-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Phật Học Cơ Bản
-
Tập Ba
- Ban Hoằng Pháp
Trung Ương
GHPGVN
-
Chương Trình Phật Học Hàm Thụ (1998-2002)
Nguyệt San Giác Ngộ
- --- o0o ---
- Phần I
- Bài 2
- Phật Giáo:
Thời kỳ từ Nhà nước Ðộc lập Vạn Xuân ra đời
đến Vua Trần Nhân Tông
- Thích Tâm
Hải
- Ðây là một
thời kỳ đặc biệt của Phật giáo Việt Nam, và đỉnh cao của nó là
sự thành lập các nhà nước Phật giáo thời Lý, Trần với các chiến
công hiển hách không chỉ trong việc nhiều lần đánh bại đế quốc
xâm lược Nguyên-Mông bảo vệ trọn vẹn ranh giới của Tổ quốc, mà
còn vẻ vang trong sự nghiệp xây dựng đất nước và mở mang bờ cõi.
Giai đoạn này đặc biệt sôi nổi với phong trào vận động xây dựng
nền độc lập lâu dài cho nước ta, cùng với sự xuất hiện của các
dòng Thiền lớn. Căn cứ vào những đặc thù của sự phát triển tư
tưởng Phật giáo và dân tộc, nội dung bài này trình bày về hai
thời kỳ phát triển, một là thời kỳ từ nhà nước độc lập Vạn Xuân
ra đời (544) đến thời Lý Thánh tông (ở ngôi 1054-1072), hai là
thời kỳ từ vua Lý Thánh tông đến vua Trần Nhân tông ( ở ngôi
1279-1293).
-
I. Phật giáo từ thời Lý Nam Ðế đến Lý
Thánh Tông
- Sự ra đời của
nhà nước độc lập Vạn Xuân là kết quả của một quá trình vận động
và đấu tranh lâu dài của dân tộc suốt hơn nửa thiên niên kỷ,
trong đó Phật giáo là lực lượng nòng cốt, trọng yếu, đặc biệt là
trên mặt trận văn hóa và tư tưởng. Nhà nước do Lý Nam Ðế thành
lập là một nhà nước Phật giáo đầu tiên trong lịch sử dân tộc ta.
Nói như vậy là hoàn toàn có cơ sở. Bởi, ngay sau khi dựng nước,
dù đang ngổn ngang những khó khăn và chật vật về mọi mặt, nhưng
một trong những công tác quốc gia trước tiên là xây dựng một
ngôi chùa lớn lấy tên là Khai Quốc tự, nghĩa là chùa Mở Nước,
tiền thân của chùa Trấn Quốc tại thủ đô Hà Nội hiện nay. Việc
dựng chùa và đặt tên là Khai Quốc ngay trong những ngày đầu của
một nhà nước vừa thành lập là một công tác có ý thức văn hóa,
chính trị sâu sắc, tỏ rõ bản chất của nhà nước Vạn Xuân là nhà
nước Phật giáo và Phật giáo là lực lượng nòng cốt kiến thiết nên
nhà nước độc lập này. Ðấy là chưa kể đến bản thân Lý Nam Ðế là
người Phật tử được đào tạo hơn 10 năm trong chùa (1), và một vị
vua lấy niên hiệu cho mình là Lý Phật Tử (Hậu Lý Nam Ðế,
571-603).
- Nhà nước độc
lập Vạn Xuân non trẻ của Lý Nam Ðế tồn tại hơn năm mươi năm thì
bị nhà Tùy thôn tính vào năm 603, rồi đến nhà Ðường đô hộ. Thanh
bình chưa được lâu dài thì lại bị xâm lăng, cả dân tộc lại phải
bước vào cuộc đấu tranh vô cùng khốc liệt về mọi mặt để chuẩn bị
cho một nền độc lập hoàn toàn và lâu dài.
- Ðiều hết sức
quan trọng của Phật giáo trong khoảng thời gian tồn tại của nhà
nước Vạn Xuân là sự ra đời của dòng thiền Tỳ Ni Ða Lưu Chi (2),
hay còn gọi là dòng thiền Pháp Vân, một dòng thiền đầu tiên
trong lịch sử Phật giáo nước ta. Dòng thiền Tỳ Ni Ða Lưu Chi ra
đời là một sự kiện quan trọng, nó đã bước đầu giải quyết tình
trạng khủng hoảng tư tưởng Phật giáo mà thời đại trước để lại
đồng thời mở ra một nền tư tưởng mới chỉ đạo sự phát triển của
Phật giáo Việt Nam.
- 1.
Dòng thiền Tỳ Ni Ða Lưu Chi ra đời, bước đầu giải quyết những
khủng hoảng của nền Phật giáo quyền năng
- a. Ðôi
nét về ngài Tỳ Ni Ða Lưu Chi
- Theo Thiền
uyển tập anh, ngài Tỳ Ni Ða Lưu Chi (Vinitaruci), người Nam
Ấn Ðộ, năm Ðại Kiến thứ 6 đời Trần Tuyên Ðế (574) đến Trường An,
Trung Quốc, gặp lúc Phật giáo Trung Quốc đang bị khủng bố bởi
Chu Vũ đế, Ngài lánh nạn sang đất Nghiệp (3), gặp tổ Tăng Xán
tại đây và đắc pháp với Ngài. Sau đó, Ngài đi về phía nam đến
trú ngụ tại chùa Chế Chỉ ở Quảng Châu, và đã dịch các bộ kinh
như Tượng đầu tinh xá và Báo nghiệp sai biệt (4)
tại ngôi chùa này. Sáu năm sau (580), Ngài sang nước ta trụ trì
chùa Pháp Vân (5) và dịch kinh Tổng trì (6) ở đây. Ngài
mất năm 594 tại nước ta, nhưng không rõ sinh năm nào và thọ bao
nhiêu tuổi. Truyền nhân của Ngài là thiền sư Pháp Hiền (?-626),
người có vai trò quan trọng trong việc thành lập dòng thiền Tỳ
Ni Ða Lưu Chi.
- Việc các vị
Tăng nước ngoài đến Việt Nam tu học hay các vị Tăng Việt Nam ra
nước ngoài truyền bá, giảng dạy Phật pháp không phải là trường
hợp đặc biệt, mà đã thành một hiện tượng quen thuộc như phần
trước đã nói sơ lược. Tại nước ta, trước thời điểm ngài Tỳ Ni Ða
Lưu Chi sang, đã có một vị thiền sư nước ngoài tên là Ðạt Ma Ðề
Bà (Dharmadeva) đến giảng dạy thiền học cho ngài Huệ Thắng, với
phương pháp "quán hạnh", đồng thời trước đó các kinh quan trọng
về thiền học như An ban thủ ý kinh, Pháp hoa tam muội...
cũng đã lưu hành ở nước ta muộn nhất là thế kỷ thứ III. Tuy
nhiên, không thấy một dòng thiền nào được thành lập. Khi ngài Tỳ
Ni Ða Lưu Chi đến chùa Pháp Vân, và sau đó, dòng thiền thứ nhất
trong lịch sử Phật giáo Việt Nam ra đời. Ðiều này có nguyên nhân
tại sao? Chúng ta sẽ có được câu trả lời qua việc tìm hiểu bối
cảnh của Phật giáo Việt Nam thời bấy giờ và tư tưởng của ngài Tỳ
Ni Ða Lưu Chi.
- b. Tư
tưởng của Tỳ Ni Ða Lưu Chi và nguyên nhân ra đời của dòng thiền
mang tên Ngài
- Hơn nửa đầu
thế kỷ thứ VI, cuộc khủng hoảng tư tưởng của nền Phật giáo quyền
năng vẫn chưa đến hồi kết thúc. Vấn nạn tại sao không thấy được
hình của Phật mà Phật tử Lý Miễu nêu lên vẫn chưa được giải đáp
một cách thỏa đáng. Nói đúng hơn, nền tư tưởng Phật giáo quyền
năng dẫu có nỗ lực qua cách viện dẫn thuyết "cảm ứng" mà các
Pháp sư Ðạo Cao và Pháp Minh đã trả lời cũng không thể hàn gắn
nổi những rạn nứt này, đặc biệt là trong tình hình mới, ở đó sức
mạnh của tự thân được thể hiện một cách mạnh mẽ qua những thành
quả trước mắt mà con người đạt được với sự thành công rực rỡ của
phong trào đấu tranh giành độc lập, nước Vạn Xuân ra đời. Do
thế, ý thức về sức mạnh của con người được bộc lộ một cách mãnh
liệt. Trong bối cảnh đó, ngài Tỳ Ni Ða Lưu Chi mang những tư
tưởng Phật giáo mới lạ sang nước ta, và lập tức thu hút người
Phật tử Việt Nam đang đi tìm giải đáp cho những thắc mắc bấy lâu
của mình. Những tư tưởng đó là gì?
- Ðắc pháp với
ngài Tăng Xán và là dịch giả của kinh Tượng đầu tinh xá, Tổng
trì..., tư tưởng Thiền của ngài Tỳ Ni Ða Lưu Chi hẳn phải
chịu ảnh hưởng sâu đậm của tư tưởng Bát nhã. Kinh Tượng đầu
tinh xá đặc biệt nói về bản chất của Giác ngộ. Giác ngộ (Bồ
đề) không mang tính quyền năng như các ngài Mâu Tử, Khương Tăng
Hội và cả đến Ðạo Cao, Pháp Minh sau đó quan niệm. Giác ngộ là
trạng thái tâm không chấp trước và tâm giác ngộ này vốn có trong
mỗi con người. Muốn đạt đến giác ngộ phải thực hành mười pháp
thiền quán như trong kinh Tượng đầu tinh xá nói (7). Rõ ràng,
giác ngộ ở đây không phải quan niệm như một địa vị có khả năng
vô biên, tùy ý biến hiện, có năng lực siêu nhiên và không bị chế
ngự bởi các điều kiện khách quan; bậc Giác ngộ (Phật) không phải
là một đối tượng quyền năng tồn tại trong vũ trụ, thường thì con
người không thấy được nhưng lại có thể cảm ứng nếu con người có
lòng thành khẩn. Trong bài kệ mà Ngài nói với đệ tử là ngài Pháp
Hiền trước lúc mất, biểu hiện rõ nhất quan niệm này:
- "Tâm ấn chư Phật
Tất không lừa dối
Tròn đồng thái hư
Không thiếu không dư
- (...)
- Vì đối vọng duyên
Nên giả đặt tên
Bởi thế chư Phật ba đời
Cũng dùng như thế mà được
Tổ sư nhiều đời
Cũng dùng như thế mà được
Ta cũng dùng như thế mà được
Ngươi cũng dùng như thế mà được
Cho đến hữu tình, vô tình
Cũng dùng như thế mà được..." (8)
- Giác ngộ hay
thành Phật không phải là một địa vị cao siêu và đầy quyền năng,
mà ở đây, ngài Tỳ Ni Ða Lưu Chi đã đưa đến một quan niệm mới,
giác ngộ là tâm chuyển hóa, là nhận được "tâm ấn" của Phật, giác
ngộ là vấn đề xảy ra ngay trong tâm mỗi người mà không phải bên
ngoài, và ai cũng tiềm tàng cái khả năng này, tâm tức Phật, nếu
thực hành đúng phương pháp tu tập. Và đây chính là lời giải đáp
cho cuộc khủng hoảng niềm tin về một Ðức Phật quyền năng tồn tại
bên ngoài con người, mà Phật tử Lý Miễu đã nêu lên và tranh luận
với các vị Ðạo Cao, Pháp Minh qua sự kiện "sáu lá thư" hơn một
trăm năm trước.
- Trong lịch sử
không có những hiện tượng ngẫu nhiên, sự ra đời của một tư tưởng
hay trào lưu mới bao giờ cũng có những bối cảnh và các nguyên
nhân của nó, nó cáo chung một trào lưu và mở ra một xu thế phát
triển mới. Vào cuối thế kỷ thứ VI, với thuyết Tâm tức Phật,
ngài Tỳ Ni Ða Lưu Chi đã đem đến cho Phật giáo nước ta lời giải
đáp về vấn nạn "Phật bất kiến hình" mà Phật tử Lý Miễu đã nêu
lên, khép lại thời đại thứ nhất trong lịch sử Phật giáo Việt
Nam, thời đại Phật giáo quyền năng, và mở ra một thời đại Phật
giáo mới, với những bước chuẩn bị cho nền độc lập dân tộc và
hưng thịnh của đất nước vào các thế kỷ sau.
- c. Về
ngài Pháp Hiền và hệ thống truyền thừa của dòng thiền Tỳ Ni Ða
Lưu Chi
- Không kể từ vị tổ sáng lập, ngài
Tỳ Ni Ða Lưu Chi, theo Thiền uyển tập anh, dòng thiền
Pháp Vân truyền thừa được19 đời, từ ngài Pháp Hiền (?-626) đến
thiền sư Y Sơn (?-1216) thì chấm dứt. Như vậy, nếu tính từ ngài
Tỳ Ni Ða Lưu Chi đến thiền sư Y Sơn, dòng thiền Pháp Vân tồn tại
trong thời gian khá dài, hơn 600 năm. Một trong những nhân vật
có vai trò quan trọng đối với sự hình thành của dòng Thiền này
là vị thiền sư thế hệ thứ nhất, ngài Pháp Hiền.
- Theo Thiền
uyển tập anh, Thiền sư Pháp Hiền (?-626) người họ Ðỗ làng
Chu Diên (thuộc vùng phụ cận phía đông nam của huyện Gia Lâm,
Bắc Ninh ngày nay), tu ở chùa Chúng Thiện núi Tiên Du (Bắc
Ninh). Là đệ tử đắc pháp của ngài Tỳ Ni Ða Lưu Chi, nhưng trước
khi học Thiền với Ngài thì đã từng học đạo và thọ giới tỳ kheo
với đại sư Quán Duyên tại chùa Pháp Vân. Sau khi ngài Tỳ Ni Ða
Lưu Chi mất, sư vào núi chuyên tâm tu tập thiền định. Dẫu ở
trong núi rừng nhưng tiếng tăm đạo phong của Ngài vang xa, nhiều
người tìm đến xin thọ giáo và Ngài phải lập chùa làm nơi giảng
dạy. Tăng chúng đến ở tu học thường hơn 300 người. Dòng thiền
này nhân đó mà thịnh, được kế tục qua nhiều thế hệ, có không ít
tông môn xuất chúng không chỉ trong lĩnh vực Phật học mà còn
đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng đất nước, điển
hình như các ngài Ðịnh Không (?-808) thế hệ thứ 8, Ðỗ Pháp Thuận
(?-991) thế hệ thứ 10, đặc biệt là ngài Vạn Hạnh (?-1025), thế
hệ thứ 12...mà chúng tôi sẽ trở lại đề cập kỹ hơn trong phần
sau.
- 2. Sự
ra đời của dòng thiền Vô Ngôn Thông ở thế kỷ thứ IX
- Sau khi dòng
thiền Tỳ Ni Ða Lưu Chi ra đời khoảng gần 250 năm, một dòng thiền
thứ hai ở nước ta được thành lập. Ðó là dòng thiền Vô Ngôn
Thông. Sự ra đời của dòng thiền này có ý nghĩa như thế nào trong
lịch sử Phật giáo Việt Nam? Trước khi trả lời cho câu hỏi đó,
chúng ta tìm hiểu đôi nét về vị tổ khai sáng ra nó, ngài Vô Ngôn
Thông (759?-826).
- a. Vài
nét về Thiền sư Vô Ngôn Thông
- Theo Thiền
uyển tập anh, Thiền sư Vô Ngôn Thông người họ Trịnh, gốc ở
Quảng Châu, Trung Hoa. Từ nhỏ Ngài đã có những tư chất khác
thường, mộ đạo, không màng đến gia sản. Ngài xuất gia tại chùa
Song Lâm ở Vũ Châu, tính tình trầm hậu, ít nói. Tuy luôn im
lặng, nhưng lại là người biết mọi chuyện một cách tổng quát. Vô
Ngôn Thông (9) là tên người đương thời gọi Ngài, cũng từ tính
cách ấy mà có. Trong thời gian ở Trung Quốc, Ngài học Thiền với
Thiền sư Bách Trượng Hoài Hải (749-814), học trò của ngài Mã Tổ
Ðạo Nhất (709-788), và là đệ tử đắc pháp với vị Thiền sư cự
phách này.
- Năm 820 Ngài
đến nước ta, ở chùa Kiến Sơ (10), sống tĩnh lặng, ngoài việc cơm
cháo, thì thường ngồi quay mặt vào vách, vui cái vui của Thiền,
không nói năng gì suốt mấy năm. Trong chùa có một vị Tăng tên là
Cảm Thành nhận ra ở Ngài một con người đặc biệt và hết lòng tôn
kính, hầu hạ thường xuyên, từ đó tiếp nhận được những tinh túy
của Thiền tông qua cuộc sống hàng ngày của Ngài. Và, trước khi
mất, Ngài gọi sư Cảm Thành đến nhắc lại bài kệ thị tịch của
thiền sư Hoài Nhượng (677-744), đệ tử đắc pháp của Lục tổ Huệ
Năng và là thầy của thiền sư Mã tổ Ðạo Nhất:
- Tất cả các pháp
Ðều từ tâm sinh
Tâm không chỗ sinh
Pháp không chỗ trụ
Nếu đạt đất lòng
Chỗ làm không ngại
Không gặp thượng căn
Cẩn thận chớ nói (11).
- Ngài mất vào
ngày 12 tháng giêng năm Bính Ngọ, tức năm 826, thọ khoảng 68
tuổi. Nhục thân của Ngài được học trò là ngài Cảm Thành hỏa
thiêu và xây tháp thờ tại núi Tiên Du.
- Sau khi Ngài
mất, dòng thiền mang tên Ngài được hình thành. Do Ngài sang nước
ta tu tại chùa Kiến Sơ, nên dòng thiền này cũng được gọi là dòng
thiền Kiến sơ.
- b. Tư
tưởng Thiền của ngài Vô Ngôn Thông hay nguyên nhân ra đời của
dòng Thiền mang tên Ngài ở nước ta vào thế kỷ thứ IX
- Là học trò
đắc pháp của Thiền sư Bách Trượng Hoài Hải, chắc chắn rằng tư
tưởng của ngài Vô Ngôn Thông cũng đã ảnh hưởng sâu đậm bởi tư
tưởng thiền của kinh Pháp Hoa và Viên Giác cũng
như thanh quy của Tổ Bách Trượng. Nhưng tư tưởng ấy được thể
hiện trong thời gian Ngài ở nước ta như thế nào? Hiện chúng ta
biết được qua bài kệ mà Ngài đã nói cho học trò là thiền sư Cảm
Thành (?-860), được ghi lại trong Thiền uyển tập anh,
trong đó có hai câu:
- Tây thiên cõi này
Cõi này Tây thiên (12)
- Những câu này
rất quan trọng, nó cho biết một trong những đặc điểm tư tưởng
Thiền của ngài Vô Ngôn Thông, và cũng chính là cơ sở lý luận để
dòng thiền này ra đời. Cơ sở này cũng không ngoài căn bản của
quan niệm "tức tâm tức Phật" mà ngài Tỳ Ni Ða Lưu Chi đã tuyên
bố trước đó, nhưng có những bổ sung làm cho cơ sở lý luận trên
hoàn chỉnh hơn.
- Nếu ngài Tỳ
Ni Ða Lưu Chi đưa ra một giải đáp cấp thời cho vấn nạn tại sao
không thấy Phật của người Phật tử Việt Nam ở thế kỷ thứ V, rằng
Phật không ở bên ngoài mà hiện hữu ngay trong lòng mỗi người,
thì đến ngài Vô Ngôn Thông, câu trả lời đó được bổ sung để hoàn
chỉnh về mặt lý luận. Tư tưởng của ngài Tỳ Ni Ða Lưu Chi mới chỉ
nói đến một mặt của vấn đề Phật tại tâm, tức phương diện chánh
báo, mà chưa đề cập đến hoàn cảnh tương ứng bên ngoài, tức phần
y báo của đức Phật trong tâm đó. Ðến ngài Vô Ngôn Thông, vấn đề
này mới được giải quyết một cách trọn vẹn.
- Khi con người
giác ngộ, "tâm địa nhược không, tuệ nhật tự chiếu" (đất tâm nếu
không, trời tuệ tự chiếu), thì không những tâm là Phật, mà hoàn
cảnh bên ngoài cũng là cảnh Phật, chứ không riêng gì Tây thiên
mới là đất Phật, mà hơn thế nữa, tại đất nước Việt Nam này cũng
là đất Phật. Ðây là một tư tưởng hết sức quan trọng, chứng tỏ
một bước phát triển mới của Phật giáo và dân tộc, khẳng định sự
bình đẳng giữa các quốc gia, các nền văn hóa trên thế giới. Ðồng
thời nó khơi dậy ý thức tự tín và độc lập không những của người
Phật tử mà cả dân tộc Việt Nam. Tư tưởng này phù hợp với bối
cảnh của nước ta ở giai đoạn mà các phong trào đấu tranh giành
độc lập của nhân dân bùng lên mạnh mẽ, nó được vị Thiền sư nước
ta là Cảm Thành xiển dương, và đó là những nguyên nhân cơ bản để
dòng thiền Vô Ngôn Thông ra đời.
- c. Sự
truyền thừa của dòng thiền Vô Ngôn Thông
- Không kể vị
sáng lập, ngài Vô Ngôn Thông, theo Thiền uyển tập anh,
dòng thiền Kiến sơ truyền thừa được 15 thế hệ, từ ngài Cảm Thành
(?-860) đến cư sĩ ng Vương, đầu thế kỷ thứ XIII, hơn 400 năm.
Dòng thiền này đã sản sinh nhiều bậc cao tăng cho Phật giáo Việt
Nam và đồng thời là những anh tài, trí thức có những đóng góp
quan trọng cho sự nghiệp gầy dựng và bảo vệ nền độc lập của đất
nước, mà nổi bật là Thái sư Khuông Việt (?-1011) (13) thế hệ thứ
IV, các ngài Ða Bảo thế hệ thứ V, Quốc sư Thông Biện (?-1134)
thế hệ thứ VIII, v.v... Ðiểm đáng chú ý của dòng thiền Vô Ngôn
Thông là đã thấy sự xuất hiện của hình thức cư sĩ-thiền sư, cư
sĩ ng Thuận Vương thế hệ thứ XV, và đây là xuất phát của dòng
thiền Trúc Lâm Yên Tử đời Trần sẽ đề cập trong phần nói về Phật
giáo ở thời của vua Trần Nhân Tông.
- 3.
Một số đặc điểm của Phật giáo giai đoạn từ thời Lý Nam Ðế đến
thời Lý Thánh Tông
- Sự ra đời của
nhà nước độc lập Vạn Xuân ở thế kỷ thứ VI có một ý nghĩa hết sức
quan trọng đối với lịch sử dân tộc ta. Nó làm phát huy mạnh mẽ ý
thức độc lập dân tộc trong nhân dân đồng thời chứng tỏ khả năng
độc lập tự chủ lâu dài là có thể. Từ năm 603, nước ta rơi vào
tình trạng mất chủ quyền, bị thuộc nhà Tùy (603-617), nhà Ðường
(618-721), Hậu Lương... Nhưng trong suốt thời kỳ này luôn sôi
động bởi các phong trào đấu tranh trên các mặt trận văn hóa cũng
như vũ trang liên tục nổ ra khắp nơi, mà nổi bật hơn cả là cuộc
khởi nghĩa của Mai Hắc Ðế (722), cuộc khởi nghĩa thắng lợi với
sự ra đời của chính quyền độc lập do Phùng Hưng (Bố Cái Ðại
Vương) đứng đầu (791) (14)...và đến Ngô Quyền với chiến thắng
năm 938, đã đẩy lùi quân xâm lược ra khỏi lãnh thổ, mở ra một
thời kỳ tái kiến thiết quốc gia qua các triều Ngô, Ðinh, Tiền
Lê, và đỉnh cao của giai đoạn này là sự ra đời của triều đại
Phật giáo nhà Lý do Lý Công Uẩn đứng đầu với sự hậu thuẫn của
Thiền sư Vạn Hạnh. Sơ lược như thế để thấy được sức sống của dân
tộc không bao giờ bị gián đoạn, và ở hoàn cảnh nào, Phật giáo
cũng có mặt và người Phật tử là lực lượng đại diện cho tầng lớp
tiên phong trong các phong trào, chuẩn bị về mọi mặt để tái lập
nền tự chủ cho dân tộc lâu dài, xây dựng một đất nước giàu văn
hiến cũng như mở mang bờ cõi, tạo thế phát triển vững chắc không
những cho Phật giáo mà cho cả dân tộc. Sau đây, chúng tôi sẽ nói
tới ba đặc điểm nổi bật của Phật giáo trong giai đoạn này.
- a. Phong
trào du học cầu pháp ở Ấn Ðộ
- Ngay từ rất
sớm, người Phật tử Việt Nam đã tiếp thu Phật giáo một cách chủ
động, như đã nói qua quá trình bản địa hóa Phật giáo và sự kiện
"sáu lá thư" ở các phần trước. Ðến giai đoạn này, câu hỏi tại
sao không thấy Phật thị hiện giữa đời đã được giải quyết với sự
ra đời của hai dòng thiền Tỳ Ni Ða Lưu Chi và Vô Ngôn Thông
(dòng thiền Pháp vân và Kiến sơ). Tuy nhiên, nó cũng không được
thỏa đáng lắm. Do thế, từ thế kỷ thứ VII trở đi, một phong trào
du học tại quê hương của Phật giáo (Ấn Ðộ) chắc chắn là một
phong trào rầm rộ, mà tên tuổi các danh tăng hiện biết được như
các ngài Vận Kỳ, Giải Thoát Thiên, Khuy Xung, Huệ Diệm, Trí
Hành, và đặc biệt là ngài Ðại Thừa Ðăng (15)...
- Ngài Ðại Thừa
Ðăng (16) sau khi đã học tập và nghiên cứu ở Ấn Ðộ, đã ghé Trung
Quốc và gặp ngài Huyền Tráng ở Trường An, có thể đã cộng tác
dịch thuật kinh điển, sau đó Ngài về thăm quê hương, rồi lại lên
đường sang Ấn lần nữa. Theo học giả Lê Mạnh Thát, ngài Ðại Thừa
Ðăng là tác giả của nhiều tác phẩm Phật học giá trị như Câu
xá luận lý, Duy thức chỉ nguyên, Ðại thừa bách pháp minh môn
luận thuật ký...được viết vào khoảng những năm 660. Ngài đã
đi khắp nơi trên đất nước Ấn Ðộ để chiêm bái các Thánh tích của
Ðức Phật và Thánh chúng đệ tử của Ngài cũng như nghiên cứu học
tập. Ngài mất tại nơi Ðức Phật nhập diệt, ở Kusinara lúc khoảng
60 tuổi. Trước khi mất, Ngài có để lại một bài thơ ẩn chứa đầy
tình cảm tha thiết đối với quê hương đất nước:
- Khốn khổ Tử vương
Sức vẫn còn cường
Truyền đăng một đấng
Bỗng chốc vân vong
Châu thần vọng đoạn
Cảnh thánh hồn dương
Ðoái trông buồn mà rơi lệ
Nghĩ khổ cực mà tình thương (17)
- Ðó chỉ là
những tên tuổi nổi bật hiện nay biết được, chắc chắn rằng, du
học là một phong trào rầm rộ ở giai đoạn này, chưa kể những vị
Tăng Trung Quốc đã ghé lại nước ta trước khi đi Tây Trúc khá
nhiều ở thời gian này. Ðiều đó chứng tỏ Phật giáo vẫn phát triển
trong xu thế mới, xu thế của ý thức dân tộc đang trỗi dậy mạnh
mẽ và chuẩn bị cho một nền độc lập thực sự lâu dài.
- b. Phong
trào các cao tăng sang giảng kinh ở Trung Quốc
- Thế kỷ thứ
VII-VIII, Phật giáo nước ta đã đào tạo nên những anh tài làm vẻ
vang cho dân tộc, trong đó có không ít người tiếng tăm lẫy lừng,
được vua Ðường mời sang thuyết pháp tại kinh đô như các ngài
Ðịnh Không (18), Duy Giám mà chúng ta biết được. Việc sang Trung
Quốc để giảng dạy Phật pháp không phải là một hiện tượng mới lạ
đối với Phật giáo Việt Nam, điều này đã được các ngài Khương
Tăng Hội, Ðạo Thiền trước đó thực hiện. Tuy nhiên, việc các danh
tăng Việt Nam đi giảng đạo ở giai đoạn này, thế kỷ thứ VII-VIII,
không giống với các trường hợp trước, mà có những đặc điểm
riêng. Một mặt, các Ngài sang giảng đạo ở Trung Quốc theo lời
mời của triều đình phương Bắc, thuyết pháp cho vua quan và giới
trí thức; mặt khác, trong giai đọan này ở Trung Quốc không hiếm
những anh tài, các gương mặt cự phách trong giới Phật học, tiêu
biểu như các ngài Huệ Năng, Thần Tú, Nam Nhạc, Hạnh Tư, Thanh
Nguyên, Mã Tổ Ðạo Nhất, Bách Trượng Hoài Hải, Huyền Tráng...Như
vậy, đặt trong bối cảnh đó mới thấy tài năng và đạo phong của
Tăng sĩ Việt Nam, đồng thời sự ảnh hưởng của Phật giáo nước ta
đối với các nước trong khu vực là rất lớn.Và, điểm đáng chú ý là
các Ngài sau khi thuyết giảng lại về quê hương, để lại niềm kính
trọng sâu sắc trong giới trí thức đương thời, điều này được thể
hiện qua những bài thơ tiễn đưa của các thi hào lớn như Dương Cự
Nguyên viết thơ tặng Ðịnh (Không) pháp sư; thi hào lỗi lạc Giả
Ðảo làm thơ tiễn ngài Duy Giám... còn lưu lại đến hôm nay. Ðấy
là chưa kể đến những tình cảm và sự kính trọng của các thi hào
khác đối với các cao Tăng nước ta khi có dịp gặp gỡ như nhà thơ
lớn Thẩm Thuyên Kỳ với ngài Vô Ngại ở chùa Tịnh Cư, Trương Tịch
đối với một vị Tăng người Nhật Nam... (19)
- Nếu như giai
đoạn trước, Phật giáo đã phát triển với một nền giáo dục toàn
diện mà Khương Tăng Hội là một điển hình cho thành quả đó, thì
nay với các ngài Duy Giám, Ðịnh Không..., nền giáo dục Phật giáo
nước ta đã một lần nữa khẳng định tính ưu việt của nó. Phải có
một tri thức và đạo hạnh toàn diện mới có thể chinh phục được
tầng lớp vua quan và giới trí thức phương Bắc như thế; với một ý
thức và tình yêu đất nước sâu sắc mới không bị vinh hoa phú quý
ở nước người cám dỗ, mà luôn hướng về hay trở lại quê hương như
ngài Ðại Thừa Ðăng hay các ngài Duy Giám, Ðịnh Không..., sau khi
thuyết pháp xong thì quay về Việt Nam, để lại nhiều lưu luyến và
sự kính trọng trong giới trí thức Trung Quốc đương thời mà hôm
nay chúng ta biết được một cách rõ ràng. Ðấy là chưa kể đến
những người không để lại tên tuổi hay những Phật tử, Tăng sĩ ở
trong nước đã có những đóng góp hết sức quan trọng cho nền độc
lập, văn học, tư tưởng, đặc biệt là nền giáo dục nước nhà, như
các ngài Ðịnh Hương (?-1050), Thiền Lão (sống thời Lý Thái
Tông)..., sách Thiền uyển tập anh cho biết người theo học
với các Ngài đông đến hàng nghìn.
- Bị đô hộ, với
chính sách ngu dân nhằm đồng hóa về mặt văn hóa để cai trị lâu
dài, nhưng chính sách này đã thất bại. Nó đã gặp sức đối kháng
trên cả nhiều mặt, vũ trang lẫn văn hóa. Giai đoạn này, nhà chùa
là trường học, các thiền sư là người đã không những dạy chữ mà
còn nhen nhúm và kích động ý thức tự chủ trong nhân dân. Và hơn
thế nữa, môi trường giáo dục Phật giáo còn là nơi đào tạo nhân
tài lãnh đạo đất nước, như các ngài Khuông Việt, Vạn Hạnh, và
đặc biệt là Lý Công Uẩn, tức Lý Thái Tổ, người mở đầu triều đại
nhà Lý với sự kiện quan trọng là quyết định dời đô từ Hoa Lư
chật hẹp về Thăng Long, mở ra một xu thế phát triển mới của dân
tộc, thời kỳ Ðại Việt hùng cường. Ðặc điểm này sẽ được đề cập rõ
hơn trong phần tiếp theo.
- c. Sử
dụng sấm vỹ để nuôi dưỡng ý thức độc lập tự chủ dân tộc và làm
nên các cuộc cách mạng bất bạo động hiếm thấy trong lịch sử
- Sau khi nhà
nước độc lập Vạn Xuân do Lý Nam Ðế mở đầu sụp đổ, dân tộc ta lại
một lần nữa đấu tranh gian nan để tái thiết nền độc lập tự chủ
lâu dài hơn, và Phật giáo lại thực hiện vai trò của mình, ráo
riết chuẩn bị lực lượng, đặc biệt là đã vận dụng sấm vỹ để nuôi
dưỡng ý thức dân tộc, làm nên những cuộc vận động chính trị và
cách mạng thay đổi một triều đại mà không đổ một giọt máu. Ðây
là một trong những đặc điểm nổi bật của tình hình Phật giáo ở
giai đoạn này, đồng thời nó là một thể hiện về tính chất toàn
diện của nền giáo dục Phật giáo Việt Nam có từ thời ngài Khương
Tăng Hội ở thế kỷ thứ III.
- Thiền uyển tập anh có ghi
lại những tiên đoán của ngài Ðịnh Không (?-808) được lưu truyền
trong quần chúng thời bấy giờ, trước khi dòng thiền Vô Ngôn
Thông ra đời, rằng trong tương lai, tại làng Cổ Pháp sẽ xuất
hiện một vị vua họ Lý làm hưng long Phật giáo (20). Những lời
tiên đoán này được lưu truyền trong nhân dân, và mãi cho đến gần
200 năm sau, thời ngài Vạn Hạnh (?-1025) mới thành hiện thực.
- Trong mấy
trăm năm xâm lược nước ta, các triều đại phương Bắc không thể
thực thi chính sách đô hộ và đồng hóa, bởi đã gặp một sức đối
kháng mạnh mẽ trong quần chúng, các cuộc khởi nghĩa nổ ra và đã
có những thành công nhất định. Năm 722, Mai Thúc Loan khởi
nghĩa, xưng là Mai Hắc Ðế. Kế đến là Phùng Hưng, vương hiệu là
Bố Cái Ðại Vương, khởi nghĩa thành công lập nên một bộ máy hành
chính độc lập. Và sau đó là các triều đại độc lập của Khúc
(906-923), Dương (931-938), Ngô (939-967), Ðinh (968-980), Tiền
Lê (980-1009), và đặc biệt là thời kỳ thịnh trị của đất nước
dưới sự lãnh đạo của triều đại Phật giáo là nhà Lý (1010-1225),
một triều đại làm hưng thịnh đất nước trên mọi phương diện, nhất
là về mặt văn hiến. Ðó là những thành quả của một quá trình đấu
tranh và chuẩn bị hết sức gian lao, và Phật giáo giai đoạn này
đã hoàn thành sứ mệnh của mình, không những nuôi dưỡng ý thức
dân tộc mà còn chuẩn bị lực lượng, trực tiếp tham gia vào nhà
nước trong buổi đầu xây dựng Tổ quốc với những vai trò chính trị
xung yếu, như trường hợp của ngài Ðỗ Pháp Thuận (925-990), một
người "bác học, hay thơ, có tài vương tá, hiểu rõ việc đời"
(21), đã thay mặt Hoàng đế thảo các văn thư ngoại giao của quốc
gia (22); ngài Khuông Việt Thái sư (933-1011) được vua giao
những trọng trách của nước nhà, đại diện triều đình để tiếp sứ
nhà Tống và đã để lại một bài thơ ngoại giao sớm nhất hiện biết
được trong lịch sử ngoại giao của nước ta (23); và đặc biệt là
các ngài Vạn Hạnh, Ða Bảo, không những đã đào tạo Lý Công Uẩn
tài đức kiêm toàn, mà còn là người đã làm nên cuộc vận động đưa
Lý Công Uẩn lên nắm quyền lãnh đạo tối cao của đất nước khi nhà
Tiền Lê đã rơi vào chỗ mục nát, Lê Long Ðĩnh cai trị với những
chính sách bạo ngược; đồng thời ngài Vạn Hạnh là cố vấn cho vua
Lý Thái Tổ, và có thể là người "kiến trúc sư" cho việc dời đô từ
Hoa Lư chật hẹp về Thăng Long, mở ra một thời đại phát triển mới
của dân tộc, của tinh thần Ðại Việt bất khuất.
- Việc các
thiền sư sử dụng sấm vỹ để truyền bá Phật pháp không phải là
hiện tượng lạ, nhưng sử dụng sấm vỹ để làm nên những cuộc vận
động chính trị, không những cổ xúy cho ý thức độc lập trong
người Việt, mà còn thay đổi cả triều đại như các ngài Ða Bảo và
Vạn Hạnh đã làm đối với việc đưa Lý Công Uẩn lên chấp chính,
chấm dứt sự cai trị bạo ngược của Lê Ngọa Triều, là một đặc điểm
nổi bật của Phật giáo giai đoạn này. Từ những năm đầu của thế kỷ
thứ IX, ngài Ðịnh Không đã dấy lên trong dư luận quần chúng một
tiên đoán có người họ Lý làng Cổ Pháp sẽ ở vào ngôi thiên tử làm
hưng thịnh Phật giáo. Nó được các học trò của Ngài thừa kế, và
có thể nói là tạo nên một làn sóng dư luận dữ dội bởi vào những
năm sau đó, quan đô hộ của triều đình phương Bắc nổi tiếng về
địa lý là Cao Biền (?-887) đến làm phép yểm để nước ta không thể
sinh vua. Sách Thiền uyển tập anh cũng chép rằng, ngài
Pháp Thuận "mỗi khi nói năng đều đọc thành những câu sấm", ngài
Vạn Hạnh thì "mỗi khi sư nói câu gì, người đời đều cho là câu
sấm"...Những lời sấm được vận dụng như một phương thức vận động
chính trị, tạo tiền đề cho những cuộc cách mạng giành độc lập
dân tộc cũng như xây dựng một nhà nước hợp lòng dân, với xu thế
phát triển mới của đất nước.
- Trên là những
đặc điểm nổi bật của Phật giáo giai đoạn này được nói sơ lược.
Tình hình Phật giáo giai đoạn này còn có những điểm mới, nhất là
sau khi các triều đại độc lập ra đời. Nói một cách tổng quát,
Phật giáo đã ảnh hưởng sâu sắc và rộng lớn trong nhân dân, cả
tầng lớp vua chúa quan lại lẫn quần chúng. Những cột kinh có
niên đại nhà Ðinh (năm 973) (24) do Nam Việt Vương Ðinh Khuông
Liễn dựng để cầu siêu cho em cùng những người chết trước sau và
là một biểu hiện sám hối tội lỗi đã sát hại em là (Ðại đức) Ðỉnh
Noa Tăng Noa, mặc dù với nguyên nhân là vì em "không trung hiếu
thờ cha và trưởng huynh, lại có ác tâm", cho biết tầng lớp lãnh
đạo đất nước thời bấy giờ đã thấm nhuần đạo lý của Phật giáo.
Chỉ có thấm nhuần đạo lý của Phật giáo mới biết ăn năn sám hối
như thế, và khi người lãnh đạo đất nước biết ăn năn trước những
lỗi lầm của mình thì mới làm cho đất nước phát triển theo chiều
hướng tốt đẹp được.
- Phật giáo ở
giai đoạn này không những đã phát triển sâu rộng trong nhân dân,
mà đi vào các chính sách của nhà nước. Trong các triều đại Ðinh,
Lê và đầu đời Lý, các vị cao Tăng đã trực tiếp tham gia chính
sự, làm cố vấn cho nhà vua như ngài Ngô Chân Lưu, người được vua
Ðinh Tiên Hoàng (ở ngôi 970-979) tặng tên hiệu hết sức ý nghĩa
là "Giúp nước Việt" (Khuông Việt), đến thời Lê Ðại Hành (ở ngôi
980-1005), tài đức của Ngài càng được nhà vua kính trọng,
Thiền uyển tập anh chép rằng "phàm việc quân, việc nước ở
triều đình, Sư đều dự vào" (25). Thiền uyển tập anh cũng
chép về ngài Ðỗ Pháp Thuận: "Ðang lúc nhà Lê mới dựng nghiệp,
trù kế định sách lược, Sư tham dự đắc lực. Ðến khi thiên hạ thái
bình, Sư không nhận phong thưởng. Vua Lê Ðại Hành càng thêm kính
trọng, thường không gọi tên, chỉ gọi Ðỗ Pháp sư và đem việc soạn
thảo văn thư giao phó cho sư". Ngài cũng từng giả dạng người đưa
đò trong cuộc đón sứ Tống là Lý Giác năm 987 và đã để lại những
bài thơ ứng khẩu tài tình, cùng với ngài Khuông Việt, đã khiến
Lý Giác không thể không khâm phục nhân tài của nước Nam. Ngoài
ra, các ngài như Ma Ha, Vạn Hạnh đã từng được vua Lê Ðại Hành
mời vào cung để hỏi về đạo lý cũng như kế sách quốc gia, trong
đó đặc biệt là ngài Vạn Hạnh, người đã cố vấn cho Lê Ðại Hạnh
nhiều lần về các vấn đề hệ trọng của nước nhà, như việc hỏi ý
kiến của Ngài về kết quả của cuôạc kháng chiến chống quân xâm
lược nhà Tống năm 980, và kết quả đúng như tiên đoán của Ngài.
Các ngài Ða Bảo và Vạn Hạnh không những là người thầy của Lý
Thái Tổ mà còn là những cố vấn chính trị quan trọng cho nhà vua
trong đường lối lãnh đạo đất nước, không những dạy cho nhà vua
về Phật pháp mà còn nhiều lần được vua mời vào cung để hỏi ý
kiến và tham dự quyết định các kế sách quốc gia. Những đóng góp
của ngài Vạn Hạnh là hết sức to lớn, được hậu thế là vua Lý Nhân
Tông (ở ngôi 1072-1128) truy tán bằng những lời đầy kính ngưỡng:
"Vạn Hạnh thông ba cõi, thật hiệp lời sấm xưa, quê hương tên
Cổ Pháp, chống gậy trấn kinh đô" (26).
- Trong giai
đoạn này, đặc biệt là từ các thời Ðinh, Tiền Lê, chùa chiền được
xây dựng nhiều, kinh sách được thỉnh về khá đầy đủ. Ðến đời Lý
Thái Tổ, ngay sau khi dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long, nhà vua đã
sai người đi thỉnh đại tạng kinh từ Trung Quốc, cho xây dựng
hàng loạt ngôi chùa tại kinh đô, trong và ngoài thành như chùa
Hưng Phước, Thắng Nghiêm; năm sau (1011) lại sai dựng các chùa
Vạn Tuế, Tứ Ðại Thiên Vương, Cẩm Y, Long Hưng Thánh Thọ, và
nhiều đài kinh các. Năm 1024 lại dựng chùa Chân Giáo ngay tại
nội thành để làm nơi tu tập, tụng kinh bái sám của nhà vua. Thời
Lý Thái Tông (ở ngôi 1028-1054), nhà vua đã phát tâm xây dựng
hàng trăm ngôi chùa, trong đó đặc biệt là chùa Diên Hựu (dựng
năm 1049) ngay giữa kinh đô Thăng Long (tức chùa Một Cột tại Hà
Nội ngày nay) và hình ảnh của nó đã đi vào lòng mọi người trên
thế giới, trở thành một biểu tượng cho đất nước Việt Nam.
- Tóm lại, với
sự ra đời của hai dòng thiền Tỳ Ni Ða Lưu Chi (dòng thiền Pháp
vân) và Vô Ngôn Thông (dòng thiền Kiến sơ), Phật giáo không chỉ
giải quyết được cuộc khủng hoảng tư tưởng của tự thân mà hơn thế
nữa, đã thực sự hòa nhập với dân tộc, trở thành dòng tư tưởng
chủ lưu trong đời sống văn hóa, chính trị của đất nước. Phật
giáo đã bổ sung, làm giàu và làm mạnh mẽ thêm cho bản lĩnh Việt
Nam quật cường. Tinh thần này được kế thừa và phát triển trong
những giai đoạn sau mà chúng ta sẽ tiếp tục tìm hiểu.
-
II. Phật giáo từ thời Lý Thánh Tông
đến thời Trần Nhân Tông
- Phật giáo
giai đoạn từ thời Lý Thánh Tông (ở ngôi 1054-1072) đến thời vua
Trần Nhân Tông (ở ngôi 1279-1293) đã có những bước phát triển
hết sức đặc thù, cùng với việc mở rộng biên giới Tổ quốc về
phương nam, Phật giáo giai đoạn này đã chuyển mình theo một xu
thế phát triển mới, xu thế cư sĩ hóa Phật giáo, chuẩn bị tiền đề
cho sự ra đời của một trào lưu nhập thế tích cực của Phật giáo
Việt Nam kể từ Trần Nhân Tông trở đi. Tuy nhiên, trước hết chúng
ta nói sơ lược về sự ra đời dòng thiền thứ ba trong lịch sử Phật
giáo dân tộc, một dòng thiền tuy tồn tại không lâu, chỉ khoảng
150 năm (1055-1205), nhưng ý nghĩa lịch sử của nó thì không kém
phần quan trọng.
- 1. Sự
ra đời của dòng thiền Thảo Ðường đời Lý
- Năm 1069, vua
Lý Thánh Tông đi chinh phạt Chiêm Thành thắng lợi, lấy thêm được
các châu Ðịa Lý, Ma Linh và Bố Chính, mở rộng biên cương của Tổ
quốc vào tận huyện Do Linh của tỉnh Quảng Trị ngày nay; và đã
bắt về một số tù nhân, trong đó có ngài Thảo Ðường. Ngài Thảo
Ðường người Trung Quốc, rất giỏi Thiền học. Truyện chép rằng,
lúc bị đưa về nước ta, Ngài được bố trí giúp việc cho một vị
Tăng lục. Một hôm, Ngài lén chữa bản Ngữ lục mà vị Tăng lục đang
biên soạn. Vị Tăng lục đó hết sức ngạc nhiên về tài năng và sự
hiểu biết của Ngài, liền mang chuyện này trình lên vua, nhà vua
bèn phong Ngài làm Quốc sư và mời về ở tại chùa Khai Quốc. Và
dòng thiền thứ ba trong lịch sử Phật giáo Việt Nam từ đó ra đời
- dòng thiền Thảo Ðường. Vậy bối cảnh để dòng thiền này thành
lập là như thế nào?
- Nước ta đến
thời Lý Thánh Tông đã là một quốc gia hùng cường. Cuộc chinh
phạt Chiêm Thành năm 1069 thắng lợi đã tạo cho đất nước một xu
thế phát triển mới, xu thế Nam tiến mạnh mẽ. Với xu thế phát
triển đó, Phật giáo cần có những bứt phá mới để đáp ứng được yêu
cầu của thời đại. Là một nhà lãnh đạo chính trị đồng thời là một
Phật tử, vua Lý Thánh Tông không thể không nhận thức được việc
chọn Phật giáo làm tư tưởng chủ đạo cho sự phát triển và việc
đào tạo con người, do vậy chính vị vua Phật tử này đã cho xây
dựng Văn miếu năm 1070 và sáu năm sau đó, tức năm 1076, vua Lý
Nhân Tông cho thành lập Quốc tử giám, một ngôi trường đại học
đầu tiên trong lịch sử giáo dục Việt Nam. Và với mục tiêu xây
dựng đất nước, vị vua Phật tử này đã không ngần ngại trong việc
đưa tư tưởng Nho giáo vào để bổ sung cho ý đồ giáo dục của mình.
Chính sự xuất hiện của hệ thống trường học và đường lối giáo dục
như vậy đã chứng tỏ nền giáo dục Phật giáo đến giai đoạn này đã
được hợp thức hóa, và có một sự chuyển biến hết sức căn bản từ
một nền giáo dục tự phát tại các chùa thành nền giáo dục chính
quy do nhà nước thành lập. Trong tình hình đó, Phật giáo cần có
những đổi thay để phù hợp với yêu cầu của thực tiễn, và dòng
thiền Thảo Ðường ra đời với sự xuất hiện của các thế hệ truyền
thừa chính thức không phải là giới xuất gia như trước mà đa phần
là cư sĩ, đấy là một đặc điểm nổi bật của Phật giáo trong tình
hình phát triển mới của dân tộc. Bởi lẽ, Phật giáo nếu thực sự
đi vào đời thì không chỉ giới hạn trong giới Tăng sĩ, mà cần
phải phổ biến trong giới tại gia cư sĩ; đồng thời, để cho Phật
giáo được phát triển thì ngoài thành phần cốt tủy là Tăng già,
cần phải có một sự ngoại hộ vững chắc. Lực lượng đó không thể ai
khác ngoài giới tại gia, những người sống trong đời thường mà
thực hành Phật pháp, vẫn tham gia vào mọi hoạt động xã hội để
xây dựng đất nước, ngay cả vai trò của người lãnh đạo cao nhất,
mà vẫn có thể là một thiền sư, chẳng hạn như các hoàng đế Lý
Thánh Tông (thế hệ thứ nhất), Lý Anh Tông (thế hệ thứ ba),
v.v...
- Theo Thiền
uyển tập anh, không tính sáng tổ là ngài Thảo Ðường, dòng
thiền Thảo Ðường truyền thừa được 5 thế hệ, từ vua Lý Thánh Tông
đến Phụng Ngự Phạm Ðẳng thì thất truyền. Về tư tưởng Thiền thì
không thấy gì đặc sắc, nhưng điểm nổi bật của dòng thiền này là
lần đầu tiên trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, vai trò của giới
cư sĩ được khẳng định một cách chính thức, phù hợp với yêu cầu
phát triển mới của dân tộc, của việc đưa đạo vào đời, nhằm định
hướng cho đời sống tâm linh, văn hóa của dân tộc. Chủ trương này
được phát triển mạnh mẽ vào đời Trần, với đỉnh cao là tư tưởng
"cư trần lạc đạo" của nhà vua-thiền sư Trần Nhân Tông.
- 2.
Vài nét về tình hình Phật giáo
- Trong giai
đoạn này, các dòng thiền ra đời trước đó vẫn tồn tại. Tuy có sự
hiện diện của ba dòng thiền, nhưng về cơ bản, nền tảng tư tưởng
của chúng không có gì khác xa nhau, mà chỉ bổ sung và ảnh hưởng
qua lại lẫn nhau. Ðặc điểm nổi bật là sự có mặt chính thức của
giới cư sĩ trong dòng thiền Thảo Ðường, phù hợp với xu thế Nam
tiến của dân tộc, vì yêu cầu về con người cho các vùng đất mới.
Nó cũng đã ảnh hưởng đến các dòng thiền khác. Ðiều đáng chú ý là
nhà vua-thiền sư Lý Thánh Tông trong thời đại của mình đã làm
được hai việc quan trọng: một là dựng Văn miếu, và hai là thành
lập dòng thiền cư sĩ, tuy không thấy một tác phẩm nào hiện có
của Ngài lý giải về hai sự kiện trên, và mãi đến thời Trần Thái
Tông, qua các tác phẩm của Ngài, những việc làm này mới được lý
giải một cách rõ ràng. Trong Thiền tông chỉ nam tự, Ngài
cho biết chủ trương lập Văn miếu là để dùng Nho làm công cụ
truyền bá cho Phật giáo (27), và cư sĩ hóa với những lý giải
bằng thuyết "cư trần lạc đạo".
- Với sự mở
mang biên cương của Tổ quốc về phương Nam, và với yêu cầu cấp
thiết đào tạo nhân tài cho đất nước một cách chính quy, nhà lãnh
đạo Phật tử-hoàng đế Lý Nhân Tông đã lập Văn miếu, chủ trương
đưa Phật giáo vào đời sống hằng ngày, vào tận từng đơn vị gia
đình với hình thức thiền sư- cư sĩ, đồng thời tạo lập một thế
lực vững mạnh hộ trì Phật giáo, làm cho Phật giáo phát triển sâu
rộng trong xã hội. Xu hướng này là một tiền đề cho sự xuất hiện
của các thiền sư-nhà tư tưởng lớn của dân tộc như Tuệ Trung
Thượng sĩ, Trần Thái Tông, v.v... sau này.
- Biến cố chính
trị năm 1226 đã chấm dứt một thời kỳ rối ren cuối nhà Lý và cáo
chung luôn cả triều đại này, Trần Cảnh (1218-1277) được đưa lên
nắm chính quyền, lấy hiệu là Thái Tông, mở ra một triều đại mới
là nhà Trần. Tuy nhiên, sự thay đổi đó không ảnh hưởng lớn đến
đời sống tinh thần của dân tộc, mà về cơ bản, đặc biệt là Phật
giáo, vẫn tiếp tục phát triển với nền tảng của thời đại trước
cho đến thời vua Trần Nhân Tông mới thực sự chuyển biến một cách
rõ rệt. Triều đại nhà Trần là một triều đại Phật giáo, với nhiều
chiến công hiển hách, ba lần đánh tan quân xâm lược Nguyên-Mông,
và đạt được những thành tựu rực rỡ trong công cuộc xây dựng đất
nước./.
- * Chú
thích:
- (1) Xem Quỳnh Cư-Ðỗ Ðức Hùng,
Các triều đại Việt Nam, nxb. Thanh Niên, 1995, phần nói về
Lý Nam Ðế.
- (2) Do ngài Tỳ Ni Ða Lưu Chi sang
nước ta và ở tại chùa Pháp Vân, nên dòng thiền này cũng còn được
gọi là dòng thiền Pháp Vân.
- (3) Không phải là Kiến Nghiệp,
kinh đô của nhà Ngô xưa (222-280) như một số người lầm tưởng,
theo học giả Lê Mạnh Thát (trong Nghiên cứu về Thiền uyển tập
anh), "đất Nghiệp" ở đây là kinh đô của nhà Bắc Tề, nơi có
núi Tư Không mà ngài Tăng Xán từng lánh nạn (nay thuộc tỉnh Hà
Nam, Trung Quốc).
- (4) Gọi đủ là Phật thuyết thủ
trưởng giả nghiệp báo sai biệt kinh. Theo tác giả của
Nghiên cứu về Thiền uyển tập anh Lê Mạnh Thát, thì bản dịch
hiện mang số 80 trong Ðại tạng kinh có thể không phải là bản mà
ngài tỳ Ni Ða Lưu Chi đã dịch như tiểu sử về Ngài trong Thiền
uyển tập anh đã kể. Phải chăng bản dịch của Ngài đã mất và
chắc chắn nôi dung không phải thuộc loại kinh này, bởi nghiên
cứu về học lý của Ngài qua hai bản dịch đã kể không có điểm
tương thích mà học lý của bản dịch ngày nay thể hiện. Xem chú
thích 9, sđd, trang 498.
- (5) Tức chùa Diên ứng, còn gọi là
chùa Dâu, nay thuộc tỉnh Bắc Ninh.
- (6) Gọi đầy đủ là Ðại phương quảng
tổng trì kinh.
- (7) 1.Quán nội giới của thân là
không, 2. Quán ngoại giới của thân là không, 3. Quán các pháp
trong và ngoài đều không, 4. Không bị chấp trước vào Nhất thiết
trí, 5. Không bị chấp trước vào những phương tiện tu hành, 6.
Không bị chấp trước vào các địa vị tu chứng của các bậc hiền
thánh, 7. Không bị chấp trước vào sự thanh tịnh đạt được do sự
hành đạo lâu ngày, 8. An trú ở Trí tuệ Ba la mật, 9. Không bị
chấp trước vào công việc giảng luận giáo hóa, và 10. Quán sát
chúng sinh phát khởi từ bi và lòng lân mẫn.
- (8) Tiểu truyện Thiền sư Tỳ Ni Ða
Lưu Chi, Thiền uyển tập anh.
- (9) Cũng có người gọi Ngài là Bất
Ngữ Thông.
- (10) Thuộc làng Phù Ðổng, tỉnh Bắc
Ninh ngày nay.
- (11) Phiên âm Hán -Việt nguyên
văn:
- Nhất thiết chư pháp
Giai tùng tâm sinh
Tâm vô sở sinh
Pháp vô sở trụ
Nhược đạt tâm địa
Sở tác vô ngại
Phi ngộ thượng căn
Thận vật khinh hứa.
- (12) Nguyên văn phiên âm chữ Hán:
" Tây thiên thử độ/ Thử độ Tây Thiên". Tây Thiên ở đây có thể
hiểu 2 nghĩa, một là chỉ cho Ấn Ðộ, nơi xuất phát của Thiền
tông,; và hai là chỉ cho cõi Phật. Xem toàn văn bài kệ trong
Thiền uyển tập anh.
- (13) Thái sư là chức danh của
triều đình như Tể tướng, Khuông Việt là tước hiệu của vua Ðinh
Tiên Hoàng tặng, nghĩa là vị Thái sư khuông phò nước Việt.
- (14) Một trong những dấu vết hiếm
hoi còn lại của thời kỳ lịch sử này là chiếc chuông Thanh Mai,
niên đại 798, được phát hiện tháng 4/1986 tại tỉnh Hà Sơn Bình,
có khắc tên những người đứng cúng đúc chuông, trong đó có tướng
của triều đại Phùng Hưng là Ðỗ Anh Hàn với đầy đủ tước hiệu. Xem
Ðinh Khắc Thuân-Hoàng Ngọc, Văn bản chuông Thanh Mai thế kỷ
VIII, tạp chí Hán-Nôm số 1+2/1987.
- (15) Tiểu sử của các vị danh tăng
Việt Nam được ngài Nghĩa Tịnh (682-727) ghi lại trong sách
Ðại Ðường Tây Vức cầu pháp cao tăng truyện.
- (16) Có tên chữ Phạn là
Mahayanapradìpa.
- (17) Nguyên văn phiên âm Hán-Việt:
- Ta hỷ Tử vương
Kỳ cực di cường
Truyền đăng chi sĩ
Yến dĩ vân vong
Thần châu vọng đọan
Thánh cảnh hồn dương
Quyến dư trường nhi lưu thế
Khoái bố tố nhi tình thương.
- (18) Có nơi gọi là Phụng Ðình, đó
là một nhầm lẫn.
- (19) Về các bài thơ, xem Lê Mạnh
Thát, Về mấy bài Ðường thi liên quan đến Phật giáo Việt Nam,
Tập văn Ban Văn hóa Trung ương GHPGVN, số 46-2000.
- (20) Ngài Ðịnh Không họ Nguyễn,
mấy đời vọng tộc, am tường thế số, hành động đúng pháp tắc,được
mọi người kính trọng. Chuyện chép rằng, khoảng năm Ðường Trinh
Nguyên (785-804), Ngài lập chùa Quỳnh Lâm tại quê mình, trong
lúc đào đất đắp nền thì phát hiện có 1 cái lư hương và 10 cái
khánh, Ngài cho người đem xuống bến sông để rửa và không biết
tại sao 1 cái bị chìm xuống đáy sông. Nhân đó Ngài đổi tên cho
làng từ Diên Uẩn thành Cổ Pháp (theo kiểu chiết tự của chữ Hán)
và nói những lời sấm tiên đoán rằng tại làng này sẽ có người họ
Lý làm vua làm cho Tam bảo hưng thịnh (Xem thêm tiểu truyện
Thiền sư Ðịnh Không).
- (21) Tiểu truyện Thiền sư Pháp
Thuận, Thiền uyển tập anh.
- (22) Sách Thiền uyển tập anh,
tiểu truyện Thiền sư Pháp Thuận chép: "Ðang lúc nhà (Tiền) Lê
mới dựng nghiệp, trù kế hoạch sách lược, sư tham gia đắc lực.
Ðến khi thiên hạ thái bình, sư không nhận phong thưởng. Vua Lê
Ðại Hành càng thêm kính trọng, thường không gọi tên, chỉ gọi Ðỗ
Pháp sư và đem việc soạn thảo văn thư giao phó cho sư". Ðáng
tiếc là những tác phẩm của Ngài nay còn không nhiều, hầu hết đã
bị thất lạc. Gần đây, trong Nghiên cứu về Thiền uyển tập anh,
học giả Lê Mạnh Thát đã rà soát trong các thư tịch cổ Trung Quốc
(Toàn thư và Tống hội yếu), đã phát hiện một lá thư do Ngài chấp
bút.
- (23) Thiền uyển tập anh
chép (phiên âm Hán-Việt nguyên văn):
- Tường quang phong hảo cẩm phàm
trương
Thần tiên phục đế hương
Thiên trùng vạn lý thiệp thương lương
Cữu thiên quy lộ trường
(Nhân) tình thảm thiết đối ly trường
Phan luyến tinh tinh lang
Nguyện tương thâm ý vị Nam cương
Phân minh báo ngã hoàng.
- Dịch nghĩa:
- Trời lành gió thuận, gấm buồm
trương
Thần tiên về đế hương
Muôn trùng vạn dặm biển mênh mang
Trời xanh xa dặm trường
Tình day dứt chén lên đường
Bịn rịn sứ tinh lang
Nguyện đem thâm ý vị Nam bang
Phân minh tấu Thượng hoàng.
- (24) Phát hiện năm 1963 tại xã Gia
Trường, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình. Xem Hà Văn Tấn, Từ một
cột kinh Phật năm 973 vừa phát hiện ở Hoa Lư, in trong Theo
dấu các văn hóa cổ, nxb. KHXH, 1998.
- (25) Tiểu truyện Ðại sư Khuông
Việt.
- (26) Nguyên văn phiên âm Hán-Việt:
- Vạn Hạnh dung tam tế
Chân phù cổ sấm ky
Hương quan danh Cổ Pháp
Trụ tích trấn vương kỳ.
- (27) "Ngã Phật chi giáo hựu giả
tiên thánh nhân dĩ truyền ư thế giả". Xem Thơ văn Lý-Trần,
tập II, quyển thượng, nxb. KHXH, 1989, trang 26.
- -oOo-
- Câu hỏi hướng dẫn ôn
tập
- 1- Sự ra đời của dòng thiền Tỳ Ni Ða Lưu Chi có ý
nghĩa như thế nào trong lịch sử Phật giáo nước ta?
- 2- Trình bày khái quát các đặc điểm của tình hình
Phật giáo trong giai đoạn từ thời vua Lý Nam đế đến thời vua
Lý Thánh Tông.
|
--o0o--
|
|