-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Phật Học Cơ Bản
-
Tập Ba
- Ban Hoằng Pháp
Trung Ương
GHPGVN
-
Chương Trình Phật Học Hàm Thụ (1998-2002)
Nguyệt San Giác Ngộ
- --- o0o ---
- Phần I
- Bài 1
- Lịch sử Phật
giáo
- Tổng quan về
lịch sử Phật giáo Việt Nam
- Thích Tâm
Hải
-
A- Dẫn nhập
- Phật giáo từ
Ấn Ðộ du nhập Việt Nam đã trên hai ngàn năm. Ngay từ rất sớm,
Phật giáo đã được tiếp nhận và trở thành một tư tưởng chủ đạo
trong nền văn hóa dân tộc, dĩ nhiên là sau khi đã bản địa hóa
Phật giáo. Suốt hơn hai ngàn năm lịch sử, Phật giáo luôn đồng
cam cộng khổ với vận mệnh thăng trầm của xứ sở, trong công cuộc
chống ngoại xâm cũng như sự nghiệp dựng nước, mở mang bờ cõi,
đánh bạt âm mưu xâm lăng và nô dịch về văn hóa của thế lực
phương Bắc trong nhiều giai đoạn. Do vậy, lịch sử Phật giáo Việt
Nam phải được trình bày như thế nào để phản ánh được sự thật
sinh động và mối quan hệ mật thiết đó? Ðây là một vấn đề không
đơn giản, bởi những khó khăn nhất định, đặc biệt là về tư liệu,
mà chúng ta gặp phải.
- Với khuôn khổ
của bài giới thiệu tổng quan về lịch sử Phật giáo Việt Nam, đối
tượng là học viên trong chương trình Phật học hàm thụ năm thứ
ba, chúng tôi không thể trình bày các vấn đề một cách tường tận,
đặc biệt là các dữ kiện và quan điểm lịch sử mới. Nếu muốn tìm
hiểu một cách kỹ lưỡng hơn, thì xin tham khảo các sách và tài
liệu chúng tôi sẽ giới thiệu trong phần cuối bài cũng như trong
các phần trích dẫn.
- Vả lại,
nghiên cứu lịch sử là một địa hạt luôn sôi động với các phát
hiện mới, hoặc có thể là bổ sung hoặc có thể làm thay đổi các
quan điểm cũ. Và trong những thập niên gần đây, lĩnh vực này đã
được sự quan tâm lớn của giới làm công tác nghiên cứu văn hóa,
lịch sử nước nhà (1), đáng chú ý hơn cả là công trình Lịch sử
Phật giáo Việt Nam của tác giả Lê Mạnh Thát vừa mới xuất bản
(2). Với tinh thần đó, những gì được giới thiệu ở đây cũng vậy,
chúng tôi cố gắng cập nhật những phát hiện và quan điểm mới về
lịch sử Phật giáo dân tộc để góp phần giúp học viên có những
kiến thức cơ bản về truyền thống và bản sắc của dân tộc nói
chung và Phật giáo Việt Nam nói riêng. Từ đó làm cơ sở để tìm
hiểu và góp phần hiểu thêm, hiểu chính xác hơn về nền Phật học
Việt Nam.
- Nội dung của
phần Tổng quan về lịch sử Phật giáo Việt Nam này trình
bày qua năm thời đại, chia thành 3 bài. Bài 1 là Phật giáo từ
thời du nhập đến sự ra đời của Nhà nước độc lập Vạn Xuân thế kỷ
thứ VI. Bài 2 là Phật giáo từ Nhà nước Vạn Xuân của Lý Nam Ðế
đến thời Trần Nhân Tông. Bài 3 là giai đoạn Phật giáo từ thời
ngài Trần Nhân Tông đến cận đại.
- -oOo-
-
- Bài 1
-
- Phật giáo
Việt Nam từ Du nhập đến thời Lý Nam Ðế
với sự ra đời của Nhà nước độc lập Vạn Xuân
- Thích
Tâm Hải
- Một quan niệm
thông thường khi nói về Phật giáo giai đoạn này là không ít
người cho rằng tư liệu nghiên cứu hiện quá ít, nếu không nói là
nghèo nàn hay thậm chí có thời kỳ không có. Nói khác đi, vô hình
trung đánh giá Phật giáo giai đoạn này là không phát triển, gán
lý do cho hoàn cảnh xã hội, nói thẳng ra là vì đất nước ta bị
ngoại bang [phương Bắc] đô hộ. Tuy nhiên, dẫu cho ở hoàn cảnh
nào, lúc đất nước độc lập cũng như khi bị xâm lăng, sau khi hòa
nhập với văn hóa bản địa, Phật giáo vẫn có mặt trong sức sống
của nền văn hóa, trong cuộc đấu tranh bền bỉ và mãnh liệt chống
lại âm mưu nô dịch của của ngoại xâm, để tồn tại và góp phần làm
nên một tính cách bất khuất của dân tộc mà chúng ta hằng tự hào,
và thành quả cụ thể của nó là sự ra đời của Nhà nước độc lập Vạn
Xuân với sự kiện xưng đế của Lý Bôn vào năm 544. Những dữ kiện
lịch sử mới trong sách Lịch sử Phật giáo Việt Nam của tác
giả Lê Mạnh Thát đã phần nào cho thấy điều đó. Thừa kế những
thành quả của các nhà nghiên cứu, các công trình hiện có, chúng
tôi cố gắng trình bày được phần nào tinh thần trên. Nhưng trước
hết, chúng ta đi vào tìm hiểu những điểm cơ bản về vấn đề con
đường du nhập của Phật giáo vào nước ta, niên đại và trung tâm
Phật giáo đầu tiên, sau đó sẽ lần lượt tìm hiểu các vấn đề khác
để có thể hình dung và đánh giá sơ bộ tình hình Phật giáo ở nước
ta trong giai đoạn phát triển đầu.
-
I. Con đường và Niên đại Du Nhập
- Vị trí địa lý
của nước ta nằm ở bán đảo Ðông Dương, trên con đường giao thông
đường bộ cũng như đường thủy giữa hai lục địa, nơi sản sinh
những nền văn minh lớn của loài người là Ấn Ðộ và Trung Quốc. Do
đó, từ rất sớm, qua con đường buôn bán, các nền văn hóa của hai
chiếc nôi văn minh này đã đi theo các đoàn thương nhân đến với
nước ta, trong đó có Phật giáo.
- Theo Thiền
uyển tập anh (3), một bộ sách quan trọng về các vấn đề lịch
sử, tư tưởng, văn học của Phật giáo Việt Nam nói riêng và của
dân tộc nói chung, thì Phật giáo được truyền vào nước ta trực
tiếp từ Ấn Ðộ, trước cả Trung Quốc. Trong tiểu sử Thiền sư Thông
Biện (? -1134), một vị Quốc sư ở đời Lý, có chép cuộc đối thoại
giữa Ngài và Hoàng thái hậu Ỷ Lan về nguồn gốc của Phật giáo
Việt Nam, trả lời của vị Quốc sư này, đoạn dẫn những ghi nhận
của Pháp sư Ðàm Thiên (542-607) trình với vua [Trung Quốc] Tùy
Cao Tổ, có chi tiết: "Một phương Giao Châu, đường thông Thiên
Trúc, Phật pháp lúc mới tới, thì Giang Ðông chưa có, mà Luy Lâu
lại dựng chùa hơn hai mươi ngôi, độ Tăng hơn năm trăm người,
kinh dịch mười lăm quyển..." (4). Như vậy, Phật giáo được du
nhập nước ta (thời bấy giờ là Giao Châu) trực tiếp từ Ấn Ðộ,
nhưng chính xác vào năm nào thì chưa thấy ai khẳng định. Tuy
nhiên, điều chắc chắn là vào khoảng thế kỷ thứ II dương lịch (từ
đây trở đi viết tắt là dl), Phật giáo đã trở nên thịnh hành ở
nước ta với một cơ sở mạnh mẽ thể hiện qua hệ thống những cứ
liệu về số lượng Tăng sĩ, chùa chiền, thành quả của công tác
dịch thuật kinh điển, v.v... tại trung tâm Luy Lâu. Với tình
hình phát triển vào nửa cuối thế kỷ thứ II như vậy, dứt khoát nó
phải được hình thành trên cơ sở ban đầu khá lâu.
- Nếu liên kết
với những sự kiện khác, như là truyền thuyết Chử Ðồng Tử học đạo
với nhà sư Phật Quang; sự kiện Bát Nàn phu nhân, một nữ tướng
của Hai Bà Trưng, xuất gia sau cuộc kháng chiến vệ quốc thất bại
năm 43 dl; và, những xác nhận về tín ngưỡng của người Việt mà
Dương Phù đã ghi lại, rằng khoảng 100 năm sdl dân chúng tại nước
ta có trồng một loài hoa [uất kim hương] dùng để cúng Phật;
v.v...Một hiện trạng Phật giáo sinh động như thế chắc chắn phải
là kết quả của một quá trình đâm chồi nẩy lộc trước đó khá lâu
trên mảnh đất này. Như vậy, Phật giáo đã có mặt ngay tại nước ta
từ những năm đầu của kỷ nguyên dl, nếu không nói là sớm hơn.
Cũng có quan điểm cho rằng, Phật giáo truyền vào nước ta có thể
là vào thời vua A Dục (Asoka) ở thế kỷ III trước dương lịch (từ
đây trở đi viết tắt là tdl) với sự hiện diện của đoàn truyền
giáo do Sona dẫn đầu; nhưng đây mới chỉ là giả thuyết, điều này
cần được xác minh bằng các cuộc khảo cổ tại một số địa điểm nghi
vấn là có khả năng còn các chứng cứ lịch sử quan trọng ở khu vực
chùa Nê Lê (Tam Ðảo), núi Quỳnh Viên (Cửa Sót, Hà Tĩnh)...
- Vậy, về con
đường du nhập, các nghiên cứu mới đây cho biết rằng, Phật giáo
từ Ấn Ðộ du nhập nước ta chủ yếu theo đường biển, một phần khác
là theo đường bộ, con đường mà các nhà sử học thường gọi là "Con
đường Tơ lụa". Vào những năm đầu của kỷ nguyên dl, Phật giáo đã
phát triển trên đất nước ta với tư cách là một trong những hệ
thống tín ngưỡng, tôn giáo phổ biến trong quần chúng nhân dân,
qua các dữ kiện đã nêu trên.
-
II. Trung tâm Phật giáo Luy Lâu
- Về sự hiện
diện của trung tâm Luy Lâu trên đất nước ra (thuở đó là Giao
Châu) nay đã được giới nghiên cứu sử học khẳng định rõ ràng. Ðây
là một trung tâm Phật giáo hình thành sớm nhất trong khu vực,
trước cả các trung tâm của Trung Quốc như Bành Thành hay Lạc
Dương. Tuy nhiên, nó được hình thành từ lúc nào thì vẫn chưa thể
xác định. Những sử liệu còn lại chỉ cho chúng ta biết chính xác
về tình hình của trung tâm ở nửa cuối thế kỷ II dl, khi mà Luy
Lâu đã là một trung tâm Phật giáo hoàn chỉnh với số lượng khoảng
500 Tăng sĩ, xây dựng 20 chùa và dịch được 15 bộ kinh (5). Với
những con số như thế cho phép chúng ta hình dung về tình hình
hoạt động khá sôi động của Phật giáo ngay từ những thế kỷ đầu du
nhập và phát triển trên đất Việt, và chắc chắn nó phải được hình
thành từ trước đó khá xa.
- Luy Lâu được
Quốc sư đời Lý là Thông Biện nhắc đến trong sách Thiền uyển
tập anh, qua sự dẫn lại lời của sư Ðàm Thiên tâu với một ông
vua nhà Tùy là dữ liệu ít ỏi trực tiếp cho biết về Luy Lâu mà
chúng ta có được. Ngoài những lời trên, Quốc sư Thông Biện không
cho chúng ta biết thêm điều gì cụ thể hơn về tên của 20 ngôi
chùa, (việc độ) 500 vị Tăng sĩ và tên của 15 bộ kinh đã được
dịch. Nhưng điều đáng nói là, việc một trung tâm Phật giáo ở nơi
bị đô hộ được nhắc đến trong lời của một vị pháp sư Trung Quốc
là Ðàm Thiên nói với vua Tùy là Tùy Cao Tổ như thế là một minh
chứng về tình hình phát triển rầm rộ của Phật giáo tại nước ta ở
thời điểm đó. Ðiều này thể hiện rõ hơn trong phần sau mà chúng
ta sẽ tìm hiểu, qua những thành quả cụ thể của nền giáo dục Phật
giáo, mà tài năng của các gương mặt Tăng sĩ, Phật tử là minh
chứng tiêu biểu và thuyết phục.
- Với sự ra đời
của Trung tâm Luy Lâu, Phật giáo Việt Nam được xem là một trong
những trung tâm Phật giáo lớn và hình thành sớm nhất tại vùng
Viễn Ðông.
-
III. Tình hình Phật giáo trong giai
đoạn đầu du nhập
- 1.
Người Phật tử Việt Nam đầu tiên
- Trong sách
Lịch sử Phật giáo Việt Nam tập 1, bằng cách chứng minh qua
truyền thuyết Chử Ðồng Tử, về niên đại xuất hiện và giá trị lịch
sử của nó, tác giả Lê Mạnh Thát cho rằng, Chử Ðồng Tử là người
Phật tử Việt Nam đầu tiên liên hệ và học Phật pháp trực tiếp qua
người thầy Ấn Ðộ là nhà sư Phật Quang tại núi Quỳnh Viên (Cửa
Sót, Hà Tĩnh ngày nay). Niên đại của Chử Ðồng Tử cũng được tác
giả xác lập là có thể khoảng vào thời Hùng Nghị Vương thứ nhất
hoặc thứ hai, tức khoảng thế kỷ II-III tdl (6). Nếu xem Chử Ðồng
Tử và Tiên Dung là những người Phật tử Việt Nam đầu tiên hiện
biết được tên tuổi có nghĩa là xác định được sự hiện diện của
Phật giáo trên nước ta là vào thế kỷ thứ II-III tdl.
- 2.
Tiến trình tiếp thu và bản địa hóa Phật giáo
- Một vấn đề
cần được nhắc đến đầu tiên là trước khi Phật giáo du nhập nước
ta, tại đây đã có một nền văn hóa phong phú. Căn bản của nền văn
hóa này xây dựng trên cơ sở của nền văn minh nông nghiệp với các
thành tựu rực rỡ, mà cụ thể là ngoài những chứng tích của các
nền văn minh còn lại, như vào thời Hai Bà Trưng, tại nước ta đã
có bộ Việt luật, trong đó hơn 10 điều khác với Hán luật
(7), những dấu tích về ngôn ngữ Việt qua bài Việt ca còn
sót lại trong thư tịch cổ Trung Quốc (8), có hệ thống lịch pháp
riêng, hoàn toàn khác với lịch pháp phương Bắc (9), những tín
ngưỡng đặc thù cổ xưa còn lưu lại trong tín ngưỡng Phật điện đến
tận ngày nay, và đặc biệt là nền văn hóa này có sức mạnh tiếp
thu và đã chủ động bản địa hóa Phật giáo, một yếu tố văn hóa
nước ngoài, để phù hợp với nó; và hơn thế nữa, biến nó trở thành
một trong những vũ khí sắc bén và uy vũ đối kháng âm mưu đồng
hóa và nô dịch về văn hóa của phương Bắc ngay từ những ngày đầu.
- a. Tư
tưởng Phật giáo tại nước ta trong buổi đầu
- Tư tưởng Phật
giáo được truyền bá đến nước ta trong buổi đầu là gì? Giáo lý mà
ông cha ta tiếp nhận đầu tiên, ít ra là vào thời điểm xưa nhất
mà chúng ta biết được, là theo hệ thống giáo lý nào? Theo học
giả Lê Mạnh Thát, đó là tư tưởng Phật giáo có tính chất quyền
năng. Nghĩa là quan niệm cơ bản như Phật là con người siêu
nhiên, có khả năng làm tất cả những điều ngoài óc tưởng tượng
bình thường của con người, như có thể biến hóa khôn cùng, có thể
làm mọi điều theo ý muốn, v.v...
- b. Sự ra
đời của tín ngưỡng Phật Pháp Vân, một sự hòa nhập bước đầu giữa
Phật giáo và văn hóa bản địa, hay chính là bước Việt hóa Phật
giáo và Phật giáo hóa văn hóa bản địa đầu tiên
- Như đã nói,
trước khi Phật giáo đến nước ta, tại đây đã có một nền văn hóa
phát triển rực rỡ với hệ thống các quan niệm đặc thù trong đời
sống văn hóa tinh thần, trong đó có tín ngưỡng sùng bái các vị
thần biểu tượng cho các yếu tố tự nhiên có ý nghĩa sống còn đối
với một nền văn minh nông nghiệp là thần mây, thần mưa, thần
sấm, thần sét. Là một triết lý phóng khoáng, không câu nệ giáo
điều và cố chấp hay chủ trương loại trừ các tín lý ngoài tôn
giáo mình, Phật giáo đến nước ta, theo các thương nhân Phật tử
và Tăng sĩ Ấn Ðộ trong thời gian lưu trú tạm thời để buôn bán,
trao đổi hàng hóa, đã sớm ảnh hưởng vào lối sống của người dân
bản địa, và rồi được nhân dân ta từng bước chấp nhận bởi sự gần
gũi của nó, đặc biệt là trong tín ngưỡng, đời sống của người
Phật tử tại gia.
- Nước ta vào
khoảng thế kỷ thứ II có thể nói là có một nền kinh tế khá mạnh,
có chính sách mở cửa đón và đã thu hút nhiều nước khác đến giao
dịch buôn bán, trong đó có các đoàn thương nhân Ấn Ðộ, và trong
số họ có người là Phật tử thọ trì năm giới cũng như có sự hiện
diện các Tăng sĩ đi theo đoàn để cầu nguyện trong những chuyến
vượt biển đầy hiểm nguy. Họ đã đến dù không phải vì mục đích
truyền đạo, nhưng sự có mặt của họ, thông qua sinh hoạt tín
ngưỡng của người Phật tử hàng ngày, đã ảnh hưởng đến đời sống
văn hóa tinh thần của nhân dân ta.
- Nếu nói Chử
Ðồng Tử là người Phật tử đầu tiên mà chúng ta biết được hiện
nay, thì đạo Phật mà Chử Ðồng Tử và Tiên Dung tiếp nhận từ nhà
sư Phật Quang còn mang nặng tính chất Ấn Ðộ, đến những người
Phật tử Việt Nam tiếp sau, như Man Nương (người trở thành Phật
Mẫu trong tín ngưỡng của Phật giáo Việt Nam sau này, được thờ
tại chùa Phúc Nghiêm, làng Mãn Xá, gần Luy Lâu), đặc biệt là sự
ra đời của tín ngưỡng Phật điện (Tứ pháp) mà tiêu biểu là Phật
Pháp Vân, đã thể hiện sự hòa nhập của Phật giáo vào văn hóa vốn
có của bản địa. Nói khác đi là nó phản ảnh một quá trình bản địa
hóa Phật giáo, và ngược lại, Phật giáo hóa tín ngưỡng (văn hóa)
bản địa một cách hòa bình và tự nhiên. Các vị thần mà cư dân
nông nghiệp nước ta thờ tự như thần mây, thần mưa, thần sấm và
thần sét được Phật hóa, trở thành Phật Pháp Vân, Phật PhápVũ,
Phật Pháp Lôi, và Phật Pháp Ðiện. Qua sự kiện này, chúng ta
khẳng định rằng Phật giáo ngay từ ban đầu không hề có sự chống
đối với nền văn hóa bản địa, và nền văn hóa bản địa cũng không
có dấu hiệu gì phản kháng với hệ thống triết lý này.
-
IV. Những gương mặt tiêu biểu và tình
hình Phật giáo từ thế kỷ II đến thế kỷ VI
- Sau Chử Ðồng
Tử và Tiên Dung, hai gương mặt được xem là những Phật tử Việt
Nam đầu tiên mà hiện nay chúng ta biết được, có nhiều gương mặt
hoặc là Tăng sĩ bản địa, hoặc từ nước ngoài đến như Khâu Ðà La
và Ma Ha Kỳ Vực (đến nước ta vào cuối thế kỷ thứ II), hay các
"sĩ nhân Trung Quốc đến tỵ nạn", có các nhân vật được sử sách
nhắc nhiều như Tu Ðịnh, Man Nương (sống khoảng 175-255)...đã
sinh sống hoặc đến ở nước ta một thời gian và đã chịu những ảnh
hưởng nhất định; trong đó có những Phật tử, cao tăng như Mâu Tử,
Khương Tăng Hội, Ðạo Thanh, Huệ Thắng, Ðạo Thiền... tiếng tăm
không những vang trong nước mà còn vọng đến kinh đô của kẻ đô hộ
và họ là thành quả được đào tạo hay ít ra là chịu ảnh hưởng sâu
sắc bởi môi trường văn hóa dân tộc và Phật giáo Việt Nam, có
người đã "chống gậy Ðông du" sang truyền đạo ở xứ người, để lại
tiếng thơm muôn thuở. Chúng tôi sẽ điểm vài gương mặt tiêu biểu
ở giai đoạn này mà sử liệu hiện nay đã xác định.
- 1.
Mâu Tử, người đầu tiên dùng Phật giáo làm cơ sở để đánh tan luận
điệu tự tôn dân tộc của dân tộc Hán
- a. Ðôi
nét về con người Mâu Tử
- Tên tuổi của
Mâu Tử gắn liền với tác phẩm nổi tiếng Lý hoặc luận (10). Mâu Tử
tên Dung, tự Tử Bác, nên có nơi gọi là Mâu Bác, người Việt, có
thời gian sống ở Thương Ngô, niên đại khoảng 198-230 (11). Mâu
Tử là người đọc rộng biết nhiều, thông kinh làu sử, được đánh
giá là một trong những nhân tài nổi bật đương thời: "văn võ kiêm
bị, có tài chuyên đối". Gặp lúc Thương Ngô loạn lạc, ông đem mẹ
trở về nước ta (Giao Chỉ) rồi trở thành Phật tử. Năm 26 tuổi,
ông trở sang Thương Ngô để cưới vợ rồi về lại Việt Nam. Khoảng
mười năm sau đó thì mẹ mất, ông dốc lòng vào đạo. Khi Mâu Tử về
Giao Chỉ thì nước ta đang trong thời kỳ độc lập về chính trị với
chính quyền do Chu Phù và Sĩ Nhiếp (12) lãnh đạo. Dù được cử đi
đô hộ, là ngoại tộc, nhưng khi đến nước ta, có người đã bị Việt
hóa và Phật giáo hóa, mà Chu Phù và Sĩ Nhiếp là hai điển hình.
Chính quyền của Chu Phù và Sĩ Nhiếp là những chính quyền độc lập
không lệ thuộc văn hóa Hán, "vứt thánh điển của tiền thánh, bỏ
pháp luật của Hán gia" để theo một quy cách mới, được xây dựng
trên cơ sở của một nền văn hóa mới vừa Việt Nam vừa Phật giáo.
Phật giáo nước ta thời bấy giờ do thế đã phát triển rực rỡ lắm
rồi. Ðiều này được xác nhận qua dữ liệu nói về trung tâm Luy Lâu
đã nêu trước và qua những quan điểm của Mâu Tử trong tác phẩm
của ông. Ðó là bối cảnh đã sản sinh những anh tài cho đất nước
như Mâu Tử và là động lực để ông viết nên tác phẩm Lý hoặc
luận bất hủ. Là người tài giỏi, nhưng ông không thích ra làm
quan, đã từ chối nhiều lời mời của các đại diện chính quyền
trong thời gian ông sống ở Giao Chỉ như Chu Phù và Sĩ Nhiếp,
cũng như lúc về Thương Ngô.
- Ðiều này sẽ
được làm sáng tỏ hơn trong những quan điểm của Mâu Tử ở tác phẩm
Lý hoặc luận, ở chí khí tự tín và tư tưởng đối kháng đã
đánh tan luận điệu tự tôn dân tộc và khinh miệt các dân tộc khác
của Trung Quốc vào thời bấy giờ.
- b. Vài
nét về nội dung sách "Lý hoặc luận"
- Lý hoặc
luận được Mâu Tử viết năm 198, nội dung các vấn đề được
triển khai dưới hình thức những câu hỏi và trả lời, tất cả có 37
điều. Khảo sát nội dung của 37 điều này, học giả Lê Mạnh Thát
chia nó thành 3 nhóm chính. Nhóm 1 trình bày tổng quát về Phật
giáo (điều 1 đến điều 3). Nhóm 2 tập trung bàn về những mối quan
hệ giữa Phật giáo và Nho giáo (điều 4 đến điều 28). Nhóm 3 tập
trung phê phán Ðạo giáo (điều 29 đến điều 37). Bằng những thủ
pháp trình bày vấn đề tài tình, thuyết phục và có hệ thống, tác
giả của Lý hoặc luận đã không những đề cao giá trị của
đạo Phật (dĩ nhiên là đạo Phật mà Mâu Tử đã tiếp thu được ở Giao
Chỉ), mà với những nhận xét tinh tế, nhất là về Nho giáo, ông đã
phê phán các quan điểm sai lầm và cứng nhắc của nó một cách kịch
liệt. Ðiểm nổi bật của Lý hoặc luận là ở chỗ, qua sự bài
Nho và Lão giáo, đề cao Phật giáo, Mâu Tử đã đánh tan luận điệu
tự tôn dân tộc và thái độ khinh bạc các dân tộc khác của Trung
Quốc. ơâng đã khẳng khái tuyên bố, rằng "Thi Thư chưa phải là
lời thánh hiền", "đất Hán chưa hẳn là trung tâm của trời đất",
đây là đòn chí mạng đánh vào óc tự tôn và hẹp hòi của văn hóa
Hán lúc bấy giờ cũng như cả sau này. Giá trị cơ bản của tác phẩm
Lý hoặc luận là gì? Theo học giả Lê Mạnh Thát, "trong bối
cảnh văn hóa Việt Nam thời Mâu Tử, Lý hoặc luận không
phải viết để xiển dương Phật giáo, mà là cuộc tổng kết cuộc đấu
tranh về văn hóa, giữa văn hóa Việt Nam đối với văn hóa phương
Bắc, mà chủ yếu là Phật giáo đối với Nho giáo..." (13). Bối cảnh
văn hóa thời Mâu Tử là như thế nào? Ðấy là lúc đất nước ta bị
Bắc thuộc. Chính quyền đô hộ sử dụng chính sách "đức giáo" để
cai trị, nhưng thực chất là áp đặt văn hóa Hán để âm mưu đồng
hóa dân tộc ta. Họ đem Kinh Thi, Kinh Thư ra dạy cho người Việt,
và tuyên truyền tư tưởng độc tôn "đất Hán là trung tâm của trời
đất". Trong Lý hoặc luận, Mâu Tử đã phân tích vạch trần
những điều man trá đó một cách hùng hồn. Qua những phê phán về
Nho giáo và Lão giáo, ông đã cho thấy rằng hai hệ tư tưởng này
không có quan hệ với Phật giáo và văn hóa Việt Nam. Lập trường
đối thoại của Mâu Tử được thiết lập trên nền tảng của ý thức văn
hóa dân tộc Việt Nam và văn hóa Phật giáo, một nền văn hóa không
bảo thủ và luôn cởi mở, được nhân dân ta tiếp nhận và nhanh
chóng được vận dụng làm vũ khí sắc bén chống lại âm mưu đồng hóa
và nô dịch văn hóa của nhà nước Trung Quốc, cụ thể là qua tư
tưởng của Lý hoặc luận mà chúng ta biết được cho đến tận
hôm nay. Xu hướng này luôn được thể hiện rõ qua các thời kỳ lịch
sử, trước những yêu cầu của thời đại, trong giai đoạn xây dựng
nền độc lập tự chủ của dân tộc cũng như trong công cuộc bảo vệ
đất nước của nhân dân ta.
- Những tư liệu
về văn hóa và lịch sử của dân tộc ta trước thế kỷ XV hiện có rất
ít, các tác phẩm sớm hơn càng hiếm hoi do bị thất lạc hoặc bị kẻ
thù thủ tiêu ở các giai đoạn nước ta bị phương Bắc xâm lăng và
đô hộ. Do đó, Lý hoặc luận của Mâu Tử là một trong những
tư liệu rất quý hiếm. Nó không những cho phép chúng ta truy về
tình hình văn hóa, học thuật, tư tưởng, chính trị của đất nước
ta ở thế kỷ II và III sdl, mà còn cho biết vị trí hết sức quan
trọng của Phật giáo trong nền văn hóa dân tộc, và tư tưởng Phật
giáo phổ biến của tổ tiên chúng ta thời bấy giờ là tư tưởng Phật
giáo mang tính quyền năng, thí dụ quan niệm Ðức Phật có những
năng lực siêu nhiên mà Mâu Tử đã viết trong Lý hoặc luận:
"Phật nghĩa là giác ngộ, nhanh chóng biến hóa, phân thân tán
thể, hoặc còn hoặc mất, hay lớn hay nhỏ, hay tròn hay vuông, hay
già hay trẻ, hay ẩn hay rõ, đạp lửa không cháy, đi dao không
đứt, gặp bẩn không dơ, mắc tai không họa, muốn đi thì bay, ngồi
thì tỏa sáng..." (14). Và đồng thời thông qua đó, chúng ta biết
được tình hình phát triển rực rỡ của Phật giáo Việt Nam ở thế kỷ
thứ II và thứ III sdl, mà gương mặt người Phật tử anh tài đại
diện là Mâu Tử.
- 2.
Khương Tăng Hội, vị Tăng Việt Nam đầu tiên thành công rực rỡ
trong công tác khai hóa truyền bá Phật giáo ở nước ngoài (Trung
Quốc)
- a. Vài
nét về con người Khương Tăng Hội
- Khương Tăng
Hội là một nhân vật đặc biệt không những đối với Phật giáo nước
ta mà ngay cả đối với Phật giáo Trung Quốc, bởi Ngài là người
đầu tiên sau khi học đạo ở Việt Nam đã mang những sở học và sở
tu của mình sang truyền bá ở Trung Quốc (nước Ngô), gây dựng một
phong trào học Phật ngay tại đó.
- Ngài là người
gốc Khương Cư (Sogdiane), nhưng tổ tiên đã mấy đời di cư đến Ấn
Ðộ. Cha Ngài là một thương nhân, đến nước ta (Giao Chỉ) sống để
buôn bán và sinh Ngài tại đây. Năm sinh của Ngài không rõ, nhưng
khoảng những năm 200-220 sdl. Về thân thế của mẹ Ngài thì không
thấy sử liệu nào ghi chép, nhiều nhà nghiên cứu giả thiết có thể
là một người con gái Việt Nam. Năm Ngài hơn 10 tuổi thì cha mẹ
qua đời. Sau khi chịu tang song thân, ngài xuất gia tu học, nổi
bật là người có tính siêng năng hết mực. Ðánh giá về con người
Khương Tăng Hội, Cao tăng truyện (15), một tác phẩm quan
trọng ghi chép tiểu sử các cao tăng Trung Quốc, viết: "Là con
người học rộng và nhã nhặn, có tầm hiểu biết, dốc chí hiếu học,
rõ hiểu ba tạng (16), xem khắp sáu kinh (17), thiên văn đồ vỹ,
phần lớn đều biết, giỏi việc ăn nói, lanh việc viết văn" (18).
- Khương Tăng
Hội sinh ra, xuất gia và thọ giới Tỳ kheo ở nước ta, được thừa
hưởng và trưởng thành trong môi trường văn hóa Việt Nam và giáo
dục Phật giáo Việt Nam, "một nền giáo dục tổng hợp toàn diện",
"không chỉ giới hạn trong chức năng truyền giáo, đào tạo ra
những con người Phật giáo, mà trên hết và trước hết là đào tạo
ra những trí thức dân tộc toàn diện có tính bách khoa am hiểu và
lãnh hội được tinh hoa dân tộc và nhân loại của thời đại mình,
rồi trở lại đóng góp bằng những thành quả của mình cho kho tàng
hiểu biết của loài người" (19). Bởi vậy, không ngạc nhiên gì khi
các nhà viết sử Trung Quốc đã nhận định về ngài Khương Tăng Hội
như đã trích dẫn ở trên.
- Sau khi được
đào tạo trong môi trường giáo dục như thế, Khương Tăng Hội lên
đường vân du hóa đạo. Năm Xích Ô thứ mười theo lịch phương Bắc,
tức năm 247 dl, Ngài đến Kiến Nghiệp, thủ đô của nước Ngô (nay
là Nam Kinh, Trung Quốc) để hoằng pháp. Ngài đã hành đạo trên
đất nước này khoảng 33 năm, thuyết phục vua Ngô là Tôn Quyền
dựng chùa Kiến Sơ, một ngôi chùa đầu tiên tại đây, rồi quy y năm
giới cho Tôn Hạo (ở ngôi 264-280), và dịch thuật, chú giải nhiều
kinh điển. Ngài mất vào tháng Chín năm 280 (năm Thiên Kỷ thứ
tư), không biết chính xác thọ bao nhiêu tuổi, nhưng theo học giả
Lê Mạnh Thát thì chắc chắn phải ngoài sáu mươi, nếu chấp nhận
giả thiết Ngài sinh vào khoảng những năm 200-220 dl (20). Khương
Tăng Hội là vị Tăng Việt Nam đầu tiên hiện biết được đã thành
công rực rỡ trong công tác hoằng pháp và đã để lại dấu ấn lớn
trong lịch sử Phật giáo không những của nước ta mà của cả Trung
Quốc.
- b. Vài
nét về sự nghiệp hoằng pháp của ngài Khương Tăng Hội và tình
hình Phật giáo Việt Nam thế kỷ thứ III
- Sự nghiệp
phiên dịch và trước tác của ngài Khương Tăng Hội khá lớn, có nơi
nói tất cả gồm "14 bộ hợp thành 29 quyển" (21), những nghiên cứu
mới đây cho biết tác phẩm của Ngài gồm có Lục độ tập kinh,
Ðạo phẩm, Tạp thí dụ kinh, An ban thủ ý kinh chú, Pháp kính kinh
chú, Ðạo thọ kinh chú, An ban thủ ý kinh tự, Pháp kính kinh tự,
Ðạo thọ kinh tự, nhưng hiện đã bị mất phân nửa, chẳng hạn
các tác phẩm Ðạo phẩm, Pháp kính kinh chú, Ðạo thọ kinh chú
và Ðạo thọ kinh tưạ không còn. Tuy nhiên, qua những
tác phẩm còn lại trên là những tư liệu vô cùng quý giá, giúp
chúng ta nhận thức đúng hơn về lịch sử và đời sống văn hóa của
dân tộc nói chung, và tình hình của Phật giáo Việt Nam sau thời
của Mâu Tử, tức thế kỷ thứ III, nói riêng.
- Khương Tăng
Hội là một thành quả cụ thể và sống động của nền giáo dục dân
tộc và giáo dục Phật giáo thời bấy giờ. Trong con người vị Tăng
này luôn âm ỉ ý thức về quê hương là đất nướcViệt. Ðiều đó được
Ngài thể hiện vào các dịch phẩm của mình, bảo lưu những đặc
trưng văn hóa của nơi chôn nhau cắt rốn, đặc biệt là về truyền
thuyết Trăm trứng trong Lục độ tập kinh (22), hay những
tình cảm tha thiết mà Ngài bộc bạch trong bài tựa (tự) kinh
An ban thủ ý: "Hội tôi, sinh ra tới tuổi vác củi thì
cha mẹ đã qua đời. Các bậc tam sư cũng theo nhau khuất núi, mỗi
khi ngước nhìn đất trời không khỏi cảm thấy xúc động, buồn
thương rơi lệ...". Ðó là những thông tin hết sức quý giá cho
chúng ta biết về lịch sử khởi nguyên của dân tộc, về sức mạnh
của nền văn hóa Việt Nam vào giai đoạn những thế kỷ đầu kỷ
nguyên dương lịch, mà Phật giáo là nhân tố nuôi dưỡng và gìn
giữ.
- Qua con người
Khương Tăng Hội, một vị cao tăng xuất gia tu học trong môi
trường văn hóa dân tộc và Phật giáo Việt Nam, đã nói lên điều gì
về tình hình Phật giáo nước ta thời bấy giờ? Về vấn đề này, học
giả Lê Mạnh Thát nhận định: "Phật giáo Việt Nam vào thời Khương
Tăng Hội đã xây dựng thành công một cơ cấu giáo dục khá hoàn
chỉnh và đa dạng, bao gồm toàn bộ tất cả các ngành tri thức có
mặt ở thời đó, mà không đóng khung vào một giới hạn chật hẹp
nào. Người ta không chỉ học ba tạng kinh điển, sáu kinh của Nho
giáo, mà còn học tới cả khoa sấm vỹ thiên văn, thậm chí cả khoa
ứng đối, và đặc biệt truyền thống dân tộc Việt Nam. Nền giáo dục
ấy, vì vậy, có thể nói là đại diện cho nền giáo dục Việt Nam thế
kỷ thứ II và thứ III đối lập lại với nền giáo dục nô dịch Trung
Quốc đang tồn tại song song cùng nó. Nhờ thế, qua lịch sử nó đã
đào tạo ra những thiên tài đáp ứng được yêu cầu của đất nước, và
được tiếp nối cho đến ngày nay" (23). Một nền giáo dục Phật giáo
tự tin như thế chỉ có thể tồn tại trong một môi trường đất nước
có những độc lập về văn hóa, và ở đó Phật giáo phát triển mạnh
mẽ. Dĩ nhiên, nền giáo dục này không thuần túy tôn giáo, mà hòa
quyện trong đó là một ý thức dân tộc sâu sắc. Con người, sự
nghiệp và tư tưởng của Khương Tăng Hội là một thí dụ điển hình.
- Ðến thế kỷ
thứ III, với Khương Tăng Hội và những hoạt động hoằng pháp thành
công của Ngài trên đất nước Trung Quốc, Phật giáo Việt Nam đã
phát triển rực rỡ và khẳng định một bản lĩnh và sứ mệnh của Phật
giáo đối với dân tộc mà Mâu Tử trước đó đã vạch đường. Ðể đánh
giá về vị thế của con người này trong lịch sử Phật giáo Việt Nam
và lịch sử dân tộc, tác giả của Lịch sử Phật giáo Việt Nam
Lê Mạnh Thát đã viết, "...lần đầu tiên Phật giáo nước ta đã
thành công khi thực hiện nghĩa vụ hoằng pháp của mình đối với
thế giới và dân tộc ta, đã khẳng định mạnh mẽ bản lĩnh văn hóa
ưu việt của mình qua việc Ðông du khai hóa của Khương Tăng
Hội..." (24), và " ...dân tộc ta thông qua và kết hợp chặt chẽ
với Phật giáo đã xây dựng xong bức tường thành văn hóa có khả
năng chận đứng mọi âm mưu xâm lược và đồng hóa của kẻ thù, mà
Khương Tăng Hội là một cột mốc trong bức tường thành đó" (25).
Ðấy cũng chính là điểm đáng chú ý của Phật giáo nước ta ở thế kỷ
thứ III. Con đường này được tiếp nối sau đó với những gương mặt
nổi bật hiện biết được như các ngài Thích Huệ Thắng, Thích Ðạo
Thiền, Ðại Thừa Ðăng, v.v...
- 3.
Ðôi nét về nhà dịch thuật Thích Ðạo Thanh
- Ngoài ngài
Khương Tăng Hội, thế kỷ thứ III còn có tên tuổi Tăng sĩ Việt Nam
cự phách khác hiện biết được là nhà dịch thuật Việt Nam Ðạo
Thanh (26) (sinh khoảng năm 220, mất năm 300), người đã bút thọ
cho bản dịch Pháp Hoa tam muội kinh (27) của Chi Cương
Lương Tiếp (28) dịch từ tiếng Phạn sang chữ Hán, lưu hành tại
nước ta khoảng sau năm 258. Qua ngài Ðạo Thanh và mối liên hệ
trong bản dịch kinh Pháp Hoa, chúng ta biết thêm về Chi
Cương Lương Tiếp, một nhà sư người gốc Ấn Ðộ đếân ở và làm việc
tại Việt Nam vào khoảng những năm 256.
- Ngài Ðạo
Thanh là người đã cộng tác với Chi Cương Lương Tiếp trong công
việc phiên dịch kinh điển, mà một trong những kết quả hiện biết
được là bút thọ bản dịch kinh Pháp Hoa từ chữ Phạn sang
chữ Hán. Việc phân trách nhiệm bút thọ bản dịch kinh Pháp Hoa
chứng tỏ rằng Ngài phải là người có một trình độ Phật học vững
vàng, có sự hiểu biết chắc chắn không những về Phạn ngữ mà còn
thông thạo tiếng Việt và Hán văn. Ðây lại là một bằng chứng về
thành quả của nền giáo dục Phật giáo chất lượng và uy tín tại
nước ta ở giai đoạn bấy giờ; và việc các nhà Phật học đến nước
ta, cộng tác với các nhà sư Việt Nam, cho biết nước ta là một
trung tâm Phật giáo lớn trong khu vực, đủ sức hấp dẫn để thu hút
các nhà Phật học từ các nơi khác hội tụ về, và các nền giáo dục
Phật giáo nước ta đã đào tạo nên những con người thực chất, mà
những đại biểu ưu tú là các ngài Mâu Tử, Khương Tăng Hội, Ðạo
Thanh...
- Cũng qua việc
ngài Ðạo Thanh hợp tác với nhà sư nước ngoài là Chi Cương Lương
Tiếp dịch kinh Pháp Hoa tam muội, một bộ kinh có sự liên
hệ chặt chẽ với phương pháp thiền định an ban do Khương Tăng Hội
xiển dương trước đó; nói đúng hơn, đây chính là cơ sởã lý luận
vững vàng cho phương pháp trên, cũng như là một trong những nền
tảng để giải đáp các thắc mắc nảy sinh trong quá trình đấu tranh
để phát triển của tư tưởng Phật giáo tại nước ta sau này.
- 4. Vu
Pháp Lan và Vu Ðạo Thúy, hai danh tăng của Phật giáo Trung Quốc
đến Việt Nam vào thế kỷ IV
- Phật giáo thế
kỷ thứ IV thường bị hiểu một cách sai lệch, không ít người cho
rằng giai đoạn này Phật giáo nước ta không có gì nổi bật, không
có các gương mặt Phật tử và Tăng sĩ tiếng tăm vang dội chẳng
những ở trong nước mà còn cả ở nước ngoài như trước. Ðó là một
ngộ nhận hết sức sai lầm. Vào thế kỷ thứ IV, Phật giáo Việt Nam
vẫn là một trung tâm Phật giáo lớn ở phương Ðông, vẫn thu hút
các danh nhân, cao tăng ngoài nước tụ hội về, mà trường hợp các
ngài Vu Pháp Lan (khoảng 270-320) và Vu Ðạo Thúy (khoảng
285-315), hai nhân vật cự phách trong học giới Phật giáo Trung
Quốc, vị Tăng Ấn Ðộ Kỳ Vực với nhiều khả năng linh dị, đã đến
hoặc ghé qua nước ta là những thí dụ điển hình. Ðấy là chưa kể
đến những gương mặt như Chí Hàm, tác giả của Triệt tâm ký
(sống ở nước ta khoảng từ năm 300 đến 360), hay Hiền Pháp sư ,
người viết Minh tường ký nổi tiếng, v.v...
- Theo Cao
tăng truyện của Huệ Hạo, Vu Pháp Lan người Cao Dương, xuất
gia năm 15 tuổi, có tư chất thông minh khác thường, tu học rất
tinh tấn, đạo phong lẫy lừng núi sông, lại có tính thích thưởng
ngoạn phong thủy. Tương truyền, Ngài có nhiều khả năng khác
thường, ở chung với cọp mà không bị cọp hại, lại có thể thuần
hóa nó. Ðương thời, mặc dù được mọi giới trọng vọng, nhưng tự
thấy chưa thỏa mãn với những gì đã tiếp thu, Ngài quyết định lên
đường đi Ấn Ðộ nhằm có thể tham cứu kinh điển Phật giáo một cách
đầy đủ hơn. Trên đường đi, Ngài đã dừng chân ở Giao Châu, mắc
bệnh rồi mất tại nước ta. Vu Pháp Lan có nhiều học trò, nhưng
nổi bật hơn cả là Vu Pháp Khai và Vu Ðạo Thúy, hai nhà y dược
tiếng tăm đồng thời là những nhà Phật học lớn. Hai vị này là
người đã chủ trương hai trong bảy trường phái Bát nhã học của
Trung Quốc (29).
- Cũng Cao
tăng truyện cho biết, Vu Ðạo Thúy là người Ðôn Hoàng, cha mẹ
mất lúc tuổi còn nhỏ, ở với người chú, là người có lòng hiếu
nghĩa hết mực. Năm 16 tuổi xuất gia làm đệ tử của ngài Vu Pháp
Lan. Vu Ðạo Thúy là người có học nghiệp cao minh, kiến thức rộng
rãi, không chỉ uyên thâm Phật học mà còn giỏi cả nghề y, nhân
cách thì thanh cao giản dị, tính cũng thích thưởng ngoạn phong
cảnh núi non sông nước. Người đời rất ngưỡng mộ tài năng và nhân
cách của Ngài. Ngài theo thầy là Vu Pháp Lan đi Ấn Ðộ, nhưng
chưa đi hết chuyến hành trình thì mất tại bình nguyên Bắc bộ của
nước ta.
- Sự kiện hai
nhân vật Tăng sĩ tầm cỡ như thế chọn con đường phương Nam để đi
Ấn Ðộ và đã hiện diện ở Việt Nam vào thế kỷ thứ IV (khoảng sau
năm 307) dĩ nhiên không thể diễn ra trong không khí im lặng, mà
nhất định phải có những hoạt động trao đổi về học thuật Phật
giáo giữa họ với các cao tăng, các học giả huyền học bản xứ. Và
do đó, những vấn đề quan trọng trong tư tưởng và triết học Phật
giáo như Bát nhã, Không, Phật, Tâm, v.v... có thể đã được đem ra
thảo luận một cách sôi nổi. Nhưng đáng tiếc là hiện chúng ta
chưa biết được gì nhiều. Hơn thế nữa, cũng có khả năng hai nhân
vật này đã ghé lại đây để tìm hiểu thêm văn hóa và học ngôn ngữ
để chuẩn bị cho việc đến Thiên Trúc, bởi như đã nói, tại nước ta
ở giai đoạn này có không ít người Ấn Ðộ đến sinh sống và giao
thương. Về mặt tư tưởng, có một đặc điểm đáng chú ý là, học
phong của hai vị Tăng trên mặc dù thuộc trường phái Bát nhã học,
nhưng bản chất nó, đặc biệt là đối với ngài Vu Pháp Lan, là tư
tưởng Phật giáo mang tính quyền năng, biểu hiện cụ thể qua việc
hàng phục thú dữ, điều được quỷ thần, mà tiểu truyện về Ngài
trong Cao tăng truyện đã chép. Ðây là điểm phù hợp với xu
hướng chung của Phật giáo Việt Nam, xu hướng Phật giáo quyền
năng vốn có trước đó mà Mâu Tử và Khương Tăng Hội đã từng quan
niệm. Và, chính điều này là điểm lôi cuốn người Phật tử Việt Nam
khi các Ngài sang nước ta, chứ không phải là học phong Bát nhã
học của họ.
- Trước khi hai
thầy trò tiếng tăm lẫy lừng Vu Pháp Lan và Vu Ðạo Thúy đến và
mất tại nước ta, có một nhà sư Ấn Ðộ là Kỳ Vực đã ghé ở. Trong
thời gian lưu lại đất Việt, cũng như hai nhân vật trên, hành
tích của ngài Kỳ Vực không thấy sử sách Trung Quốc ghi rõ, nhưng
qua hành trạng của Ngài, một người với những khả năng phi
thường, có thể qua sông mà không cần đò, xoa đầu cọp dữ, có thể
biến hóa tùy ý, biết được tiền kiếp của người khác...như một
minh chứng cho mẫu người giác ngộ mà Mâu Tử đã quan niệm trong
Lý hoặc luận từ thế kỷ thứ II và Khương Tăng Hội tiếp
theo sau (thế kỷ thứ III) đã chỉ ra phương cách để đạt đến mục
tiêu đó là bằng pháp tu thiền định (an bang) gồm bốn giai đoạn
được viết trong bài tựa cho bản dịch An bang thủ ý của
Pháp sư An Thế Cao. Xu hướng Phật giáo quyền năng đến thế kỷ IV
lại càng được khẳng định, bổ trợ qua sự hiện diện của những vị
Tăng Ấn Ðộ và Trung Quốc có khả năng linh dị, khác thường như
các ngài Kỳ Vực, Vu Pháp Lan, Vu Ðạo Thúy... mà chúng ta hiện
biết được.
- Vậy, Phật
giáo ở nước ta vào thế kỷ thứ IV vẫn phát triển, nếu không nói
là phát triển rực rỡ trong các phạm trù Phật giáo do các ngài
Mâu Tử và Khương Tăng Hội thiết lập nên ở hơn một trăm năm
trước, đó là nền tư tưởng Phật giáo quyền năng. Về mặt xã hội,
Phật giáo Việt Nam vẫn là một trong những trung tâm lớn được sự
chú ý đặc biệt, là nơi chọn dừng chân, hoặc đến ở tu học của
nhiều danh tăng nước ngoài, kể cả Ấn Ðộ và Trung Quốc; vẫn tồn
tại một nền giáo dục toàn diện, thành công trong công tác đào
tạo nhân tài cho Phật giáo và đất nước, như trường hợp ngài Ðạo
Thiền, mà kiến thức lẫn đạo phong vang dội ở Trung Quốc, được
mọi giới trí thức và bình dân đều trọng vọng và kính ngưỡng.
- 5. Sự
kiện "sáu lá thư" trao đổi giữa hai vị Tăng Việt Nam là Ðạo Cao
và Pháp Minh với Lý Miễu, và cuộc đấu tranh tư tưởng chuẩn bị
cho một giai đoạn phát triển mới của Phật giáo Việt Nam
- a. Về các
nhân vật Ðạo Cao, Pháp Minh và Lý Miễu
- Sáu lá thư
trao đổi giữa hai vị Tăng Việt Nam là Ðạo Cao và Pháp Minh với
Lý Miễu là một trong những phát hiện quan trọng của học giả Lê
Mạnh Thát từ thư tịch chữ Hán của Trung Quốc (30), cống hiến cho
sự nghiệp nghiên cứu lịch sử dân tộc nói chung và lịch sử Phật
giáo Việt Nam nói riêng một tư liệu hết sức giá trị, đặc biệt là
cho biết về cuộc vận động tư tưởng của dân tộc và của Phật giáo
ở giai đoạn trước khi Nhà nước độc lập Vạn Xuân ra đời năm 544.
- Ðạo Cao và
Pháp Minh là hai vị Tăng người Việt Nam (Giao Châu pháp sư),
niên đại được xác định như sau: ngài Ðạo Cao sinh khoảng năm 365
và mất năm 445, ngài Pháp Minh sinh khoảng năm 370 và tịch
khoảng năm 460. Ngài Ðạo Cao được biết thêm là tác giả của tác
phẩm Tá âm, Ðạo Cao pháp sư tập, nhưng đáng tiếc là nay
đã mất. Ngoài những thông tin ít ỏi trên, và những thông tin từ
các lá thư cho biết, chúng ta hiện chưa biết gì rõ hơn về thân
thế và sự nghiệp của hai vị Tăng uyên thâm này.
- Về Lý Miễu
thì cũng không khá hơn. Tư liệu Trung Quốc ghi là sứ quân của
Giao Châu. Tuy nhiên, trong số những người mà chính quyền phương
Bắc cử đi làm thái thú ở nước ta không thấy ai tên là Lý Miễu.
Có giả thiết cho rằng, Lý Miễu có thể là tên khác của Lý Trường
Nhân (khoảng 420-470) , hoặc cũng có thể là một người lãnh đạo
của nước ta, đứng đằng sau chính quyền "hữu danh vô thực" dưới
danh nghĩa là các thái thú để điều hành đất nước với sự độc lập
về chính trị cũng như văn hóa thường thấy trong giai đoạn này.
Căn cứ vào cách xưng hô của hai vị thầy của Lý Miễu (31), thì
ông phải là một trong những vị hoàng đế của nhà nước độc lập
Việt Nam thời bấy giờ. Nhưng dẫu thế nào đi nữa, khi tiểu sử của
các nhân vật như Pháp sư Ðạo Cao, Pháp Minh, Phật tử Lý Miễu
chưa thể xác định rõ, thì sự kiện "sáu lá thư" vẫn là một hiện
thực lịch sử, có niên đại khoảng 435-455, và tại nước ta đã diễn
ra một cuộc vận động, đấu tranh tư tưởng gay gắt, mà nội dung
của sáu lá thư đã phản ánh được vấn đề chính của cuộc đấu tranh
tư tưởng ấy.
- b. Nguyên
nhân sự ra đời của sáu lá thư hay tình hình của Phật giáo Việt
Nam thế kỷ V
- Vấn đề nổi
bật trong cuộc trao đổi giữa Lý Miễu với các vị thầy của ông qua
sáu lá thư là gì? Và lý do tại sao nó diễn ra trong giai đoạn
này? Ở đây không thể nói kỹ, mà chỉ nêu lên vài nguyên nhân sơ
lược tạm để hình dung bối cảnh của nó, đồng thời qua đó thấy
được tình hình của Phật giáo trong thế kỷ thứ V, thời điểm mà
những tư tưởng Phật giáo quyền năng do các ngài Mâu Tử và Khương
Tăng Hội thiết lập từ thế kỷ thứ II và III đang rơi vào khủng
hoảng.
- Sau hơn năm
trăm năm du nhập, Phật giáo được tiếp nhận và đã có nền tảng
vững vàng. Người Phật tử không chỉ tin theo giáo lý do những nhà
truyền giáo tiên phong thiết lập nên, mà chủ động đặt vấn đề đối
với giáo lý đó. Sự hoài nghi và liên hệ so sánh giữa các hệ
thống tư tưởng, nói rõ hơn là giữa Phật giáo với Nho và Lão
giáo, thậm chí ngay trong nội thân các khuynh hướng tư tưởng của
Phật giáo, đã tạo nên một cuộc tranh luận sôi nổi vào thế kỷ thứ
V ở Trung Quốc cũng như ở nước ta.
- Ở Trung Quốc,
nổi bật đáng chú ý của cao trào đó là sự ra đời của tác phẩm
Quân thiện luận (32) của một vị sư nổi tiếng đa tài là Huệ
Lâm, người từng có một vai trò chính trị quan trọng trong triều
đại của Tống Văn đế cầm quyền, từng được mệnh danh là "Hắc y tể
tướng" (Tể tướng thầy tu). Trong đó, sư Huệ Lâm công kích Phật
giáo, nói đúng hơn là phê phán hiện trạng Phật giáo Trung Quốc
đương thời, một cách kịch liệt. Sư Huệ Lâm, qua tác phẩm này,
bộc lộ ý đồ xã hội hóa Phật giáo để nó trở thành một lực lượng
tích cực dấn thân xây dựng đất nước qua việc thiết lập một quan
niệm Phật giáo dung hòa tư tưởng Nho gia, đặc biệt là về mặt đạo
đức xã hội, với thuyết "thù đồ đồng quy" (33). Quan điểm này bị
chống đối nhiều hơn là ủng hộ. Nó đã tạo nên làn sóng phản ứng
giận dữ trong hàng ngũ Phật giáo, kết quả là sư Huệ Lâm bị trục
xuất sang Việt Nam vào khoảng sau năm 456 và sống những năm cuối
đời tại nước ta.
- Sau khi sang
Việt Nam, với tài năng như thế, chắc chắn sư Huệ Lâm sẽ được
người lãnh đạo nước ta hoặc lãnh đạo các phong trào khởi nghĩa
giành độc lập dân tộc thời bấy giờ quan tâm đặc biệt, đồng thời
cũng tạo nên ảnh hưởng trong giới Phật giáo. Một vấn đề hết sức
đáng quan tâm là vào thế kỷ thứ V, tại nước đang ở cao trào vận
động giành quyền tự chủ độc lập cho dân tộc, chống lại thế lực
phương Bắc. Về mặt chính trị, chúng ta đã có những thành quả
lớn, chẳng hạn cuộc khởi nghĩa của Lý Trường Nhân thành công, mở
ra một giai đoạn độc lập tự chủ dân tộc tạm thời. Về mặt trận
văn hóa và tư tưởng, cũng trong tình hình đó, đòi hỏi chúng ta
có một nền văn hóa, tư tưởng không những đủ sức mạnh để phản
kháng với văn hóa phương Bắc mà còn đối thoại trong thế bình
đẳng. Ðó có thể nói là bối cảnh ra đời của sự kiện "sáu lá thư",
hay cuộc đấu tranh về tư tưởng của Phật giáo để tương thích với
xu thế mới của lịch sử và thời đại.
- Với tầm quan
trọng như thế, vậy nội dung chính mà "sáu lá thư" đặt ra là gì?
- c. Nội
dung của cuộc trao đổi giữa Lý Miễu và hai vị thầy của ông là
Pháp sư Ðạo Cao và Pháp Minh, hay sự khủng hoảng của nền Phật
giáo quyền năng
- Nội dung cơ
bản của cuộc trao đổi giữa Phật tử Lý Miễu với hai người thầy
của ông là các ngài Ðạo Cao và Pháp Minh xoay quanh vấn đề tại
sao nói Phật linh nghiệm, quyền năng biến hóa tùy ý, nhưng không
thể thấy được Phật, Ðức Phật không thị hiện ra giữa đời cho
người Phật tử chứng kiến? (34) Cuộc thảo luận qua thư từ này đã
giải quyết được vấn đề gì? Và quan niệm về Ðức Phật nói riêng và
Phật giáo nói chung có gì khác so với quan niệm trước đó và của
Trung Quốc?
- Trọng tâm của
"sáu lá thư" là bàn luận quan niệm về Ðức Phật, một vấn đề cơ
bản của tư tưởng Phật giáo. Tuy nhiên, nó không xây dựng hay đề
ra một định nghĩa mới so với quan niệm mà các ngài Mâu Tử và
Khương Tăng Hội xiển dương. Những nghi vấn tại sao không thấy
được Phật hay Phật không thị hiện cho người đời thấy mà Phật tử
Lý Miễu đã đặt ra được Pháp sư Ðạo Cao đáp lại bằng thuyết cảm
ứng (35) vốn phổ biến trong dân gian và đã được Phật giáo hóa
thành tín ngưỡng tôn giáo của dân tộc khá lâu trước đó. Sự kiện
này đã phản ánh tình trạng khủng hoảng niềm tin tôn giáo trước
một xu thế đang trỗi dậy của ý thức dân tộc, xu thế tự ý thức
khả năng và sức mạnh vô cùng to lớn của bản thân, xu thế tư duy
mang tính duy lý hơn đang diễn ra trong xã hội, trong yêu cầu
cấp thiết là xây dựng nền độc lập tự chủ lâu dài cho dân tộc.
- Mặc dù có
những ảnh hưởng qua lại giữa Phật giáo nước ta và Trung Quốc,
nhưng với quan niệm trên, qua "sáu lá thư", đã cho thấy Phật
giáo mà tổ tiên chúng ta tiếp thu và xây dựng có những đặc thù
so với Phật giáo phát triển ở Trung Quốc. Thế kỷ thứ V, hệ thống
kinh điển được đưa đến Trung Quốc khá đầy đủ, quan niệm về Ðức
Phật cũng đã khác, yếu tố lịch sử được chú trọng nhiều hơn. Ðức
Phật là bậc Giác ngộ nhưng Ngài cũng có nơi xuất thân, danh
tánh, sinh quán, dòng tộc cụ thể. Và như vậy, mặc dù có những
ảnh hưởng qua lại, đặc biệt là ở thế kỷ thứ V, lúc sư Huệ Lâm bị
trục xuất sang nước ta, nhưng tính độc lập trong việc tiếp thu
và xây dựng các quan niệm về Phật giáo của nước ta vẫn được giữ
vững. Tính chất độc lập này có nền tảng sâu xa là sự độc lập của
nền văn hóa Việt Nam, của sức sống bền bỉ và mãnh liệt của nền
văn hóa đó.
- Bên cạnh vấn
đề trung tâm như đã sơ bộ nói trên, "sáu lá thư" còn cung cấp
nhiều thông tin quan trọng khác đối với lịch sử, văn học, ngôn
ngữ...của dân tộc mà không thể nói ra ở đây, vì khá dài dòng.
Chỉ qua một vài điều nói trên cũng cho thấy giá trị tư liệu mà
nó đem lại nhằm soi sáng cho việc tìm hiểu về tình hình Phật
giáo giai đoạn này, ở một thời điểm rất sôi nổi của cuộc vận
động tư tưởng Phật giáo để thích nghi với những xu thế mới của
thời đại.
- Ðến thời điểm
này, nền Phật giáo được thiết lập bởi Mâu Tử và sau đó được củng
cố, bổ sung bởi ngài Khương Tăng Hội tỏ ra không còn là niềm tin
tuyệt đối ở nước ta, những thắc mắc mà Lý Miễu nêu ra là đại
diện cho người Phật tử Việt Nam thời bấy giờ. Nền tư tưởng Phật
giáo quyền năng bị lay chuyển thực sự. Phật giáo nước ta rơi vào
cuộc khủng hoảng về tư tưởng, cái cũ thì ngày càng không đủ sức
thuyết phục, các quan niệm mới thì chưa thấy hình thành. Cuộc
đấu tranh tư tưởng đó đến hồi gay gắt với sự kiện sư Ðàm Hoằng
(36) tự thiêu tại chùa Tiên Sơn năm 455, để lại nhiều điều linh
dị, có thể nói là một câu trả lời hùng hồn cuối cùng của nền tư
tưởng Phật giáo quyền năng trước những hoài nghi có xu hướng
ngày càng phổ biến tại nước ta.
- Hồi kết thúc
của cuộc đấu tranh này ra sao, sẽ được đề cập qua việc tìm hiểu
các nhân vật Phật giáo nổi bật sau đó, "những ngọn đèn cuối cùng
của một thời đại Phật giáo" (37), thời đại đủợc xây dựng trên
nền tảng tư tưởng Phật giáo quyền năng, đó là các ngài Huệ Thắng
và Ðạo Thiền.
- 6. Về
các ngài Huệ Thắng và Ðạo Thiền, hai bậc cao tăng Việt Nam cuối
cùng của thời đại Phật giáo thứ nhất, thời đại Phật giáo quyền
năng
- a. Về
ngài Huệ Thắng
- Năm sinh của
ngài Huệ Thắng không thấy tài liệu nào ghi rõ. Cao tăng
truyện cho biết sư thọ 70 tuổi và mất vào khoảng những năm
502-519. Vậy chắc chắn năm sinh của Ngài khoảng 432-449. Ngài
sống tại chùa núi Tiên Châu của nước ta, chuyên hành trì kinh
Pháp Hoa. Người giản dị, thích tịch lặng. Ngài học Thiền (38)
với một vị Tăng nước ngoài tên là Ðạt Ma Ðề Bà (Dharmadeva). Mỗi
khi nhập định, hết ngày mới thôi; đạo phong được người đời kính
trọng. Tiếng tăm vang xa, quan đô hộ Lưu Hội (39) nghe danh đến
mời về và đưa sang Trung Quốc, an trí tại chùa U Thê. Sư cương
quyết không hợp tác bằng cách thường tỏ ra như người ngu, không
hưởng những đãi ngộ của kẻ cầm quyền phương Bắc mà sống trinh
bạch, thanh bần bằng đồ khất thực trong nhân dân. Năm 487 (Vĩnh
Bình ngũ niên), sư bị đưa đến tinh xá Diên Hiền ở Chung sơn và
mất năm 70 tuổi. Bị đưa sang và sống trên đất Trung Quốc, xa quê
hương gần ba mươi năm nhưng lòng sư vẫn "trinh bạch ngay thẳng".
- Trước khi đến
Trung Quốc, sư Huệ Thắng đã từng học Thiền với một vị thầy nước
ngoài là Ðạt Ma Ðề Bà, và khi đến Trung Quốc, Ngài có thể không
cổ xúy cho phong trào Thiền học tại đây; tuy nhiên, chắc chắn
rằng Ngài đã có những ảnh hưởng quan trọng đối với lịch sử Phật
giáo Trung Quốc, cho nên các nhà viết sử Phật giáo nước này mới
dành những dòng viết về Ngài với thái độ trân trọng, cảm khái
trước đạo phong và nhân cách "từ nhỏ tới già, lòng Thắng trinh
bạch thẳng ngay" (40) của một vị cao tăng Việt Nam.
- b. Ngài
Ðạo Thiền với công tác giảng dạy và hoằng pháp thành công rực rỡ
tại Trung Quốc
- Sau ngài
Khương Tăng Hội, thế kỷ thứ IV, có một vị Tăng Việt Nam lại
"chống gậy Ðông du" sang giảng dạy, hoằng pháp thành công rực rỡ
tại Trung Quốc, đã để lại cho giới trí thức tại đây niềm kính
trọng sâu sắc, bất kể rằng con người này xuất thân từ một xứ mà
họ thường miệt thị vào loại "mọi rợ", đó là ngài Ðạo Thiền.
- Về ngài Ðạo
Thiền, Tục cao tăng truyện (41) cho biết, Ngài là người
Giao Chỉ, xuất gia từ nhỏ, giới pháp trong sạch, được trong tăng
ngoài tục đều kính trọng không những vì sự tu hành khắc kỷ, mà
còn vì sở học uyên thâm, đặc biệt là về luật học. Ngài là người
có những khả năng kỳ lạ, như chuyện ghi rằng, tại chùa núi Tiên
Châu có nhiều cọp dữ hại người, nhưng kể từ khi Ngài đến ở thì
nạn ấy không còn. Sau đó, Ngài sang Trung Quốc giảng dạy Phật
pháp ở Kim Lăng, tham dự các đại hội thuyết giảng do Cánh Lăng
Vương nhà Tề tổ chức vào khoảng những năm 483-487. Ngài ở lại
giảng dạy Thiền và Luật, đặc biệt là về Luật Thập tụng
tại đây, anh tài Trung Quốc khắp nơi đã rong ruổi ngàn dặm về
Kim Lăng để thọ giáo, "họ đều là tiêu lĩnh của bốn bể, người tài
trong đời và tay giỏi trong đạo" (42). Năm Vĩnh Minh thứ nhất
(483), Ngài đến ở chùa Vân Cư hạ tại Chung sơn và được mời làm
công tác điều khiển Tăng chúng. Uy tín của Ngài càng vang xa do
sự uyên bác, đức hạnh và phong thái đạm bạc nơi Ngài, nên hàng
ngàn người ở kinh đô tìm đến cầu pháp. Cuộc sống của Ngài thường
giản dị và đơn sơ, thích sự tĩnh lặng. Hễ ai cúng dường đồ ngon
vật đẹp, Ngài liền phân phát cho người nghèo và kẻ đau ốm. Cuối
đời, Ngài đến ẩn cư trong núi rừng, không giao thiệp với thế
cuộc cao sang cho đến khi mất ở tuổi 70, năm Ðại Thông thứ nhất,
tức năm 527.
- Là người Việt
Nam (Giao Chỉ), trên danh nghĩa đang bị nội thuộc và thường bị
miệt thị là "Nam di" (mọi rợ phương Nam), nhưng sử sách Trung
Quốc vẫn dành những lời hết sức trân trọng khi viết về Ngài, về
tài năng và đức hạnh, những đóng góp của Ngài đối với sự phát
triển của Phật giáo tại đất nước này cũng đủ thấy bản lĩnh sự
ảnh hưởng của Ngài là lớn và rất sâu đậm đối với sự phát triển
của Phật giáo tại Trung Quốc.
- Trên đây là
hai gương mặt nổi bật của Phật giáo Việt Nam sống vào cuối thế
kỷ thứ V và đầu thế kỷ thứ VI hiện biết được, các ngài Huệ Thắng
và Ðạo Thiền, những thành quả cuối cùng của nền giáo dục Phật
giáo theo truyền thống mà các Phật tử, Tăng sĩ tiền nhân đã kiến
thiết. Họ sinh ra và sống trong tình hình Phật giáo Việt Nam
đang diễn ra cuộc đấu tranh tư tưởng, tình trạng khủng hoảng
niềm tin đối với nền Phật giáo do các ngài Mâu Tử và Khương Tăng
Hội gầy dựng; để cứu vãn nền Phật giáo ấy, họ đã có những nỗ
lực, thậm chí cả đến việc tự thiêu như ngài Ðàm Hoằng, dẫu vậy
cũng không thể vực nó dậy trước xu thế mới của thời đại, xu thế
tự ý thức khả năng tiềm tàng ngay trong bản thân và ý thức xây
dựng nền độc lập tự chủ cho dân tộc, mà cao điểm của nó là phong
trào khởi nghĩa của Lý Bôn thành công dẫn đến sự kiện xưng đế
của ông năm 544, khai sinh đất nước độc lập Vạn Xuân tồn tại hơn
nửa thế kỷ (544-603).
- Nhà nước độc
lập Vạn Xuân ra đời với sự kiện xưng đế của Lý Bôn năm 544 là
một sự kiện trọng đại đánh dấu một bước ngoặt mới của lịch sử
dân tộc, một thời đại phát triển mới của Phật giáo Việt Nam.
Chúng ta sẽ tiếp tục tìm hiểu sơ lược trong các phần sau./.
-
* Chú thích:
- (1) Sau những
công trình mở đường trước năm 1975, như khuyết danh, Phật
giáo Nam lai khảo (1928); Trần Văn Giáp, Le Bouddhisme en
dès orgigines au XIII e-siècle (1932); Mật Thể, Việt Nam
Phật giáo sử lược (1943); Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo
sử luận tập I; v.v...một số cố gắng nghiên cứu trong lĩnh
vực này được công bố như Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử
luận tập II (1978), tập III (1985); Viện Triết học, Lịch
sử Phật giáo Việt Nam (1988), bản này sau đó được dịch sang
chữ Anh và chữ Pháp.
- (2) Tập 1,
Học viện Phật giáo Việt Nam tại Huế thực hiện, Nxb. Thuận Hóa,
1999.
- (3) Tác phẩm
bằng chữ Hán, trước đây thường được xem là khuyết danh, nhưng
theo học giả Lê Mạnh Thát thì có thể là do Thiền sư Kim Sơn
soạn, niên soạn là năm Ðinh Sửu Khai Hựu (1337). Tham khảo
Nghiên cứu về Thiền uyển tập anh của Lê Mạnh Thát, Nxb.
TPHCM, 1999.
- (4) Xem Lê
Mạnh Thát. Nghiên cứu về Thiền uyển tập anh, Nxb. TPHCM,
1999, trang 203-204.
- (5) Xem tiểu
sử Thiền sư Thông Biện, Thiền uyển tập anh.
- (6) Xem Lê
Mạnh Thát. Lịch sử Phật giáo Việt Nam tập 1, Nxb.Thuận
Hóa, 1999, trang 23-27.
- (7) Sđd,
trang 36.
--o0o--
|
|