-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Phật Học Cơ Bản
-
Tập Ba
- Ban Hoằng Pháp
Trung Ương
GHPGVN
-
Chương Trình Phật Học Hàm Thụ (1998-2002)
Nguyệt San Giác Ngộ
- --- o0o ---
- Phần I
- Bài 3
- Phật giáo từ
thời Trần Nhân Tông đến cận đại
- Thích Tâm
Hải
- Từ Trần Nhân
Tông (ở ngôi 1279-1293) cho đến nay, Phật giáo nước ta về cơ bản
vẫn chịu những ảnh hưởng bởi những thiết định của nền Phật giáo
do dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử, trực tiếp là nhà vua-thiền sư
Trần Nhân Tông, đệ nhất Tổ thiết lập. Chúng ta sẽ tìm hiểu thời
kỳ này qua hai giai đoạn: giai đoạn từ vua Trần Nhân Tông đến
chúa Nguyễn Phúc Chu và từ chúa Nguyễn Phúc Chu đến cận đại.
-
I. Phật giáo từ thời Vua Trần Nhân
Tông đến Chúa Nguyễn Phúc Chu
- Vua Trần Nhân
Tông là một trong những nhà lãnh đạo Phật tử có một vị trí hết
sức quan trọng không những đối với Phật giáo nước ta mà đối với
cả dân tộc. Ngài là nhà tư tưởng và là một nhà chính trị kiệt
xuất. Trong thời gian lãnh đạo đất nước, Ngài đã làm nên những
trang sử vẻ vang cho dân tộc, đưa Phật giáo Việt Nam phát triển
đến chỗ cực thịnh. Phật giáo ở thời nhà Trần được các tài liệu
đề cập dưới nhiều góc độ, qua các gương mặt cự phách như các vua
Trần Thái Tông, người viết nhiều tác phẩm Phật học nổi tiếng như
Khóa hư lục, Thiền tông chỉ nam, Lục thời sám hối khoa nghi,
Kim cương tam muội kinh chú giải, Bình đẳng lễ sám văn; Tuệ
Trung Thượng sĩ Trần Tung (1230-1291), đệ tử của ngài Tiêu Diêu
và là thầy của vua Trần Nhân Tông, tư tưởng và hành trạng của
Ngài được ghi lại trong tác phẩm Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục.
Phật giáo đời Trần được nghiên cứu một cách kỹ lưỡng, hiện có
nhiều tài liệu để tham khảo và những đánh giá đã khá toàn diện,
nên ở đây chúng tôi chỉ nói sơ một số điểm cần nhấn mạnh lại.
Và, trước hết, chúng ta tìm hiểu đôi nét về con người của ngài
Trần Nhân Tông, những thiết định của nền Phật giáo do Ngài thiết
lập và nguyên nhân ra đời của dòng Thiền thứ tư, một dòng thiền
được xem là sản phẩm hoàn toàn của Việt Nam mà nó còn ảnh hưởng
đến tận hôm nay.
- 1.
Ðôi nét về con người vua Trần Nhân Tông và sự ra đời của dòng
thiền Trúc Lâm Yên Tử
- a. Ðôi
nét về ngài Trần Nhân Tông
- Vua Trần Nhân
Tông tên là Trần Khâm (1258-1308), con của vua Trần Thánh Tông
(Trần Hoảng), lên ngôi năm 1278, đến năm 1293 thì tự nhường ngôi
cho con là Trần Anh Tông để làm thái thượng hoàng. Trong thời
gian làm thái tử và ở ngôi, Trần Nhân Tông đã hai lần lãnh đạo
toàn dân đánh tan quân xâm lược Nguyên- Mông năm 1285 và 1288.
Trần Nhân Tông là một vị vua Phật tử thuần thành, được học đạo
trực tiếp với Tuệ Trung Thượng sĩ trong lúc còn làm thái tử cũng
như sau khi đã lên ngôi. Năm 1299, Ngài xuất gia, vào tu ở núi
Yên Tử và lấy pháp hiệu là Trúc Lâm cư sĩ, tự xưng là Hương Vân
đại đầu đà, người đời gọi Ngài bằng mỹ hiệu là Trúc Lâm Ðiều ngự
(1), Ðiều ngự Giác hoàng...
- Là một nhà
lãnh đạo cao nhất của đất nước nhưng Trần Nhân Tông đã tự nhường
ngôi lại cho con để rút lui làm thái thượng hoàng. Tuy vậy, ngay
cả khi đã xuất gia, vai trò chính trị của Ngài vẫn không kém
phần quan trọng. Ngài đã vân du giảng Phật pháp tại nhiều trung
tâm Phật giáo của nước ta thời bấy giờ, như các chùa Phổ Minh,
Sùng Nghiêm, Báo Ân, Vĩnh Nghiêm...và đi vào quần chúng để
truyền bá những nguyên tắc đạo đức căn bản của Phật giáo. Sách
Tam tổ thực lục chép rằng, năm 1304 Ngài "đi khắp các
chốn thôn quê, trừ bỏ các dâm từ và dạy dân thực hành thập
thiện". Trước đó, Ngài đã từng chống gậy vân du nhiều nơi, vào
tận Bố Chính (Bố Trạch, Quảng Trạch, thuộc tỉnh Quảng Bình ngày
nay), lập am Tri Kiến ở đây. Năm 1301, Ngài sang Chiêm Thành,
gặp gỡ vua nước này và tạo được mối bang giao hòa bình giữa hai
nước bằng cách gả công chúa Huyền Trân cho vua Chế Mân. Cuộc
sang thăm đó đã đem về cho dân tộc thêm vùng đất rộng lớn là hai
châu Ô và Rí (2) mà không tốn một sinh lực nào.
- Về việc xây
dựng giáo hội, Ngài đã thể hiện một tầm nhìn chiến lược khi chọn
và đào tạo người lãnh đạo kế tục là ngài Pháp Loa. Nền Phật giáo
mà Ngài thiết định là nền Phật giáo nhập thế, phục vụ dân tộc và
xây dựng một xã hội lành mạnh theo nền tảng của mười thiện
nghiệp. Những quan niệm về Phật giáo của Ngài hiện biết được chủ
yếu là qua các bài Cư trần lạc đạo phú và Ðắc thú lâm
tuyền thành đạo ca. Sách Tam tổ thực lục cho biết
Ngài là tác giả của nhiều tác phẩm như Thiền lâm thiết chủy
ngữ lục, Trúc lâm hậu lục, Thạch thất mị ngữ, Ðại hương hải ân
thi tập và Tăng già toái sự, nhưng đã thất lạc khá
nhiều, hiện còn một số bài thơ được chép trong Việt âm thi
tập, Toàn Việt thi lục. Ngài mất năm 1308 tại Yên Tử, thọ 51
tuổi.
- b. Bối
cảnh ra đời của dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử
- Ở đời Trần,
cả dân tộc phải đối diện một mặt với các cuộc kháng chiến chống
ngoại xâm đầy cam go để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, và mặt khác là
nhiệm vụ phục hồi kinh tế, khai khẩn đất đai ở những vùng đất
mới, ổn định đời sống của nhân dân. Trước xu thế đó, mọi nguồn
tinh lực của dân tộc đều được huy động. Và đó là bối cảnh để
dòng thiền Trúc lâm Yên tử ra đời.
- Ngài Trần
Nhân Tông là người lập ra dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử, và theo
phả hệ thì dòng thiền này xuất phát từ dòng thiền Vô Ngôn Thông.
Bởi đệ nhất Tổ của Trúc Lâm Yên Tử là học trò của Tuệ Trung
Thượng sĩ. Ngài Tuệ Trung Thượng sĩ thì học đạo với ngài Tiêu
Diêu, ngài Tiêu Diêu là đệ tử của ngài ng Thuận thuộc thế hệ thứ
XV của dòng thiền vô Ngôn Thông.
- c. Ðặc
điểm của dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử
- Tư tưởng của
dòng thiền Trúc Lâm là phát triển đỉnh cao của quan niệm "tức
tâm tức Phật". Trong bài phú Cư trần lạc đạo, ngài Trần
Nhân Tông đã viết:
- Nhân khuấy bổn nên ta tìm Bụt
Chỉnh mới hay chính Bụt là ta.
- Và trước đó,
quan niệm này đã được ngài Viên Chứng thức tỉnh vua Trần Thái
Tông khi nhà vua bỏ ngai vàng trốn vào núi để tìm đạo: "Trong
núi vốn không có Phật. Phật chỉ có ở trong tâm. Tâm lặng mà biết
thì đó đích thị là Phật" (3). Tuệ Trung Thượng sĩ thì nói: " Khi
mê không biết ta là Phật, khi ngộ thì ra Phật là ta" hay "Thân
ta tức là thân Phật, không có hai tướng" (4)...Chính quan niệm
đó đã đánh thức sức sống mãnh liệt bên trong con người thời bấy
giờ và làm nên lẽ sống cao quý của thời đại, một thời đại Phật
giáo với nhiều sự kiện kỳ tích trong lịch sử, để lại nhiều kinh
nghiệm hết sức xương máu trong công cuộc chống ngoại xâm và xây
dựng đất nước.
- Nền tảng
chung là thế, nhưng chúng ta dễ dàng nhận ra những đặc điểm của
phương pháp tu hành ở dòng Thiền này, nó không thuần túy pháp
môn Thiền định mà bao gồm cả yếu tố Tịnh độ. Theo ngài Trúc Lâm
Ðầu Ðà thì những pháp môn Tịnh độ cũng chính là Thiền. Ðây có
thể nói là đặc điểm của Thiền tông Việt Nam. Trong Cư trần
lạc đạo phú, Ngài viết:
- Miễn được lòng rồi,
Chẳng còn phép khác.
Gìn tính sáng, tính mới hầu an,
Nén niềm vọng, niềm dừng chẳng thác (...)
Tịnh độ là lòng trong sạch, chớ còn hỏi đến Tây phương,
Di Ðà là tính soi sáng, mựa phải nhọc tìm về Cực lạc...
- Phật giáo ở
đời Trần nói chung và Phật giáo mà ngài Trần Nhân Tông thiết
định nói riêng là một nền Phật giáo nhập thế, đưa Phật pháp vào
tận hang cùng ngõ hẻm của xã hội và làm một chuẩn mực đạo đức,
định hướng cho đời sống của nhân dân. Và, như đã đề cập, nền
tảng của nó được xây dựng trên cơ sở của mười thiện nghiệp mà
chính bản thân nhà vua sau khi xuất gia đã vân du khắp nơi để
quảng bá. Mẫu người Phật tử lý tưởng của nền Phật giáo này là
ngài Tuệ Trung Thượng sĩ, với tư tưởng "hòa quang đồng trần",
như chính lời của ngài Trần NhânTông đã ca ngợi: "Thượng sĩ sống
giữa lòng thế tục, hòa ánh sáng mình trong cuộc đời bụi bặm;
trong mọi cuộc tiếp xúc, Thượng sĩ luôn luôn giữ thái độ hòa ái
nên chưa bao giờ gặp phải những trường hợp phiền nghịch (...)
Thượng sĩ không bị ràng buộc với hình thức; khi thì ẩn tàng, khi
thì lộ diện...". Chúng ta lại gặp tư tưởng này trong bài phú chữ
Nôm nói về việc ở giữa đời sống bình thường mà hành đạo (Cư trần
lạc đạo phú) của chính vị Tổ khai sáng dòng thiền này.
- 2. Về
các ngài Pháp Loa, Huyền Quang và Kim Sơn
- Pháp Loa
(1284-1330) tên đời là Ðồng Kiên Cương, xuất gia năm 21 tuổi, là
người được ngài Trần Nhân Tông chọn để lãnh đạo giáo hội Trúc
Lâm Yên Tử từ khi Ngài còn rất trẻ, chỉ mới 24 tuổi (năm1308).
Sau khi được giao phó trọng trách đứng đầu giáo hội, Ngài đã có
những cải cách về mặt tổ chức đáng kể, với nhiều hoạt động Phật
sự sôi nổi. Trong thời gian Ngài lãnh đạo, số lượng Tăng sĩ và
Phật tử tại gia, chùa tháp được Tăng lên rất nhiều, phong trào
tu học được đẩy mạnh và phổ biến trong các thành phần xã hội,
đặc biệt là ấn hành được Ðại tạng kinh. Ngoài ra, ngài Pháp Loa
còn là một tác gia lớn, người đã viết, biên soạn và biên tập
khoảng 10 tác phẩm. Ðáng tiếc là nhiều tác phẩm của Ngài đã thất
lạc.
- Ngài Huyền
Quang (1254-1334) là một trong những người kế tục ngắn ngủi của
ngài Pháp Loa, thường được gọi là đệ tam Tổ của dòng thiền Trúc
Lâm Yên Tử, tên đời là Lý Ðạo Tái, người tỉnh Bắc Ninh, từng thi
đỗ và làm quan. Năm 51 tuổi xuất gia, từng học Thiền với ngài
Trần Nhân Tông, và phụ giúp Ngài soạn một số sách, sau khi ngài
Trần Nhân Tông mất thì theo ngài Pháp Loa.
- Nếu ngài Pháp
Loa thường được nhắc đến với những tài năng về mặt lãnh đạo và
xây dựng giáo hội, thì ngài Huyền Quang được biết đến là một tác
gia văn học lớn của Phật giáo và nền văn học của dân tộc đời
Trần.
- Ngài Kim Sơn
(1300-1370) cũng là một trong những đệ tử của ngài Pháp Loa, là
nhà sử học Phật giáo lớn, tác giả của Thiền uyển tập anh,
Thánh đăng ngữ lục..., những bộ sử Phật giáo Việt Nam xuất
hiện sớm nhất trong lịch sử dân tộc và Phật giáo nước ta, người
đã có những đóng góp quan trọng để Phật giáo phát triển mạnh mẽ.
Tình trạng Phật giáo cuối thế kỷ XIV vẫn được phát triển rầm rộ
đến nỗi nhà nho Lê Quát đã vô tình mô tả trong lời than vãn viết
ở văn bia chùa Thiên Phúc (Hà Bắc), rằng: "Việc họa phúc của nhà
Phật rung động lòng người sao mà sâu và mạnh đến thế! Trên thì
từ vương công, dưới thì đến thứ dân, phàm lo việc Phật thì tuy
hết của cải cũng không tiếc gì. Ngày nay cúng tiền vào chùa tháp
thì hớn hở như cầm tờ chứng khoán để được báo đáp ngày mai. Cho
nên từ kinh thành ở trong cho đến châu phủ ở ngoài, khắp hang
cùng ngõ hẻm, người ta không được lệnh mà cứ theo, không thề
thốt mà cứ tin, nơi nào có dân cư là nơi đó có chùa Phật, phế
rồi lại hưng, đổ rồi lại sửa, chuông trống lâu đài, gần nửa dân
cư lao vào đó." (5), qua đây chúng ta có thể hình dung phần nào
tình hình Phật giáo thời bấy giờ. Tuy nhiên, cuối đời Trần, bị
sự tác động của các nho thần như Lê Quát và Phạm Sư Mạnh với chủ
trương vọng ngoại, những người lãnh đạo bất tài đã không làm chủ
được tình hình, khiến cho xã hội ngày càng đi vào chỗ suy vi, và
hậu quả là đưa đến cuộc chính biến năm 1400 và họa mất nước vào
năm 1407.
- 3.
Ðôi nét về tình hình Phật giáo sau thời ngài Kim Sơn
- a. Cuộc
nổi dậy của sư Phạm Sư Ôn cuối đời Trần
- Vào cuối nhà
Trần, do sự bất tài của những người lãnh đạo, bị cuốn theo xu
hướng vọng ngoại bởi sự tác động của một số nho sĩ, đã không giữ
được sự độc lập dân tộc trong đường lối chính trị và văn hóa, và
rơi vào chỗ khủng hoảng trầm trọng. Trước cảnh đổ nát và phản
động ấy, nhiều phong trào phản kháng nổ ra, trong đó đặc biệt là
cuộc khởi nghĩa của sư Phạm Sư Ôn (?-1390).
- Bất bình
trước tình trạng trên, sư Phạm Sư Ôn, đạo hiệu là Thiên Nhiên,
đã lãnh đạo nhân dân, tầng lớp nông dân nghèo bị đè nén, khởi
nghĩa chống lại chính sách cai trị của triều đình đương thời.
Cuộc khởi nghĩa nổ ra ở Quốc Oai Thượng (Hà Tây), nghĩa quân lập
thành 3 đạo Thần Kỳ, Dũng Ðấu và Vô Hạn đánh thẳng vào Thăng
Long khiến cho vua quan phải bỏ kinh thành mà chạy. Nghĩa quân
làm chủ Thăng Long được một thời gian ngắn, nhưng sau đó thì bị
phản công, và bị đàn áp (6).
- Tuy thất bại,
nhưng cuộc khởi nghĩa của sư Phạm Sư Ôn có ý nghĩa hết sức quan
trọng. Nó nói lên tinh thần và phản ứng của giới Phật giáo đối
với nhà nước, dẫu đấy là một nhà nước Phật giáo. Giới Phật giáo
luôn đứng về phía nhân dân và dân tộc, chứ không hề đồng tình để
vụ lợi khi một nhà nước trở nên mục nát và phản động.
- Những nỗ lực
như cuộc khởi nghĩa của sư Phạm Sư Ôn chưa đủ mạnh để làm nên
một thay đổi cho dân tộc, và nhà Trần càng ngày càng mất uy tín,
không còn khả năng khôi phục tình hình để cuối cùng đưa đến cuộc
chính biến năm 1400, Hồ Quý Ly lên nắm quyền, lập ra nhà Hồ.
Nhưng nhà Hồ tồn tại chỉ được 7 năm (1400-1407). Chính quyền của
Hồ Quý Ly không được lòng dân, không dám dựa vào dân, lại sai
lầm trong chiến lược về quân sự, nên đã thất bại trước âm mưu
xâm lược của nhà Minh, để đất nước ta rơi vào một giai đoạn đau
thương nhất trong lịch sử.
- Ngay sau khi
chiếm nước ta, chính quyền xâm lược đã thực thi các chính sách
đô hộ vô cùng khốc liệt và thâm độc nhằm tiêu hủy toàn bộ di sản
văn hóa mà dân tộc ta đã xây dựng nên, vơ vét tất cả để đem về
nước, bắt bớ nhân tài Việt Nam, áp đặt văn hóa Hán lên nước ta
(7)... Trước nỗi đau đó, hơn bao giờ hết, ý thức dân tộc của
nhân dân ta bùng dậy mạnh mẽ, phong trào kháng chiến cứu nước nổ
ra nhiều nơi, ngoài cuộc kháng chiến trong giai đoạn đầu như của
sư An Quốc và nhà Hậu Trần (1407-1413), sau đó là cuộc khởi
nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo, còn có nhiều cuộc nổi dậy khác
mà đáng chú ý hơn cả là cuộc khởi nghĩa kháng chiến chống Minh
của nhà sư Phạm Ngọc.
- b. Sư
Phạm Ngọc với cuộc kháng chiến chống Minh cứu nước
- Lâu nay,
trong quốc sử lẫn sử Phật giáo, đã có những nhận định hết sức
sai lầm về cuộc khởi nghĩa kháng chiến cứu nước do sư Phạm Ngọc
lãnh đạo. Gần đây, vấn đề này đã được đem ra dưới ánh sáng của
sự thật lịch sử, và qua đó cho chúng ta biết thêm về những hy
sinh của người Phật tử trong cuộc kháng chiến chống Minh cứu
nước đầy cam go (1407-1428) (8).
- Sư Phạm Ngọc
ở tại chùa Ðồ Sơn, huyện An Lão, tỉnh Kiến An (thuộc TP. Hải
Phòng ngày nay), nhóm nghĩa quân, thành lập chính quyền kháng
chiến, tự xưng là La Bình vương, được sự ủng hộ của đông đảo
đồng bào vùng trung du và đồng bằng Bắc bộ. Về thời gian nổ ra
cuộc khởi nghĩa không được ghi chép rõ, nhưng có thể cùng thời
điểm với cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
- Cuộc khởi
nghĩa này đã đánh nhiều trận, gây tổn thất không nhỏ đối với
chính quyền của quân xâm lăng. Tuy thất bại, sư Phạm Ngọc bị
bắt, giặc Minh áp tải sang Trung Quốc rồi bị giết tại đó, nhưng
cuộc khởi nghĩa này có một ý nghĩa quan trọng, nó phần nào cho
phép chúng ta hình dung những phản ứng của Phật giáo ở nửa đầu
thế kỷ XV, những đóng góp của người Phật tử vào công cuộc chống
Minh cứu nước của dân tộc.
- c. Sơ
lược về tình hình Phật giáo
- Cuộc kháng
chiến chống Minh cứu nước do Lê Lợi lãnh đạo thành công, Lê Lợi
lên ngôi hoàng đế, mở ra triều đại nhà Hậu Lê. Sự thay đổi triều
đại ở thời kỳ này dĩ nhiên là có những ảnh hưởng đến xã hội,
nhưng Phật giáo về cơ bản vẫn không có thay đổi gì nổi bật. Phật
giáo vẫn là một hệ tư tưởng chủ đạo trong đời sống của dân tộc.
- Những quan
niệm trước đây cho rằng, từ thời Lê trở đi, Nho giáo chiếm vị
trí độc tôn trong đời sống chính trị và văn hóa và Phật giáo đi
vào chỗ suy yếu. Ðấy là một nhận định thiếu chính xác. Vào cuối
thế kỷ XIV, nhà nho Lê Quát đã thành thật thừa nhận sự thất bại
của tư tưởng Nho giáo, bởi Phật giáo đã ăn sâu vào trong tâm
thức của dân tộc Việt Nam, ông đã than rằng: "Ta từ thuở bé đi
học, chí dốc vào cổ kim, cũng biết qua về đạo Thánh, muốn lấy đó
mà dạy dân, thế nhưng rốt cuộc không một làng nào tin theo
cả..." (9).
- Ðến thời Lê
sơ, với sự lãnh đạo của vị vua Phật tử Lê Lợi (Thái Tổ, ở ngôi
1428-1433) và các danh thần như Lê Sát, Trần Nguyên Hãn, Lê
Ngân..., Phật giáo vẫn tiếp tục được phát triển. Vua Lê Thánh
Tông (ở ngôi 1460-1497) là một người đã nhận thức sâu sắc vai
trò của đạo Phật đối với dân tộc. Trong Hồng Ðức quốc âm thi
tập của ông đã có những bài thơ vịnh về chùa Trấn Quốc, chùa
Pháp Vân...với một niềm tin sâu sắc, chẳng hạn ông ca ngợi Phật
Pháp Vân bằng một bài thơ dài, trong đó có câu: "Tỉnh phò thế
nước dường như tại" (lặng lẽ phò trì cho đất nước như luôn
thường trực một bên), hay:
- Nguyện xem ấm tý thần thông ấy
Phổ độ nào đâu chẳng phỉ nguyền...;
- và trong bài
thơ ca ngợi về chùa Trấn Quốc, nhà vua đã viết: "Trung lập
càn khôn vững đế đô" (10).
- Vào thời vua
Lê Thánh Tông, các lễ hội tâm linh truyền thống như lễ hội rước
Phật Pháp Vân tổ chức rầm rộ, được ngài Pháp Tính (1470-1550),
một cao tăng thời đó, kể lại rất sinh động trong tác phẩm chữ
Nôm Cổ châu Pháp Vân Phật bản hạnh lục (11).
- Về Phật giáo
thời Lê, hoàn toàn khác với những đánh giá trước đây, học giả Lê
Mạnh Thát đã nhận định tổng quát: "Thời Lê là thời đại Phật giáo
Việt Nam phát triển rầm rộ, do đối kháng lại với nền Phật giáo
mà nhà Minh đưa qua..." (12). Phật giáo ở giai đoạn này đã kế
thừa các nền tảng hình thành trước, tiếp tục phát triển, nổi bật
với các gương mặt Phật tử, danh Tăng như nhà toán học Phật tử
Lương Thế Vinh (1441-?), đỗ trạng nguyên năm 1463; nhà chính trị
-quân sự thiên tài Nguyễn Trãi (1380-1442), người đã lấy tư
tưởng Phật giáo để xây dựng quan niệm nhân nghĩa trong tư tưởng
quân sự của mình; ngài Viên Thái (1400-1460), người đầu tiên
dịch kinh Phật ra chữ Nôm hiện biết được (13); ngài Pháp Tính
(1470-1550), người viết Ngọc âm chỉ nam giải nghĩa, Cổ châu
Pháp Vân Phật bản hạnh lục; và không ít vị Tăng sĩ Trung
Quốc sang nước ta tu hành, như trường hợp các ngài Chuyết Chuyết
(1590-1644), thế hệ thứ 34 dòng thiền Lâm Tế Trung Quốc, ngài
Minh Hành, học trò của ngài Chuyết Chuyết...
- Về mặt lễ hội
văn hóa tâm linh và xây dựng chùa chiền, ở thời Lê vẫn diễn ra
tuy không nhiều như trước nhưng vẫn khá mạnh mẽ. Ðạo Phật đã
thâm nhập và hòa quyện với văn hóa dân tộc, đã trở nên một bất
khả phân ly. Chùa chiền vẫn là nơi sinh hoạt tín ngưỡng và văn
hóa của các tầng lớp nhân dân. Tuy phát triển lúc thiên về lĩnh
vực này hay phương diện khác, nhưng Phật giáo không bao giờ rơi
vào tình trạng gọi là suy yếu, bởi nó đã hòa quyện trong tâm hồn
của dân tộc, cùng bước với bước tiến của đất nước qua các thời
đại, bất chấp những cuộc chính biến và thay đổi triều đại. Chúng
ta tiếp tục tìm hiểu tổng quan về tình hình Phật giáo ở giai
đoạn thứ năm, giai đoạn từ thời chúa Nguyễn Phúc Chu đến cận
đại.
-
II. Phật giáo từ thời Chúa Nguyễn Phúc
Chu đến thời cận đại
- Năm 1527, Mạc
Ðăng Dung cướp ngôi nhà Lê và lập ra nhà Mạc, tiếp sau đó là
những mâu thuẫn nội bộ, đưa đến cuộc chia cắt đất nước thành hai
miền là Ðàng Trong và Ðàng Ngoài. Xứ Ðàng Ngoài nằm trong tay
của vua Lê-chúa Trịnh. Xứ Ðàng Trong do các chúa Nguyễn cai trị,
bắt đầu là Nguyễn Hoàng, và nổi bật là vai trò của chúa Nguyễn
Phúc Chu.
- 1.
Chúa Nguyễn Phúc Chu, một Trần Nhân Tông thứ hai trong lịch sử
- Chúa Nguyễn
Phúc Chu (1675-1725) là một trong những nhà lãnh đạo Phật tử
thời Nguyễn trước Gia Long, có một vai trò hết sức quan trọng
không những đối với công cuộc Nam tiến của dân tộc, mà còn đối
với sự phát triển của Phật giáo Việt Nam. Trong 34 năm ở ngôi
chúa (1691-1725), ông đã có những đóng góp quan trọng đối với
lịch sử mở đất của dân tộc. Năm 1698, ông đã sai Lễ Thành hầu
Nguyễn Hữu Cảnh vào thành lập trấn Gia Ðịnh, chính thức mở rộng
biên cương với địa hình cơ bản như hiện nay.
- Chúa Nguyễn
Phúc Chu là một Phật tử nhiệt thành với tư tưởng mang đạo vào
đời, ông có pháp danh là Hưng Long, còn có hiệu là Thiên Túng
Ðạo nhân do ngài Thạch Liêm, một danh tăng thuộc phái thiền Tào
Ðộng Trung Quốc đặt, và được xem là truyền thừa chánh tông đời
thứ 30 của dòng thiền này. Bốn năm sau khi lên ngôi chúa, ông
thọ Bồ tát giới, thường tự ví mình là Duy Ma Cật. Tư tưởng Phật
giáo của chúa Nguyễn Phúc Chu có thể nói là một thể hiện khác
của tư tưởng Trần Nhân Tông như đã đề cập phần trước, nghĩa là
chủ trương lấy tinh thần Phật pháp định hướng cho đời sống dân
tộc. Ông đã có những quan hệ mật thiết với ngài Thạch Liêm. Ngài
Thạch Liêm đã có lần trình bày với chúa quan điểm trị nước theo
tinh thần Phật giáo, được giải thích qua ý nghĩa "trai giới" đối
với một vị quân vương: "Trai giới là làm cho quốc gia từ trên
xuống dưới được thanh lý chỉnh tề, không một người nào không
ngồi đúng chỗ, không một việc nào chẳng giải quyết được chính
đáng. Làm được như thế mới là sự trai giới viên mãn của một ông
vua". Chúa Nguyễn Phúc Chu có thể ví là một Trần Nhân Tông thứ
hai trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, một nhà lãnh đạo hộ pháp
tích cực, và vận dụng tinh thần của Phật giáo vào chính sách
lãnh đạo của mình. Chúa Nguyễn Phúc Chu đã cho xây dựng và trùng
tu nhiều ngôi danh lam tại Thuận Hóa như trùng tu chùa Thúy Vân,
chùa Linh Mụ... Sai người sang Trung Quốc thỉnh bộ Ðại tạng
kinh, xây Tàng kinh lâu để bảo quản, v.v...
- Trong thời
đại của ông, với sự có mặt của nhiều cao tăng và sự ngoại hộ
tích cực của nhà nước, Phật giáo nước ta phát triển trên cơ sở
của một nền học lý mới mà chúng ta sẽ đề cập sơ bộ trong phần
tiếp, qua các danh tăng của thời đại này.
- 2.
Một số đại biểu của nền học lý Phật giáo ở thời đại Nguyễn Phúc
Chu
- Nền học lý
thời đại chúa Nguyễn Phúc Chu được thiết định bởi các ngài Thạch
Liêm, Nguyên Thiều, Liễu Quán ở xứ Ðàng Trong, và các ngài Minh
Châu Hương Hải, Chân Nguyên, Toàn Nhật... ở Ðàng Ngoài. Vậy cơ
bản của truyền thống và nền học lý này là gì? Chúng ta sơ bộ
khái quát từ tư tưởng của các dòng thiền ra đời trong giai đoạn
này.
- a. Dòng
thiền Tào Ðộng
- Tào Ðộng là
một dòng thiền xuất phát từ Trung Quốc, do các ngài Tào Sơn Bản
Tịch (840-901) và Ðộng Sơn Lương Giới (807-869) sáng lập, được
truyền đến nước ta từ thế kỷ XVII, có xu hướng sử dụng dịch lý,
ảnh hưởng trên cả hai miền Nam và Bắc. Ở miền Bắc (Ðàng Ngoài),
cuối thế kỷ XVII và trong thế kỷ XVIII, dòng thiền Tào Ðộng đã
có những ảnh hưởng to lớn, và nó còn ảnh hưởng đến tận ngày nay,
nhiều chùa ở Hà Nội như Trấn Quốc, Hàm Long và Hòe Nhai...đến
nay vẫn xem là truyền thừa của dòng thiền này (14).
- Tại xứ Ðàng
Trong, có lẽ người đầu tiên mang dòng thiền này đến là Quốc sư
Hưng Liên tại chùa Tam Thai, Quảng Nam. Tuy nhiên, người đã làm
cho nó trở nên thịnh là ngài Thạch Liêm (1633-1704). Ngài được
chúa Nguyễn Phúc Chu mời đến nước ta (Thuận Hóa, Huế) vào
năm1695, tổ chức đại giới đàn truyền giới cho nhiều người xuất
gia và tại gia. Chúa Nguyễn Phúc Chu và nhiều hoàng thân quốc
thích của chúa thọ giới Bồ tát tại đây. Về mặt tư tưởng Thiền,
ngài Thạch Liêm không mang đến những tư tưởng gì mới, Ngài xiển
dương phương pháp Thiền-Tịnh song tu, vốn là truyền thống của
Phật giáo nước ta. Tuy nhiên, tư tưởng đưa đạo vào đời thì được
ủng hộ mạnh mẽ, điều đó được thể hiện qua con người của chúa
Nguyễn Phúc Chu, đệ tử của Ngài. Ngoài ra, Ngài còn viết một số
tác phẩm Phật học, đặc biệt là cuốn Kim cương trực sớ,
một tác phẩm gối đầu giường của nhiều thế hệ Phật tử miền Nam.
Về truyền thừa thì dường như dòng thiền này không có duyên lắm
với xứ Ðàng Trong, không thấy nhắc đến các thế hệ tiếp sau thời
chúa Nguyễn Phúc Chu.
- b. Dòng
thiền Lâm Tế
- Nếu như dòng
thiền Tào Ðộng thịnh ở miền Bắc thì dòng Lâm Tế tỏ ra phát triển
ở miền Nam. Từ thế kỷ XVII, đã có sự hiện diện của nhiều Tăng sĩ
thuộc dòng thiền Lâm Tế, như các ngài Viên Minh và Viên Khoan ở
Quảng Trị, Minh Hoằng Tử Dung khai sơn chùa Từ Ðàm, ngài Giác
Phong sáng lập chùa Báo Quốc tại Huế, ngài Pháp Bảo lập chùa
Chúc Thánh ở Quảng Nam, ngài Nguyên Thiều sáng lập các chùa Thập
Tháp Di Ðà tại Bình Ðịnh, chùa Quốc Ân và Hà Trung tại Thuận Hóa
(Huế)...Ðặc biệt trong đó có các ngài Nguyên Thiều đã thành lập
nên các dòng truyền thừa theo phả hệ Thập Tháp và Quốc Êân, ngài
Pháp Bảo thành lập nên dòng truyền thừa hệ Chúc Thánh (15).
Ngoài các dòng truyền thừa trên, tại miền Nam có một hệ truyền
thừa ảnh hưởng rất sâu rộng cho đến hôm nay, đó là dòng Liễu
Quán, do ngài Liễu Quán thành lập.
- Ngài Liễu
Quán (1670-1742) quê ở Phú Yên, từng học đạo với các ngài Giác
Phong và Tử Dung tại Thuận Hóa. Ngài là Tổ khai sơn chùa Thiền
Tôn tại núi Thiên Thai (Thuận Hóa), nơi Ngài dựng am cỏ (thảo
am) để chuyên tu. Chúa Nguyễn Phúc Khoát là người rất kính
ngưỡng Ngài, từng mời Ngài vào phủ nhưng Ngài thường từ chối.
Ðạo phong của Ngài được đông đảo Phật tử mến mộ, người đến cầu
pháp rất đông, gần bốn nghìn người cả xuất gia lẫn cư sĩ. Ngài
mất năm 1742, thọ 72 tuổi. Chúa Nguyễn Phúc Khoát truy tặng Ngài
thụy hiệu "Ðạo Hạnh Thụy Chánh Giác Viên Ngộ Hòa thượng". Tính
theo truyền thừa của dòng thiền Lâm Tế, Ngài là thế hệ thứ 35.
Ngài là bậc cao tăng mà tư tưởng đã ảnh hưởng rất lớn đối với
Phật giáo xứ Ðàng Trong, được đánh giá là người đã Việt hóa dòng
thiền Lâm Tế, làm cho nó phổ biến, hiện nay dòng kệ truyền pháp
của Ngài (16) vẫn còn được tiếp nối, nhất là miền Nam nước ta,
kể từ Huế trở vào.
- c. Các
ngài Chân Nguyên, Minh Châu-Hương Hải và tình hình Phật giáo ở
Ðàng Ngoài
- Thế kỷ XVII
tại miền Bắc nước ta, dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử phát triển mạnh
mẽ, người đứng đầu là ngài Chân Nguyên (1647-1726). Ý đồ phát
triển nền Phật giáo thời Trần Nhân Tông là một trong những nỗ
lực nhằm tìm một giải pháp cho những bế tắc của thời đại, khi mà
các thế lực phong kiến cấu xé nhau để giành giựt quyền bính mà
không đếm xỉa gì đến quyền lợi của dân tộc và xã hội đang trên
đà băng hoại. Ngài đã viết nhiều tác phẩm về Phật giáo với nhận
thức khá mới mẻ. Tuy nhiên, những cố gắng đó vẫn không xoay
chuyển được tình thế, nhưng dẫu sao cũng đã tạo nên một sự phấn
khích cho thế hệ đương thời và sau đó, mà một trong những người
kế thừa xuất sắc là Ngô Thì Nhậm (1746-1802), tức Hải Lượng
Thiền sư, tự xưng là Tổ thứ tư (17) của dòng thiền Trúc Lâm Yên
Tử, người đã viết tác phẩm nổi tiếng Trúc lâm tông chỉ nguyên
thanh.
- Về ngài Minh
Châu-Hương Hải (1628-1715), theo Toàn tập Minh Châu-Hương Hải
(18), Ngài xuất thân từ một gia đình truyền thống danh gia thế
phiệt, gốc Nghi Lộc, Nghệ An, nhưng sinh ra và lớn lên tại miền
Nam. Trước khi xuất gia, Ngài từng thi đỗ và làm quan, học đạo
với các ngài Lục Hồ Viên Cảnh và Viên Khoan Ðại Thâm, sau đó từ
quan xuất gia và trú trì viện Thiền Tịnh ở núi Qui Kính. Do một
số bất đồng với chúa Nguyễn Phúc Tần (1649-1687), Ngài bỏ ra Bắc
năm 1682. Cuộc đời hành đạo của ngài Minh Châu-Hương Hải đã có
những ảnh hưởng lớn đối với tình hình Phật giáo đương thời bằng
cách tác động vào chính sách triều đình, tiếp nối truyền thống
gắn bó giữa Phật giáo và dân tộc vốn có trong truyền thống của
Phật giáo nước ta. Ngoài ra, Ngài là một tác gia lớn, người đã
đào tạo nhiều học trò xuất sắc, là một ngôi sao sáng trên bầu
trời Phật giáo thế kỷ XVII- đầu XVIII.
- Trong giai
đoạn này, Phật giáo đã cống hiến cho dân tộc nhiều thiên tài,
trên các lĩnh vực, chẳng hạn những gương mặt nổi bật như các
ngài Chân Nguyên, Minh Châu-Hương Hải, Chân An-Tuệ Tĩnh... Chính
những nhân tố đó đã làm nên một diện mạo phát triển của Phật
giáo giai đoạn này.
- d. Cuộc
khủng hoảng của xã hội Việt Nam ở thời Nguyễn và những phản ứng
của Phật giáo
- Từ thế kỷ thứ
XVIII, xã hội nước ta rơi vào cuộc khủng hoảng ý thức hệ trầm
trọng. Trong bối cảnh đó, Phật giáo đã có nhiều nỗ lực nhằm tìm
cách xây dựng một hệ ý thức mới phù hợp với yêu cầu của thời
đại. Tuy nhiên, sau khi nhà Tây Sơn sụp đổ, Gia Long lên ngôi
(1802), ông đã chủ trương phục hồi hệ ý thức Nho giáo cực kỳ
phản động, đưa đất nước đến chỗ bế tắc, dân tộc ta lại rơi vào
đại họa ngoại xâm. Trước tình hình đó, triều đình không đủ can
đảm để đánh giặc thì nhân dân tự dấy lên khởi nghĩa, và trong đó
có những phản ứng của giới Phật giáo, điển hình là các cuộc khởi
nghĩa chống pháp cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX của các vị sư
Nguyễn Văn Quý, Trần Văn Thành, Võ Trứ, Vương Quốc Chính, Cao
Văn Long, v.v... Ðây không phải là một đặc điểm mới mà vốn đã có
trước đó khá lâu, qua gương mặt của sư Phạm Sư Ôn, An Quốc, Phạm
Ngọc mà chúng ta đã đề cập.
- Cũng trong
thế kỷ XVIII-XIX, nhiều gương mặt cao tăng với nhiều nỗ lực nhằm
tìm ra một lối đi cho dân tộc, nổi bật ngoài Hải Lượng Ngô Thì
Nhậm, còn có các ngài Pháp Chuyên (1726-1798), tác giả của 20 bộ
sách; Toàn Nhật (1755-1832), tác giả của hơn 24 tác phẩm; ngài
Tính Quảng (1740-1780), ngài An Thiền-Phúc Ðiền (1790-1860),
người đã dấy lên một phong trào nghiên cứu lịch sử Phật giáo dân
tộc và đã soạn một số tác phẩm giá trị như Ðại nam Thiền uyển
truyền đăng chấp lục, Ðạo giáo nguyên lưu, Khóa hư lục giải
nghĩa, v.v...; ngài Như Như (1836-1899), tác giả của tác
phẩm nổi tiếng Hàm long sơn chí, v.v...
- 3.
Ðôi nét về phong trào chấn hưng Phật giáo đầu thế kỷ XX
- Cuối thế kỷ
XIX đầu thế kỷ XX, phong trào phục hưng Phật giáo diễn ra tại
nhiều nước như Tích Lan, Ấn Ðộ, đặc biệt là cuộc vận động phục
hưng Phật giáo Trung Quốc do Thái Hư Ðại sư chủ trương từ năm
1912, đã ảnh hưởng đến cuộc vận động chấn hưng Phật giáo tại
nước ta. Theo Nguyễn Lang, tác giả của Việt Nam Phật giáo sử
luận, thì người châm ngòi cho cuộc vận động chấn hưng Phật
giáo ở nước ta là ngài Khánh Hòa, năm 1923, tại tỉnh Bến Tre.
Qua những phương tiện thông tin ngôn luận, cuộc vận động đã lan
đi nhanh chóng. Bắt đầu từ Nam, ra Huế rồi Hà Nội. Nhiều hội
đoàn Phật giáo, hội nghiên cứu Phật học được thành lập khắp nơi
từ Bắc chí Nam, các trường truyền dạy Phật học được mở, nhiều tờ
báo được xuất bản, tạo nên một phong trào hết sức rộng rãi. Ðặc
biệt là ý thức về lịch sử Phật giáo dân tộc trỗi dậy, và hàng
loạt công trình chuyên khảo cứu về vấn đề này ra đời, đáng chú ý
hơn cả là các công trình của nhà sử học Trần Văn Giáp và ngài
Mật Thể (19) về lịch sử Phật giáo Việt Nam đã tạo nên ý thức về
vai trò của Phật giáo đối với dân tộc một cách sâu sắc. Cuộc vận
động tiếp tục diễn ra và đã có những thành tựu rất to lớn. Tuy
nhiên, nó chỉ làm sống dậy tinh thần của Phật giáo Việt Nam, mà
chưa tạo được những sự bứt phá. Nội dung cơ bản, về truyền thống
và học lý, vẫn chưa có gì mới đủ để đưa Phật giáo bước sang một
thời kỳ mới. Phật giáo nước ta cho đến tận bây giờ vẫn chịu ảnh
hưởng của những học lý và truyền thống của thời đại Phật giáo kể
từ chúa Nguyễn Phúc Chu, và từ những thiết định tư tưởng của nền
Phật giáo từ thời vua Trần Nhân Tông.
-
* Kết Luận
- Bất kỳ dân
tộc nào cũng có nền văn hóa của mình, không ai có quyền phủ bác
hay coi thường, hoặc chụp lên nó một nền văn hóa mới. Dân tộc
Việt Nam là một dân tộc vốn có một nền văn hóa với những thành
tựu rực rỡ trước khi Phật giáo du nhập. Và, là một hệ thống tư
tưởng không giáo điều, khiêm tốn khép mình, nên khi vào nước ta,
Phật giáo sẵn sàng tiếp thu truyền thống bản địa, không buộc
người Việt phải từ bỏ những gì vốn có trong nền văn hóa bản xứ,
do đó nó đi sâu vào tâm hồn của con người một cách tự nhiên. Về
phía dân tộc, dĩ nhiên là nhận thức rằng cần tiếp thu Phật giáo
để làm phong phú thêm đời sống văn hóa của chính mình. Hơn thế
nữa, dân tộc ta luôn phải đối mặt với âm mưu đồng hóa văn hóa
của kẻ thù phương Bắc, tư tưởng Phật giáo sau khi đã bản địa
hóa, kết hợp với những yếu tố dân tộc, là một bức tường thành
kiên cố chặn đứng mọi sự tấn công, góp phần giữ gìn bản sắc văn
hóa dân tộc.
- Năm giai đoạn
phát triển của Phật giáo đã trình bày trên phản ánh được điều
đó. Năm giai đoạn này được xây dựng cơ bản trên hai nền tảng tư
tưởng, một là nền tư tưởng Phật giáo quyền năng và hai là tư
tưởng tức tâm tức Phật. Hai nền tảng tư tưởng Phật giáo này hòa
quyện với nhau, thấm sâu vào đời sống tâm linh của con người
Việt Nam. Và nó gắn liền với sự phát triển của lịch sử dân tộc,
lấy sứ mệnh của dân tộc làm sứ mệnh của mình. Ðó là tính nhất
quán của lịch sử Phật giáo Việt Nam, được biểu hiện qua những
bước chuyển mình, đáp ứng yêu cầu của từng chặng đường lịch sử
cụ thể, vì lợi ích chung của dân tộc. Giáo sư Trần Văn Giàu đã
rất có lý khi nhận định rằng: "Bình minh của dân tộc ta đã gắn
với Phật giáo..." (20).
- Sự phát triển
của lịch sử là sự phát triển có ý thức. Năm giai đoạn, năm chặng
đường đồng cam cộng khổ với dân tộc là một minh chứng cho bản
chất của Phật giáo Việt Nam./.
- * Chú
thích:
- (1) Có nghĩa là Phật Trúc Lâm
(Ðiều ngự là một trong 10 danh hiệu tôn xưng Ðức Phật).
- (2) Sau này đổi tên thành hai châu
Thuận và Hóa, từ thị xã Ðông Hà, tỉnh Quảng Trị đến Ðiện Bàn,
tỉnh Quảng Nam ngày nay.
- (3) Xem Thiền tông chỉ nam tự.
- (4) Xem Niệm Phật luận, Khóa hư
lục.
- (5) Dẫn lại theo Trần Văn Giàu,
Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ XIX đến Cách mạng
Tháng Tám , tập I: Hệ ý thức phong kiến và sự thất bại
của nó trước các nhiệm vụ lịch sử, Nxb. Chính trị quốc gia,
HN, 1996, trang 484. Những chỗ in đậm là chúng tôi (TTH) nhấn
mạnh.
- (6) Xem Trương Hữu Quýnh-Phan Ðại
Doãn, Danh nhân lịch sử Việt Nam, tập I, Nxb. Giáo Dục,
1987, trang 96.
- (7) Năm 1407, vua nhà Minh sai
Trương Phụ, Trần Húc phá hủy toàn bộ những di sản văn hóa của
dân tộc ta: "một mảnh giấy, một nửa chữ, cùng những bia khắc của
nước ấy dựng lên, hễ thấy thì lập tức hủy hoại hết". Do thế,
ngày nay những tư liệu của Phật giáo nói riêng và dân tộc nói
chung trước năm 1407 rất hiếm, chúng đã bị quân Minh phá hoặc
thu gom về nước.
- (8) Xem Lê Mạnh Thát, Cuộc khởi
nghĩa chống Minh cứu nước của Tăng sĩ Phạm Ngọc, Tập văn
Thành Ðạo, số 43 và Phật đản, số 44 năm 1999.
- (9) Ðại Việt sử ký toàn thư.
- (10) Viện Nghiên cứu Hán Nôm,
Thơ văn Lê Thánh Tông, nxb. KHXH, 1986.
- (11) Xem Lê Mạnh Thát, Viên
Thái thiền sư toàn tập, Tu thư Vạn Hạnh, 1977.
- (12) Lịch sử Phật giáo Việt Nam,
sđd, trang 156.
- (13) Ðại báo phụ mẫu ân trọng
kinh.
- (14) Về Thiền phả truyền thừa tại
miền Bắc nước ta, xem tông tào Ðộng truyền sang miền Bắc Việt
Nam, HT. Thích Thanh Từ, Thiền sư Việt Nam, Nxb. TPHCM,
1999, trang 395-396.
- (15) Bài kệ truyền pháp của Ngài
là:
- Minh thật pháp toàn chương
Ấn chân như thị đồng
Chúc thánh thọ thiên cửu
Kỳ quốc tộ địa trường
Ðắc chính luật vi tuyên
Tổ đạo hạnh giải thông
Giác hoa bồ đề thọ
Sung mãn nhân thiên trung.
- (16) Dòng kệ truyền pháp theo phả
hệ của ngài Liễu Quán:
- Thiệt tế đại đạoTánh hải thanh
trừng
Tâm nguyên quảng nhuận Ðức bổn từ phong
Giới định phước huệ Thể dụng viên thông
Vĩnh siêu trí quả Một khế thành công
Truyền trì diệu lý Diễn xướng chánh tông
Hành giải tương ứng Ðạt ngộ chơn không.
- (17) Sau ngài Trần Nhân Tông, Pháp
Loa và Huyền Quang.
- (18) Lê Mạnh Thát, Nxb. TPHCM,
2000.
- (19) Xem chú thích (1) trong bài
1.
- (20) Trần Văn Giàu, Ðạo Phật và
một số vấn đề của lịch sử tư tưởng Việt Nam, in trong
Phật giáo và lịch sử tư tưởng Việt Nam, Viện Triết học xuất
bản, HN, 1986, trang 15.
- * Tài
liệu tham khảo chủ yếu cho học viên
- 1. Lịch sử Phật giáo Việt Nam,
tập 1, tác giả Lê Mạnh Thát, Nxb. Thuận Hóa, 1999.
- 2. Việt Nam Phật giáo sử luận,
3 tập, tác giả Nguyễn Lang, Nxb. Văn Học, 1994.
- 3. Nghiên cứu về Thiền uyển
tập anh, tác giả Lê Mạnh Thát, Nxb. TPHCM, 1999.
- 4. Thiền sư Việt Nam, tác
giả Thích Thanh Từ, Nxb. TPHCM, 1999.
- -oOo-
-
Câu hỏi hướng dẫn ôn tập
- 1- Trình bày nét đặc sắc
của nền Phật giáo Trúc Lâm Yên Tử do ngài Trần Nhân Tông
thiết lập.
- 2- Truyền thống và học
lý của Phật giáo Việt Nam hiện tại đang chịu ảnh hưởng của
nền học lý nào?
- 3- Bạn có suy nghĩ gì về
đặc tính của Phật giáo Việt Nam qua năm giai đoạn phát
triển?
|
--o0o--
|
|