông đúc, sợ khó tránh khỏi ô hợp, nên vua đem điều thao
thức của mình trình lên Tăng chúng rồi truyền lệnh: "Những vị
nào đã chứng đắc Thánh quả thì ở lại, những vị nào còn triền
phược xin hãy trở về chỗ cũ". Tuy vậy, chúng hội vẫn còn quá
đông, nên vua lại ra lệnh: "Các bậc vô học (chứng quả A la hán)
xin hãy ở lại,còn các bậc hữu học hãy ra về. Thế nhưng số người
vẫn còn nhiều, vì thế vua lại hạ lệnh: "Những vị đầy đủ tam minh
lục thông hãy ở lại, còn những vị khác đều hãy trở về". Nhưng
hội chúng vẫn còn đông, buộc lòng vua phải hạ lệnh một lần cuối
cùng: "Những ai đối với nội giáo thì tinh thông Tam tạng, đối
với ngoại điển thì quán triệt ngũ minh, xin mời ở lại, còn những
vị khác xin hoan hỷ lui về trú xứ".
- Chung cục,
sau bốn lần gạn lọc, số người còn lại tính được 499 người.Lúc
ấy, nhà vua thấy trong nước mình hay mưa nắng bất thường, sợ làm
khổ nhọc các vị tôn túc, nên định đưa hội chúng đến thành Vương
Xá - nơi thạch thất mà tôn giả Ca Diếp xưa kia đã kết tập giáo
pháp - mở đại hội kết tập.Nhưng Hiếp Tôn Giả cùng các vị tôn túc
can rằng: "Thưa Ðại vương, không nên. Vì ở đó có nhiều ngoại
đạo, nhiều luận sư khác phái rất phức tạp. Chúng ta sẽ phải bận
rộn thù tiếp,giao tế với họ mất hết thì giờ, ắt hẳn sẽ gây trở
ngại công việc kết tập và soạn ra luận giải. Hơn nữa, đại chúng
giờ đây đều nhất trí muốn thực hiện việc kết tập tại nước này.
Vì đất nước này ở bốn phía có núi non kiên cố,có thần Dược Xoa
gìn giữ, đất đai phì nhiêu , sản vật phong phú, là nơi thánh
hiền vân tập, các bậc thần tiên qua lại,và hiện giờ Tăng chúng
đang quy tụ tại đây". Sau khi nghe trình bày, vua thấy hợp lý,
nên chuẩn thuận đề nghị ấy.
- Thế rồi, vua
truyền lệnh cho công nhân xây dựng lo thiết lập già lam tại
thành Ca Thấp Di La (Kasmira) để kết tập pháp tạng.
- Lúc bấy giờ,
các vị A la hán thấy tôn giả Thế Hữu (Vasumitra) mặc y phục luộm
thuộm, đang đứng trước hành lang, bèn nói với tôn giả: "Ông chưa
đoạn trừ kiết sử, nếu luận nghị giáo pháp sẽ vấp phải sai lầm,
vậy ông nên rời khỏi đây mà đi nơi khác".
- Thế Hữu nói:
"Nay chư hiền đối với chánh pháp không có điều chi nghi ngờ,
muốn thay Phật để tuyên dương nên mới tập họp nơi đây mà luận
bàn Phật pháp. Tôi tuy không được thông tuệ, nhưng cũng hiểu
giáo pháp ít nhiều, văn chương u huyền của tam tạng và những lý
luận khúc chiết của ngũ minh cũng đã từng nghiên cứu và đạt được
những ý thú nhất định".
- Các vị A la
hán nói: "Lời nói suông không có gì làm bằng chứng, nếu vậy thì
thầy hãy ẩn cư nơi vắng vẻ một thời gian, lo tu tập gấp để chứng
đạt quả vô học, rồi mới tham dự cũng chưa muộn".
- Thế Hữu nói:
" Tôi xem quả vô học cũng như đàm dãi, chí tôi chỉ cầu Phật quả,
chẳng thèm đi con đường nhỏ". Bèn vò cái y rách ném đi.Khi chiếc
y chưa rơi tới đất, thì tôn giả (tuyên bố mình) chứng được thánh
quả vô học.
- Lúc ấy, các
vị A la hán lại khiển trách: "Kẻ Tăng thượng mạn chính là người
này đây. Quả vô học được chư Phật hết lời tán thán, đâu có thể
chứng đắc dễ dàng như thế?"
- Muốn cho mọi
người hết mối ngờ vực, Thế Hữu bèn ném chiếc y lên hư không, chư
Thiên bèn tiếp lấy và cung kính thỉnh cầu: "Tôn giả nên chứng
Phật quả để sau này kế thừa Ðức Từ Thị (Di Lặc), làm bậc tôn quý
nhất trong ba cõi, và làm chỗ nương tựa cho bốn loài, chứ giờ
đây tôn giả chứng quả nhỏ làm chi?".
- Bấy giờ các
vị A la hán thấy sự ly kỳ như thế bèn tạ lỗi, và mời tôn giả
tham gia đại hội kết tập cho đủ số 500 người. Ðồng thời hội
chúng suy cử Thế Hữu làm đệ nhất và Hiếp Tôn Giả làm đệ nhị chủ
tọa cuộc kết tập để quyết đoán những ý kiến bất đồng của cử
tọa.Những vấn đề của kinh điển, sau khi được hội nghị thảo luận
và biểu quyết, bèn biên tập thành ba bộ luận, đó là:
- 1. Bộ luận
"Ưu Ba Ðề Xá" gồm 10 vạn bài tụng, dùng để giải thích Kinh tạng.
- 2. Bộ luận
"Tì Nại Da Tì Bà Sa" cũng gồm 10 vạn bài tụng, để giải thích
Luật tạng.
- 3. Bộ luận "
A Tì Ðạt Ma Tì Bà Sa" cũng gồm 10 vạn bài tụng, để giải thích
Luận tạng.
- Như vậy cả ba
bộ gồm 30 vạn bài tụng, chín trăm sáu mươi vạn lời (9.600.000),
giải thích đầy đủ ba tạng giáo điển. Trong đó, không có chi tiết
nào là không bàn bạc tận cùng, không có chỗ sâu xa nào là không
cứu xét rốt ráo. Những nghĩa lý thâm u được làm cho sáng tỏ,
những lời nói còn mù mờ được làm cho rõ ràng. Thành quả này nhằm
truyền lại muôn đời cho hậu thế dùng làm cương lĩnh.
- Kế đến, vua
Ca Nị Sắc Ca bèn sai thợ đúc đồng dùng đồng đỏ dát thành lá
mỏng, để chép luận văn, rồi đem cất vào trong hang đá, xây thép
lên trên để cúng dường. Vua lại sai thần Dược Xoa phòng vệ khắp
nước, không để cho ngoại đạo mang bộ luận ấy ra khỏi lãnh thổ.
Những ai muốn học tập nó thì phải đến đó mà học .
- Sau khi xong
việc, vua bèn thiết lễ trai tăng cúng dường rất trọng hậu để
chúc mừng đại hội kết tập vừa thành công viên mãn (Ðại Ðường Tây
Vức, quyển ba, Sa môn Biện Cơ soạn tại chùa Từ Ân, ÐTK 51, ký
hiệu 2087, tr 886b).
-
Tóm tắt:
- 1/ Lý do kết
tập: vì chư Tăng của các bộ phái có những kiến giải bất đồng về
kinh điển,nên mới mở đại hội kết tập.
- 2/ Thời gian
kết tập: Khoảng 400 năm sau Phật Niết Bàn.
- 3/ Ðịa điểm
kết tập: tại thành Ca Thấp Di La (Kasmira), tên cũ gọi là Kế
Tân, nước Kiền Ðà La (Gandhàra) thuộc miền Tây Bắc Ấn Ðộ.
- 4/ Vị chủ tọa
cuộc kết tập: Tôn giả Thế Hữu (Vasumitra) với sự trợ thủ của
Hiếp Tôn Giả.
- 5/ Số người
tham dự kết tập: 500 vị Hiền thánh (kể cả vị chủ tọa) đã đạt địa
vị vô lậu, tức quả A la hán.
- 6/ Người khởi
xướng cuộc kết tập: vua Ca Nị Sắc Ca (Kanishka), vị hộ pháp được
xem là có công tương đương với hoàng đế A Dục.
- 7/ Thành quả
cuộc kết tập: Soạn ra ba bộ luận: kinh sớ, luật sớ, và luận sớ,
gồm ba mươi vạn bài tụng, 9.600.000 lời.
- 8/ Phương
thức bảo quản: Vua ra sắc lệnh sai thần Dược Xoa bảo vệ không
cho ngoại đạo hay người nào mang bộ luận này ra khỏi nước.
-
II- Thuyết thứ hai
- 1. Thời gian
kết tập: Sau Phật Niết bàn 500 năm, và thời gian biên tập xong
các bộ luận kéo dài đến 12 năm.
- 2. Ðịa điểm
kết tập: Tại Kế Tân, tức Ca Thấp Di La (Kasmira)
- 3. Vị chủ tọa
cuộc kết tập: Tôn giả Ca Chiên Diên Tử, và Bồ tát Mã Minh chấp
bút.
- 4. Số người
tham dự: 500 vị La hán và 500 vị Bồ tát.
- 5. Thành quả:
Soạn một bộ luận gồm 8 kiền độ (tức 8 phần), đặt tên là Phát Tuệ
luận (hay Phát Trí luận) gồm 5 vạn bài kệ. Sau 12 năm mới hoàn
thành, giả thích rộng rãi, gồm thành 100 vạn bài kệ.
- 6. Phương
thức bảo quản: Các thánh giả dùng thần lực khiến các thần linh
bảo vệ không cho bất cứ một ai mang bộ luận này ra khỏi nước (Bà
Tẩu Bàn Ðậu - Vasubandhu) pháp sư truyện, Chân Ðế đời Trần dịch,
ÐTK 50, ký hiệu 2049, tr 189a).
-
III- Thuyết thứ ba
- 1.Thời gian
kết tập: Vào thời vua Bà Tha Già Mã Ni (Vattagàmani) cai trị
Tích Lan (ước chừng 400 năm sau Phật nhập diệt (?).
- 2. Ðịa điểm
kết tập: tại thôn Mã Ðặc Lê, phía Ðông A Lư Ca, nước Tích Lan.
- 3. Vị chủ tọa
cuộc kết tập: Thượng tọa La Hi Da Ðại.
- 4. Số người
tham dự: 500 vị Tỳ kheo.
- 5. Người khởi
xướng và bảo trợ: Vua Ba Tha Già Mã Ni (Vattagàmani).
- 6. Thành quả
kết tập: Kỳ kết tập này đọc lại giáo điển 3 tạng của Thượng tọa
bộ, hiệu đính lại những chú thích của ba tạng, sắp xếp lại thứ
tự của kinh điển, viết một bộ Tam tạng bằng tiếng Pàli, và làm
bản chú thích bằng văn Tăng Già La (Tích Lan) (đảo sử Tích Lan,
theo sự dẫn lại của Phật Quang Ðại từ điển, tr 5189a).
-
* Vài điều ghi nhận
- - Thuyết thứ
nhất, tư liệu lấy từ Tây Vức ký, một tác phẩm viết khá
súc tích, khúc chiết và chặt chẽ, khá nổi tiếng, nhất là về
phương diện sử liệu. Do đó, gần như hầu hết các học giả đều công
nhận học thuyết này.
- - Thuyết thứ
hai lấy từ Bà Tẩu Bàn Ðậu pháp sư truyện. Văn của tập
truyện này viết chuệch choạc rời rạc, các dữ kiện phần lớn không
giống với Tây Vức ký. Tuy cũng được xem là lần kết tập
pháp tạng thứ tư, nhưng rất ít học giả công nhận giá trị của nó.
- - Thuyết thứ
ba, tư liệu còn ghi lại đầy đủ trong Ðảo sử. Ðịa điểm và thành
phần tham dự hoàn toàn khác hẳn với cuộc kết tập tại Ca Thấp Di
La. Tuy vậy, các học giả đều công nhận đây là lần kết tập thứ tư
của Phật giáo Thượng tọa bộ tại Tích Lan.
- - Nếu như
nước Kiền Ðà La hay miền Tây-Bắc Ấn Ðộ được xem là cái nôi, là
căn cứ địa mà Phật giáo đại thừa thai nghén và phát triển, rồi
từ đó truyền sang các nước thì trái lại, Tích Lan chính là trung
tâm của Phật giáo của các nước khác trong vùng.
- - Thời điểm
vua Ca Nị Sắc Ca ra đời có tới 5 mảng tư liệu đề cập đến, xê
dịch từ 300 đến 700 năm, nhưng chỉ có thuyết cho rằng ông ra đời
vào khoảng 400 năm sau Phật nhập diệt, là được các học giả đồng
tình hơn hết (Xem thêm Phật Quang đại từ điển,
tr.3976b)./.
--o0o--
|
|