-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Phật Học Cơ Bản
-
Tập Hai
- Ban Hoằng Pháp
Trung Ương
GHPGVN
-
Chương Trình Phật Học Hàm Thụ (1998-2002)
Nguyệt San Giác Ngộ
- --- o0o ---
- Phần
II - Bài đọc thêm
- Lý do Phân
phái và tình hình Phân phái trong đạo Phật
- Minh Chi
-
A- Tình hình chung
- Sự phân phái
đã từng xảy ra hai lần trong thời kỳ Phật còn tại thế. Lần phân
phái thứ nhất ở Kausambi được giải quyết nhanh chóng. Lần phân
phái thứ hai, do Devadatta chủ xướng, dẫn tới thành lập một bộ
phái riêng rẽ, mà đến thế kỷ thứ VII, khi Huyền Trang qua Ấn Ðộ
vẫn còn ghi tiếng vang. Dưới thời vua Asoka (300 trước CN), Phật
giáo tuy đại thịnh, nhưng nội bộ Phật giáo đã có sự chia rẽ
nghiêm trọng, mà Asoka có nói tới trong các trụ đá ở Kosambi,
Sanchi và Sarnath. Trong các trụ đá, Asoka đe dọa sẽ tẩn xuất
khỏi Tăng chúng tất cả những ai chủ xướng chia rẽ và phân phái.
Nhưng cũng dưới thời Asoka đã xảy ra lần phân phái nghiêm trọng
và lớn nhất, khiến tách ra bộ phái Ðại chúng bộ (Mahasanghika)
chiếm số đông, tán thành 5 điểm của Mahadeva (Ðại Thiên), đối
lập với Thượng tọa bộ, thiểu số và có tư tưởng bảo thủ. Ngay ở
Sri Lanka, nơi truyền giáo của Mahinda cũng không tránh được sự
phân phái. Các Tăng sĩ của tu viện lớn Mahavihara, dưới triều
vua Dutthagamani tách khỏi bạn đồng tu mà lập ra ở Abhayagira
một đồ chúng mới, cắt đứt mọi quan hệ với Tăng chúng ngày trước
do chính Mahinda thành lập.
- Thời ấy,
người ta phân biệt rõ hai khái niệm: phân phái (samghabheda) và
chia rẽ (samgharaji). Sự phân phái xảy ra khi có ít nhất là 9 Tỷ
kheo, sinh hoạt trong một hội chúng tại cùng một địa phương,
nhưng có một số quan điểm khác biệt về Luật hay Pháp, so với
quan điểm truyền thống của hội chúng, và sau một cuộc bỏ phiếu
tổ chức theo đúng Luật, bèn tách khỏi hội chúng đó và tiến hành
riêng rẽ lễ bố tát và một số Phật sự khác. Nếu số Tỷ kheo không
đến 9 người, thì không phải là phân phái mà là chia rẽ.
- Chính thể
theo một cuộc bầu phiếu đúng luật mà Ðại chúng bộ hình thành và
tách khỏi Thượng tọa bộ. Và sau một thời gian, cả hai bộ phái
chính nói trên lại tách ra nhiều bộ phái khác với những quan
điểm khác nhau về một hay một vài điểm trong Luật và Pháp. Không
bao lâu, con số bộ phái lên đến 20, kể cả hai bộ phái chính Ðại
chúng bộ và Thượng tọa bộ. Quá trình phân phái nhiều khi xảy ra
một cách tự phát, do địa bàn Phật giáo mở rộng ra khắp đất nước
Ấn Ðộ, rồi vượt biên giới Ấn Ðộ, lan rộng nhiều vùng khác nhau
trên thế giới.
- Có thể nói,
phân phái là hệ quả không thể tránh của sự phát triển của đạo
Phật trong không gian và thời gian. Không gian mới, thời gian
mới khiến nảy sinh ra những nhu cầu mới về tâm linh, về tri thức
trong dân chúng nói chung cũng như trong Phật giáo đồ nói riêng.
Sự phân phái thể hiện yêu cầu cập nhật hóa và bản địa hóa của
Phật giáo. Ðể khỏi bị lạc hậu so với thời thế, đạo Phật phải cập
nhật hóa, hiện đại hóa. Ðể tránh khỏi mâu thuẫn, xung đột với
truyền thống văn hóa, tập tục và tín ngưỡng địa phương, Phật
giáo bắt buộc phải bản địa hóa. Hoàn cảnh địa lý, chính trị xã
hội, kinh tế rất đa dạng của các vùng mà Phật giáo mới du nhập
vào đặt ra cho những người lãnh đạo Tăng chúng ở các vùng khác
nhau hàng loạt vấn đề mới phải giải quyết. Thí dụ có những vùng
điều kiện sinh hoạt dễ dàng. Tăng chúng có thể rất đông đảo và
sống dựa một chiều vào sự cúng dường của thập phương; nhưng cũng
có những vùng điều kiện sinh hoạt rất khó khăn, Tăng chúng phải
tự tăng gia và nuôi sống mình, hoặc một phần hoặc toàn bộ. Có
những vùng và quốc gia, trong đó chính quyền ủng hộ Phật giáo.
Nhưng có những vùng chính quyền công khai chống đối Phật giáo.
Cũng có những vùng chính quyền giữ thái độ trung lập đối với các
tôn giáo và hệ tín ngưỡng khác nhau. Có những nước, những vùng
vốn là cái nôi của một nền văn minh và văn hóa lâu đời, có tiếng
tăm, như Trung Quốc, v.v... Nhưng cũng có những vùng, dân chúng
sống rất lạc hậu, mù chữ, có thể nói là trong tình trạng dã man,
hay bán khai. Có những vùng có khí hậu rất khắc nghiệt, quanh
năm chỉ là băng tuyết, hay là có địa hình hiểm trở, giao thông
đi lại khó khăn, hay chỉ là sa mạc cát nóng v.v... Ðạo Phật muốn
du nhập và tồn tại, phát triển tại những vùng khác nhau như thế,
chắc chắn là không thể giữ nguyên tình trạng và tổ chức như khi
còn ở vùng trù phú của trung châu sông Hằng.
- Ở Ấn Ðộ, thời
bấy giờ, tuy có tình trạng phân phái, thế nhưng giữa các bộ
phái, quan hệ vẫn là quan hệ giữa những người đồng đạo, những
người con Phật. Khi Huyền Trang qua Ấn Ðộ vào thế kỷ VII Tây
lịch, ông có nhận xét là các Tăng sĩ Tiểu thừa giáo và Ðại thừa
giáo có thể ở cùng trong một chùa, một tu viện mà không xảy ra
xích mích gì. Chỉ có điều khác là Tăng sĩ Tiểu thừa thì tụng các
kinh sách Tiểu thừa, còn các Tăng sĩ Ðại thừa giáo thì tụng các
kinh Ðại thừa. Tăng sĩ bất cứ thuộc bộ phái nào, đều được các
chùa và tu viện Phật giáo tiếp đón tử tế lịch sự, theo đúng nghi
thức của Tăng đoàn.
- Ngày nay,
chúng ta có thể biết các tình hình bộ phái Phật giáo ở Ấn Ðộ vào
đầu Tây lịch qua các tác phẩm lịch sử Phật giáo, đặc biệt là
cuốn "Samayabhado paracanacakra" (Dị bộ tôn luận) của
Vasumitra, hay là cuốn Kathavathu, đối với một thời kỳ
phân phái sớm hơn.
-
B- Về những lý do đặt tên các bộ
phái
- 1. Dựa vào
nội dung của quan điểm giáo lý:
- như
Sthaviravada - Thượng tọa bộ - tức là bộ phái của các vị Trưởng
lão, Thượng tọa. Lokottaravada - Thuyết xuất thế bộ - là bộ phái
thuyết minh những pháp siêu thế, Ekavya vaharika - Nhất thuyết
bộ, Prajnaptivadin - Thuyết giả bộ - phân biệt giữa thực giáo và
giả danh, Sautrantika - Kinh lượng bộ - chỉ thừa nhận giáo lý
chính thống ghi trong kinh tạng.
- 2. Dựa vào
cơ cấu của Hội chúng thành lập bộ phái:
- Mahasanghika
- Ðại chúng bộ khẳng định tính đại chúng của hội chúng thành
lập. Bahusratva (Ða văn) là bộ phái mà hội chúng thành lập gồm
toàn những bậc học rộng đa văn. Dharmottarya - (Pháp thượng bộ)
là bộ phái của những người đề cao giáo pháp. Bhadrayaniya - Hiền
vị bộ, bộ phái của các bậc trí giả v.v...
- 3. Dựa vào
địa bàn hoạt động của bộ phái:
- Haimavata
(Tuyết sơn bộ) địa bàn hoạt động là vùng núi Tuyết Sơn
(Himalaya), Caityasaila (Chế đa sơn bộ) có địa bàn hoạt động tại
vùng núi Kaitya (ở xứ Andhra) Aparasaila - Tây sơn trụ bộ, có
địa bàn hoạt động ở phía Tây dãy núi (xứ Andhra).
- 4. Dựa vào
tên vị cao tăng sáng lập ra bộ phái:
- Vatsiputrya -
(Ðộc tử bộ), dựa vào tên vị A la hán có tên như vậy. Mahisasaka
(Hóa địa bộ), tên một người Bà la môn sáng lập có tên như vậy.
Dharmaguptaka (Pháp tạng bộ) được sáng lập bởi một đệ tử của
Maudgalyayana, tên là Dharmapupta. Và Sammatiya (Chánh lượng bộ)
do Sammita sáng lập v.v...
-
C- Số bộ phái thật sự có bao nhiêu?
- Lịch sử hình
thành các bộ phái đã trải qua nhiều năm, thì các sử gia Ấn Ðộ
cũng như Trung Hoa mới bắt đầu công việc thu thập tài liệu để
viết về lịch sử truyền thừa các bộ phái, cũng như nội dung chủ
thuyết của các bộ phái. Vì thiếu tài liệu, cho nên cái gọi là sử
liệu các bộ phái, do các sử gia Ấn và Trung Hoa viết không tránh
khỏi có những phần hư cấu. Các sử gia chú trọng nhiều tới lịch
sử truyền thừa của các bộ phái, lịch sử đó do chính người của
các bộ phái viết, do đó mà tùy theo bộ phái, lịch sử truyền thừa
có điểm khác nhau. Vì ai cũng muốn nói tốt cho bộ phái mình.
- a/ Bảng
hai bộ phái chính của sử gia Tây Tạng Taranatha:
- Trong cuốn
lịch sử Phật giáo Ấn Ðộ, xuất bản 1968, Taranatha công bố
bảng hai bộ phái chính, mà ông cho là do Thượng tọa bộ soạn:
- A- Mahasanghika: phân thành 8 bộ:
- 1. Nulamahasanghika;
2. Ekavyavaharika;
3. Lokottaravadin (Thuyết xuất thế bộ).
4. Bahusrutya (Ða văn bộ);
5. Prajnativadin (Thuyết giả bộ);
6. Caitika (Chế đa sơn bộ);
7. Purvasaila (Ðông sơn trụ bộ);
8. Aparasaila (Tây sơn trụ bộ).
- B- Sthavira: phân thành 10 bộ:
- 1. Mulasthavira;
2. Sarvastivada (Nhất thiết hữu bộ);
3. Vatsiputrya (Ðộc tử bộ);
4. Dharmottarya (Pháp thượng bộ);
5. Bhadrayaniya (Hiền vị bộ);
6. Sammatiya (Chánh lượng bộ);
7. Mahisasaka (Hóa địa bộ);
8. Dharmaguptaka (Pháp tạng bộ);
9. Suvarsaka (Ấm quang bộ);
10. Uttariya (Mật lâm bộ).
- Bảng phân
phái trên đây mà Taranatha cho là thuộc bộ phái Sthavira (hay
Theravada), trùng hợp với các bảng của Vasumitra được La Thập và
Chân Ðế (Paramartha) dịch ra chữ Hán, với đầu đề Dị bộ tôn luận.
Bộ luận của Vasumitra cũng được Huyền Trang dịch. Bản Hán dịch
của Huyền Trang được Masuda dịch ra tiếng Anh: Origin and
Doctrines of Buddhist Schools (Asia Major II 1925, p.I-78, cũng
được A.Barreau dịch ra tiếng Pháp Trois traités sur les sectes
bouddhiques. J.A 1954 P.235-266).
- Ðệ tử của
Huyền Trang là Khuy Cơ có viết cuốn "Dị bộ tôn luận thuật ký" là
bản sớ giải về bản dịch của Huyền Trang, được viết theo những
chỉ dẫn của Huyền Trang. Theo bản dịch của Huyền Trang thì
Vadumitra phân chia các bộ phái như sau:
- b/ Bảng
Vadumitra:
- A-
Mahasanghika:
- 1. Ehavyavaharika (Nhất thuyết
bộ),
2. Lokottaravadin (Thuyết xuất thế bộ),
3. Kaukutika (Kê dẫn bộ),
4. Bahusrutya (Ða văn bộ),
5. Prajnativa (Thuyết giả bộ),
6. Caityasala (Chế đa sơn bộ),
7. Aparasaila (Tây sơn trụ bộ),
8. Uttarasaila (Ðông sơn trụ bộ).
- B- Sthaviravada:
1. Sarvastivada hay là Hetuvada, phân phái thành,
2. Vataiputrya (độc tử bộ),
3. Dharmottariya (Pháp thượng bộ),
4. Bhadrayaniya (Hiền vị bộ),
5.Channagarika (hay Sannagarika) (Mật lâm bộ),
6. Mahisasaka (Hóa địa bộ),
7. Dharmaguptaka (Pháp tạng bộ),
8. Kasyapiya hay Sauvaraika (Ấm quang bộ),
9. Sautrantika hay Samkrantivadin (Kinh lượng bộ),
10. Mulasanrvastivada hay Haimavata (Tuyết sơn bộ).
- Cũng theo
Vasumitra, chính thuyết năm điểm do Mahadeva (Ðại thiên) đề xuất
vào năm 116 sau Niết bàn đã dẫn tới sự phân phái giữa Thượng tọa
bộ (Sthavira) và Ðại chúng bộ (Mahasanghika). Ðại chúng bộ rút
về phía Bắc thành Vương xá (Rajagrha), và đến thế kỷ II sau Niết
bàn thì chia thành 4 bộ phái: Ekavyavaharika (Nhất thuyết bộ),
Lokottaravadin (Thuyết xuất thế bộ), Kaukuttika (Kê dẫn bộ) và
Bahusrutya (Ða văn bộ). Bốn bộ phái này đều tôn luận chủ Yajnava
kya làm thầy. Ðến thế kỷ III sau Niết bàn, một cuộc chia rẽ mới
dẫn tới thành lập tại vùng núi Andhra bộ phái Caityasaila (Chế
đa sơn bộ), và bộ phái này lại chia làm hai Tây sơn trụ bộ và
Ðông sơn trụ bộ.
- Trong thời
gian hai thế kỷ sau Niết bàn, Thượng tọa bộ vẫn giữ được sự
thống nhất nội bộ dưới sự hướng dẫn của các vị Thượng thủ tiếng
tăm như các Ngài Kasyapa (Ca Diếp) Ananda (Anan), Madhyantika,
Sanavasin, Upagupta, Purna, Mecaka và Katyayaniputra. Sau khi
Ngài Katyayaniputra tịch, vào đầu thế kỷ III sau Niết bàn, thì
Thượng tọa bộ phân làm hai nhánh:
- 1). Nhánh các
vị trưởng lão, trung thành với truyền thống Kinh tạng, rút về
vùng dãy núi Tuyết Sơn và lấy tên là Tuyết Sơn bộ (Haimavata) và
- 2). là nhóm
theo luận chủ Katyayaniputra, chủ trương phát triển Luận tạng
Abhidharma, và có những đổi mới được phái Thượng tọa bộ chính
thống xem là nguy hiểm. Nhóm này mang tên Sarvastivadin (Nhất
thiết hữu bộ).
- Trong thế kỷ
III và vào đầu thế kỷ IV sau Niết bàn, thì Hữu bộ Sarvastivada
sinh ra bốn bộ phái mới là Vatsiputrya (Ðộc tử bộ) Mahisasaka
(Hóa địa bộ), Kasyapiya (Ấm quang bộ) và Sautrantika (Kinh lượng
bộ). Thành lập bộ phái Ðộc tử bộ là một Bà la môn tên là
Vataiputrya, học trò của Rabula. Chính Rahula đã truyền bộ luận
A Tỳ Ðàm của Xá lợi Phất (Sariputra abhdharma Vatsiputrya. Sau
đó, từ Ðộc tử bộ lại nảy sinh ra bốn bộ phái mới là Dharmottarya
(Pháp thượng bộ), Bhadrayaniya (Hiền vị bộ), Sammatiya (Chánh
lượng bộ) và Channagirika (Mật Lâm bộ).
- Bộ phái
Mahisasaka được thành lập bởi một Bà la môn, trước khi xuất gia
có làm quan chức về địa bạ, địa chính, sau đó xuất gia, chứng
quả A la hán. Một bộ phái mới, Dharmaguptaka (Pháp tạng bộ) sinh
ra từ bộ phái Mahisasaka (Hóa địa bộ).
- Còn bộ phái
Kasyapiya hay Sauvarsaka (Ấm quang bộ) là do A la hán Suvarsaka
Kasyapiya thành lập.
- Bộ phái Kinh
lượng bộ (Sautrantika) theo tên gọi của nó cho biết, chỉ công
nhận tính chính thống của Kinh tạng, do Phật đích thân thuyết
giảng mà thôi.
- c/ Bảng
phân phái của Ðại chúng bộ:
- Bảng này
thuộc Ðại chúng bộ, nhưng không rõ tác giả là ai. Bản này được
dịch ra chữ Hán, giữa các năm 317 và 420.
- I. Ðại chúng bộ:
- 1.Ekavyavahara (Nhất thuyết bộ)
2. Lokottara (Thuyết xuất thế bộ)
3. Kukukklika (Kê dẫn bộ)
4. Bahusrutaka (Ða văn bộ)
5. Prajnativadin (Thuyết giả bộ)
6. Mahadeva - thế kỷ III sau Niết bàn.
7. Caitika (Caitra) (Chế đa sơn bộ)
8. Matara (Uttarasaila)
- II. Thượng tọa bộ:
- 1. Sarvastivada (Hữu bộ)
2. Mahisasaka (Hóa địa)
3. Dharmaguptaka (Pháp tạng)
4. Suvarsa (Ấm quang)
5. Vatsiputrya (Ðộc tử)
6. Dharmottarika (Pháp thượng)
7. Shadrayanya (Hiền vị)
8. Sammatiya (Chánh lượng)
9. Sannagarika (lâm sơn bộ)
10. Kasyapiya
11. Sutravadin
12. Samkrantika (Kinh lượng bộ)
- d/ Bảng
phân phái, lập ra từ các kinh sách chữ Pàli:
- Trong tư liệu
dẫn chứng, có thể kể: Dipavamsa (đảo sử), Mahavamsa, cuốn
Kathavattu v.v...
- I. Mahasanghikas:
- 1. Cokulika
2. Pannati
3. Bahussutaka hay Bahulika
4. Cetya
5. Bkavyoharika
- II. Theravada:
- 1. Mahimsasaka
2. Sabbatthivada
3. Kassapiya
4. Samhantika
5. Suttavada
6. Dhammaguttika.
7. Vajjiputtaka
8. Dhammuttarya
9. Bhadrayanika
10. Chandagarika
11. Sammitya
- Về thời điểm
phân phái, các tài liệu Tích Lan cho biết:
- 1. Trong thế
kỷ đầu tiên sau Niết bàn (486-386), hiện tượng phân phái chưa
xảy ra.
- 2. Trong thế
kỷ II, tức là giữa Ðại hội kiết tập lần thứ hai, (386 trước CN
hay là 100 sau NB), và Ðại hội Kiết tập lần thứ ba (256 trước CN
hay 236 sau NB) có 18 bộ phái xuất hiện.
- 3. Trong thế
kỷ III sau NB, tức từ 286 đến 186 trước CN, có 6 bộ phái mới
xuất hiện và phát triển ở Ấn Ðộ: Hemavata, Rajagirya,
Siddhatika, Pubbaseliya Aparaseliya và Vajiriya.
- Có thể đây là sáu bộ phái nhánh,
tách khỏi Ðại chúng bộ năm 255 sau NB (236 trước CN), rồi sau đó
tạo thành ba bộ phái mới là: Vetulya, Andhaka và
Anya-Mahasamghika.
- 4. Năm 236
sau NB, tức 250 trước CN, Thượng tọa bộ du nhập vào Xây Lan,
dưới sự chỉ đạo của Mahinda. Ðại biểu của Thượng tọa bộ ở Xây
Lan là các du sĩ thuộc tu viện Mahavira, kể cả tu viện mới
Mahameghavana, do vua Devanampiyatissa tặng họ. Trong khuôn viên
của tu viện mới này có bảo tháp Thuparama, do vua
Devanampiyatissa xây, và cây bồ đề lớn lên từ một nhánh của cây
bồ đề ở Caya, do em gái của Mahinda là Sanghamitta đem sang. Có
phòng làm lễ bố tát (Uposatha) do vua Dutthagamani xây cũng như
bảo tháp nổi tiếng Mahathupa hay là Dagoba Ruvanveli cũng do vua
này tạo dựng. Hiện nay các tu sĩ thuộc tu viện Mahavira cũng tự
xem mình là đại biểu uy quyền nhất của Kinh và Luật tạng Phật
giáo nguyên thủy.
- Thế nhưng,
ngay ở Xây Lan, sự thống nhất của Thượng tọa bộ cũng không giữ
vững được.
- Dưới triều
vua Vattagamani, tức năm 454 sau NB hay năm 32 trước CN, một số
tu sĩ tách khỏi bạn đồng tu của mình ở tu viện Mahavira và đến
tu viện Abhayagira, phía Bắc thủ đô Anuradhapura, lập ra bộ phái
Dhammarucika.
- Dưới triều
vua Vcharikatissa, 746-768 sau NB, tức 260-262 TL, một nhánh Ðại
thừa gọi là Vetullavada xuất hiện ở Xây Lan, gặp sự chống đối
của Kapila, một Thượng thư trong triều, nhánh Ðại thừa này vẫn
còn một số Tăng sĩ trung thành trong bộ phái Dhammarucika.
- Dưới triều
vua Gothakabhaaya (785-798 sau NB, tức 299-317 TL) một số Tăng
sĩ thuộc bộ phái Dhamamrucika tách ra sang ở chùa Dakhinavihara,
lập ra bộ phái mới gọi là Sangaliya. Sự phân phái này do Thượng
tọa Sagala chủ xướng xảy ra vào năm 795 sau Niết bàn.
- Dưới triều
vua Mahasena (322-349 TL) bộ phái mới này chiếm tu viện mới
Jevatana ở Anuradhapura. Từ đó, bộ phái đổi tên là Jetavaniya.
- e/ Bảng
của Manjusriparipracchha:
- Bảng phân phái này được dịch ra
chữ Hán bởi Sanghabhara, năm 518.
- I. Mahasanghika:
- - Ekavyavaharika
- Lokottaravada
- Kaukulika
- Bahusrutya
- Caitika
- Purvasaila (Tây sơn trụ)
- Uttarasaila
- II. Sthavira:
- - Sarvastivada
- Haimavata
- Vatsiputrya
- Dharmottariya
- Bhadrayarmya
- Sammatiya
- Sangdagatika
- Mahisasaka
- Dharmaguptaka
- Kasyapiya
- Sautrantika
- g/ Bảng phân phái của Bhavya:
- Shavya có thể
là tu sĩ kiêm nhà văn lớn Bhavaviveka, sống vào hậu bán thế kỷ
VI, là người sáng lập ra nhánh Svatantrika - Sautrantika của
trường phái Trung quán. Bảng này mở đầu bằng lời ghi nhận cuộc
phân phái lớn thứ nhất xảy ra dưới triều vua Asoka, khoảng 160
năm sau Niết bàn, dẫn tới thành lập hai bộ phái chính là
Sthavira và Mahasanghika.
- I. Mahasanghika:
- - Malamahasanghika
- Ekavyavaharika
- Lokottaravadin
- Bahusrutya
- Prajnaptivadin
- Caitika
- Prvasaila
- Aparasaila
- II. Sthavira:
- - Mulasthavira hay là Haimavata
- Sarvastivada hay là Vibhajyavadin, Hetuvadin, Muruntaka.
- Vatsiputrya
- Dharmottariya
- Bhadrayaniya
- Sammatiya cũng gọi là Avantaka hay Kurukulla
- Mahisasaka
- Dharmaguptaka hay Kasyapiya
- Uttariya hay Samkrantivadin.
- h/ Bảng của bộ phái Sammatiya:
- I. Mahasanghika
- - Ekavyavaharika
- Gokulika
- Bahusrutya
- Prajnaptivadin
- Caitika
- II. Sthavira
- - Malasthavira
- Sarvastivadin
- Vibhajyavadin
- Mahasisaka
- Dharmaguptaka
- Tamrasatiya
- Kasyapiya
- Samkrantivadin
- Vassiputrya
- Mahagirya
- Dharmattariya
- Bhadrayaniya
- Sannagarika
- Sammatiya
- Haimavata.
- i/ Bảng phân phái của Ðại chúng
bộ, theo sử gia Tây Tạng Taranatha:
- I. Sthavira
- - Sarvastivadin
- Mulasarvastivadin
- Sautrantika
- Vatsiputriya
- Sammatiya
- Dharmottariya
- Bhadrayaniya
- Sannagarika.
- II. Mahasanghika:
- - Mulamahassanghika
- Purvasaila
- Aparasaila
- Pajagirika
- Haimavata
- Siddharthika
- Cokulika
- III. Vibhajyavadin:
- - Mahisasaka
- Kasyakiya
- Dharmaguptaka
- Tamrasatiya.
- Bảng phân
phái này chắc là ra đời muộn, cho nên có ghi thêm nhiều bộ phái
mới. Thí dụ, bộ phái Tamrasatiya, còn gọi là Tamrasarniya chính
là các tu sĩ ở vùng Xây Lan Taprobane, bao gồm nhiều luậạn sư
nổi tiếng với các chủ thuyết từng được các luận sư Vasubandhu và
Asanga bàn tới.
- k/ Bảng
năm bộ phái:
- Không rõ tác
giả lập ra bảng 5 bộ phái. Nhưng hình như năm bộ phái này là nổi
tiếng nhất và còn tồn tại khi Huyền Trang tới Ấn Ðộ vào thế kỷ
VII. Năm 630, khi Huyền Trang tới Uddiyana, thì có được năm bộ
Luật, thuộc năm bộ phái: Dharmaguptaka, Mahisasaka, Kasyapiya,
Sarvastivada và Mahasanghika. Ở Trung Quốc vào năm 587, có bản
dịch Hán văn của 5 tiểu sử Phật Thích Ca, nhưng khác biệt nhau
và thuộc về năm bộ phái khác nhau: Mahasanghika, Sarvastivada,
Kasyapiya, Dharmaguptaka và Mahisasaka.
- Sau đây là bảng năm bộ phái chính
cùng với những bộ phái nhánh:
- I. - Sarvastivada
- - Vatsiputriya
- Dharmottariya
- Bhadrayaniya
- Sannagarika.
- II. - Mahisasaka
- III. - Kasyapiya
- - Samkrantika
- Sammatiya
- IV. - Mahasanghika
- - Ekavyavaharika
- Bahusrutya
- Prajnaptinvada
- Caitika
- Aparasaila
- Uttarasaila
- V. - Dharmaguptaka.
- l- Nhận xét của Huyền Trang khi
đến Ấn Ðộ, về tình trạng các bộ phái:
- Trong cuốn
Tây du ký, Huyền Trang mô tả ở Ấn Ðộ vào thời ông đến, có
các loại Tỷ kheo như sau:
- 1. Số Tỷ kheo
không thuộc bộ phái nào nhất định. Họ sống thành những nhóm nhỏ.
- 2. Tỷ kheo
theo Tiểu thừa giáo, nhưng thuộc bộ phái nào không rõ.
- 3. Các Tỷ
kheo thuộc Ðại chúng bộ và Thuyết xuất thế bộ (Lokottavaradin).
- 4. Các Tỷ
kheo thuộc Hữu bộ (Sarvastivadin).
- 5. Các Tỷ
kheo Thượng tọa bộ và những Tỷ kheo Trưởng lão, chịu ảnh hưởng
của tư tưởng Ðại thừa.
- 6. Tỷ kheo
thuộc bộ phái Sammitiya.
- 7. Những Tỷ
kheo thuộc Ðại thừa giáo, sống tập trung đông đảo ở các vùng
Uddhiyana, Gharni, Magadha và miền Nam Kosala.
- 8. Số Tỷ kheo
Ðại thừa giáo, nhưng sống trong những tu viện trước đây thuộc
Tiểu thừa, do đó, họ cũng nghiên cứu Kinh và Luật thuộc Tiểu
thừa.
- Theo các số
liệu của Huyền Trang, thì ở Ấn Ðộ cũng như ở Trung Á, số Tỷ kheo
theo Ðại thừa và Tiểu thừa xấp xỉ nhau, không chênh lệch mấy:
khoảng 134.000 Tỷ kheo Tiểu thừa đối lại với 119.430 Tỷ kheo Ðại
thừa giáo.
- m/ Bảng
bốn bộ phái chính của Nghĩa Tịnh:
- Một thế kỷ
sau Huyền Trang, Pháp sư Nghĩa Tịnh đi thăm Ấn Ðộ và các đảo
vùng Nam Hải. Ông cho biết thêm những chi tiết sau về tình hình
các bộ phái:
- Nói chung chỉ
còn lại bốn bộ phái chính:
- 1- Bộ phái
Ðại chúng bộ phân thành năm bộ phái nhỏ. Mỗi tạng của ba tạng
của bộ phái này, gồm 100.000 câu kệ. Tổng cộng ba tạng có
300.000 câu kệ.
- 2- Bộ phái
Sthavira phân thành ba bộ phái nhánh.
- 3- Bộ phái
Hữu bộ phân thành bốn bộ phái nhánh: Dharmaguptaka, Mahisasaka,
Kasyapiya...
- 4- Bộ phái
Sammitya chia thành bốn bộ phái nhánh.
- n/ Bảng của Vinitadeva thuộc
Hữu bộ:
- I. Mahasanghika:
- - Purvasaila
- Aparasaila
- Haimavaita
- Lokottaravadin
- Prajnajtivadin.
- II. Sarvastivadin:
- - Mulasarvastivada
- Kasyapiya
- Mahisasaka
- Dharmaguptaka
- Bahusrutya
- Tamrasatiya
- Vibhagyavadin.
- III. Sthavira:
- - Jevataniya
- Abhayagirivasin
- Mahaviharavasin.
- IV. Sammitiya:
- - Kaurukullaka
- Avantaka
- Vatsiputrya.
- Trên đây là tình hình phân phái
qua các thời kỳ. Trong một bài sau (*) chúng ta sẽ nghiên cứu
chủ thuyết khác biệt của các bộ phái./.
- (*) "Bàn
về chủ thuyết các bộ phái" . Minh Chi
--o0o--
|
|