-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Phật Học Cơ Bản
-
Tập Ba
- Ban Hoằng Pháp
Trung Ương
GHPGVN
-
Chương Trình Phật Học Hàm Thụ (1998-2002)
Nguyệt San Giác Ngộ
- --- o0o ---
- Phần
II - Tư tưởng Phật giáo
Bài 1
- Các cấp độ
Giới pháp
- Thích Phước Sơn
-
A- Dẫn nhập
- Trải qua nửa
thế kỷ thuyết pháp độ sinh, Ðức Ðạo sư đã hóa độ đủ mọi hạng
người, không phân biệt màu da, chủng tộc, giai cấp, sang hèn.
Những đệ tử được Thế Tôn hóa độ, do căn cơ trình độ, tuổi tác,
giới tính bất đồng, vì thế được chia thành 7 nhóm và được gọi là
7 chúng đệ tử của Phật.
- Trong đó, hai
nhóm đầu là Ưu bà tắc và Ưu bà di thuộc hàng đệ tử tại gia; năm
nhóm sau là Sa di, Sa di ni, Thức xoa ma na, Tỷ kheo và Tỷ kheo
ni thuộc hàng đệ tử xuất gia. Trong bài này, chúng tôi sẽ tuần
tự trình bày những giới pháp mà mỗi chúng đệ tử phải lãnh thọ,
hành trì trên lộ trình tiến đến giải thoát.
-
B- Nội dung
-
I. Tam quy Ngũ giới
- Hai thành
phần cư sĩ tại gia là Ưu bà tắc và Ưu bà di. Ưu bà tắc (Upàsaka)
được dịch ý là Cận sự nam, nghĩa là người nam cư sĩ thân cận
chùa chiền, phụng sự Tam bảo; ngoài ra còn gọi là Thanh tín sĩ,
nghĩa là trang nam tử có niềm tin Tam bảo trong sáng. Hạng thứ
hai là Ưu bà di (Upàsikà), được dịch ý là Cận sự nữ, Thanh tín
nữ, nghĩa là người nữ đã thọ ba quy y, giữ gìn năm giới, thực
hành thiện pháp, thân cận phụng sự Tam bảo
- Theo lịch sử
Phật giáo thì hai thương gia Ðề Vị (Trapusa) và Ba Lợi
(Bhallika) là hai đệ tử Ưu bà tắc đầu tiên của Phật, người mẹ và
vợ trước khi xuất gia của tôn giả Da Xá (Yasa) là hai đệ tử Ưu
bà di đầu tiên trong hàng nữ Phật tử tại gia.
- Giới pháp căn
bản mà hai hạng người này thọ trì là năm giới. Nhưng trước khi
thọ năm giới, điều kiện tiên quyết cho tất cả mọi tầng lớp người
có niềm tin hướng về Phật giáo là thọ ba pháp quy y.
- Nội dung ba
pháp quy y
- * Trở về
nương tựa Phật, người dẫn đường chỉ lối cho con trong cuộc đời.
- * Trở về
nương tựa Pháp, con đường của tình thương và sự hiểu biết.
- * Trở về
nương tựa Tăng, đoàn thể của những người nguyện sống cuộc đời
tỉnh thức (1).
- Phật, Pháp và
Tăng có mặt trong mười phương thế giới mà cũng có mặt trong mọi
người và mọi loài. Trở về nương tựa Phật nơi Phật, Pháp và Tăng
cũng có nghĩa là tin tưởng ở khả năng giác ngộ nơi tự tánh mình,
ở khả năng khai mở và phát triển của tình thương và trí tuệ nơi
bản thân cũng như những người đồng đạo.
- Năm giới là
những nguyên tắc hướng dẫn chúng ta về hướng an lạc, giải thoát
và giác ngộ. Ðó cũng là những nguyên tắc để xây dựng nền tảng
cho hạnh phúc cá nhân, hạnh phúc gia đình và xã hội. Học hỏi và
thực hành 5 giới, ta sẽ đi đúng con đường chánh pháp, sẽ tránh
được lỗi lầm, khổ đau, sợ hãi và thất vọng. Ta sẽ xây dựng được
an lạc, hạnh phúc cho ta, cho gia đình ta và góp phần vào sự an
ổn cho toàn xã hội.
- Giới tướng
của 5 giới
- * Giới thứ
nhất: Không được sát sinh
- Ý thức được
những khổ đau do sự sát hại gây ra, người Phật tử phải học theo
hạnh đại bi để bảo vệ sự sống của mọi người và mọi loài. Người
Phật tử không giết hại sinh mạng, không tán thành sự giết chóc
và không để kẻ khác giết hại mọi loài có mạng sống.
- * Giới thứ
hai: Không được trộm cắp
- Ý thức được
những khổ đau do lường gạt, trộm cắp và bất công xã hội gây ra,
người Phật tử theo học hạnh đại từ để đem niềm vui đến cho mọi
người và mọi loài, chia sẻ thì giờ, năng lực và tài lực của mình
cho những kẻ đang thật sự thiếu thốn. Người Phật tử nguyện không
lấy bất cứ một thứ của cải nào không được người khác vui lòng
đem cho. Ðồng thời nguyện tôn trọng quyền tư hữu của kẻ khác,
tích cực ngăn ngừa những kẻ tích trữ và làm giàu một cách bất
lương trên sự đau khổ của cá nhân và tập thể.
- * Giới thứ
ba: Không được tà dâm
- Ý thức được
những đau khổ do thói tà dâm gây ra, người Phật tử học theo tinh
thần trách nhiệm, giúp bảo vệ tiết hạnh và sự an toàn của mọi
người và mọi gia đình trong xã hội. Ý thức được những hành động
bất chính sẽ gây ra khổ đau cho kẻ khác và cho chính mình, người
Phật tử nguyện không ngoại tình mà sống chung thủy với người bạn
đời có hôn phối hợp pháp.
- * Giới thứ
tư: Không được nói dối
- Ý thức được
những khổ đau do lời nói hư vọng gây ra, người Phật tử học theo
hạnh ái ngữ và biết lắng nghe để dâng tặng niềm vui cho người và
làm vơi bớt khổ đau của người. Biết rằng lời nói có thể đem lại
hạnh phúc hoặc đau khổ cho người khác, người Phật tử chỉ nên nói
những lời có thể gây thêm niềm tự tin, an vui và hy vọng, những
lời chân thật có giá trị xây dựng sự hiểu biết và hòa giải.
Người Phật tử nguyện không nói những lời sai với sự thật, không
nói những lời gây chia rẽ và căm thù. Nguyện không lan truyền
những tin tức thất thiệt, không phê bình và lên án những điều mà
mình không biết chắc. Nguyện không nói những điều có thể tạo nên
sự bất hòa trong gia đình và đoàn thể.
- * Giới thứ
năm: Không được uống rượu
- Ý thức được
những khổ đau do sự sử dụng ma túy và độc tố gây ra, người Phật
tử học cách chuyển hóa thân tâm, bồi dưỡng sức khỏe thân thể và
tâm hồn bằng cách thực tập chánh niệm trong việc ăn uống và tiêu
thụ. Người Phật tử chỉ nguyện tiêu thụ những gì có thể đem lại
an lạc cho thân tâm minh, cho gia đình và cho xã hội. Nguyện
không uống rượu, không sử dụng các chất ma túy, không ăn uống
hoặc tiêu thụ những sản phẩm có độc tố (trong đó có một số sản
phẩm truyền thanh, truyền hình, sách báo và phim ảnh). Những ai
tàn hại thân tâm bằng rượu và các độc tố là phản bội tổ tiên,
cha mẹ và cũng là phản bội các thế hệ tương lai. Người Phật tử
nguyện chuyển hóa bạo động, căm thù, sợ hãi và buồn giận bằng
cách thực tập phép kiêng cữ cho bản thân, cho gia đình và cho xã
hội (2).
-
II. Bát quan trai giới
- Ðây là loại
giới pháp Phật chế định cho đệ tử tại gia học tập xuất gia tạm
thời. Những giới tử này rời bỏ gia đình đến ở chùa để tập sự nếp
sống của người xuất gia trong vòng một ngày đêm. Bát nghĩa là
tám, Quan nghĩa là đóng cửa (của 6 căn) lại, Trai nghĩa là chay
lạt., Giới nghĩa là những điều răn nhằm ngăn ngừa những sai
phạm. Người giữ 8 giới này có thể phòng hộ các ác hạnh của ba
nghiệp thân, khẩu, ý, lại có thể đóng cửa con đường ác, nên gọi
là Bát quan trai giới. Trong 8 giới này, 7 điều đầu gọi là giới,
một điều sau "không ăn phi thời" gọi là trai, họp chung lại
thành ra 8 trai giới. Phật chế định những giới này để Phật tử,
không phân biệt nam nữ, thọ trì vào 6 ngày trai của mỗi tháng,
tức ngày mùng 8, 14, 15, 23, 29, 30 (theo âm lịch, nếu tháng
thiếu thì đổi hai ngày cuối cùng thành ra 28 và 29). Vì người
thọ giới này phải rời bỏ gia đình đến chùa sống gần với chư Tăng
trong một ngày đêm nên gọi là Cận trụ nam, Cận trụ nữ.
- Nội dung của
8 giới pháp
- * Giới thứ
nhất: Không được sát sinh
- * Giới thứ
hai: Không được trộm cắp
- * Giới thứ
ba: Không được hành dâm
- * Giới thứ
tư: Không được nói dối
- * Giới thứ
năm: Không được uống rượu
- * Giới thứ
sáu: Không được trang sức bằng vòng hoa, không được ca hát,
nhảy múa và cố ý đi xem nghe
- * Giới thứ
bảy: Không được ngồi nằm giường ghế cao sang lộng lẫy
- * Giới thứ
tám: Không được ăn phi thời.
- Trong 5 giới
đầu ở đây tương tự như ngũ giới ở trước, chỉ khác là trong giới
thứ ba, giới tử tuyệt đối không được hành dâm - giống như nếp
sống phạm hạnh của người xuất gia - còn giới thứ ba trong ngũ
giới thì người cư sĩ được phép ân ái với người hôn phối chính
thức, chỉ trừ việc ngoại tình mà thôi. Ngoài ra, luận Thành
Thật và luận Trí Ðộ thì tách giới thứ 6 ra làm hai,
như vậy thành ra 8 điều, rồi ghép điều cuối cùng "Không ăn phi
thời", gọi là 8 trai giới.
-
III. Thập thiện giới
- Các nam nữ
Phật tử sau khi thọ Tam quy, Ngũ giới, thấy đạt được nhiều tiến
bộ trong sự tu học, muốn tiến xa hơn nữa trên bước đường đi đến
giải thoát, có thể thọ trì 10 thiện giới. Mười thiện giới bao
gồm trong 3 tụ tịnh giới sau đây:
- 1- Nhiếp luật
nghi giới: Người con Phật phải nguyện từ bỏ mọi điều ác.
- 2- Nhiếp
thiện pháp giới: Người con Phật vâng làm các việc lành.
- 3- Nhiêu ích
hữu tình giới: Người con Phật phải đem lại lợi ích cho tất cả
chúng sinh.
- Nội dung của
mười thiện giới
- 1. Noi gương
chư Phật và Bồ tát, vĩnh viễn không giết hại chúng sanh mà còn
đem sự sống đến cho muôn loài.
- 2. Noi gương
chư Phật và Bồ tát, vĩnh viễn không trộm cắp mà còn đem tài sản
của mình bố thí cho kẻ khác.
- 3. Noi gương
chư Phật và Bồ tát, vĩnh viễn không tà dâm, tôn trọng tiết hạnh
và sự chung thủy của mọi người.
- 4. Noi gương
chư Phật và Bồ tát, vĩnh viễn không nói dối, luôn luôn nói đúng
sự thật.
- 5. Noi gương
chư Phật và Bồ tát, vĩnh viễn không nói lưỡi hai chiều, chỉ nói
những lời đưa đến hòa hợp, đoàn kết.
- 6. Noi gương
chư Phật và Bồ tát, vĩnh viễn không nói thêu dệt, mà nói những
lời chính xác, có thật.
- 7. Noi gương
chư Phật và Bồ tát, vĩnh viễn không nói thô lỗ mà luôn luôn nói
những lời nhã nhặn, từ ái.
- 8. Noi gương
chư Phật và Bồ tát, vĩnh viễn không tham lam keo kiệt mà thực
hành hạnh bố thí.
- 9. Noi gương
chư Phật và Bồ tát, vĩnh viễn không sân hận mà thực hành hạnh từ
bi.
- 10. Noi gương
chư Phật và Bồ tát, vĩnh viễn không tà kiến, cố chấp mà tu hành
chánh kiến (3).
- Trong mười
giới này, 3 giới đầu (1-3) thuộc về thân nghiệp; 4 giới giữa
(4-7) thuộc về khẩu nghiệp; 3 giới cuối cùng (8-10) thuộc về ý
nghiệp.
-
IV. Giới pháp của Sa di và Sa di ni
- Sa di là
tiếng dịch âm của Pàli Sàmanera, và được dịch ý là Cầu tịch, Cần
sách hay Tức từ. Nghĩa là ưa sự vắng lặng, siêng năng tu học,
dứt bỏ việc ác, thực hành từ bi. Ðây là những người nam xuất gia
từ 7 tuổi đến 70 tuổi, đã thọ mười giới mà chưa thọ giới Cụ túc.
Nếu người nữ xuất gia thì gọi là Sa di ni (Sàmaneri) được dịch ý
là Cần sách nữ, Tức từ nữ. Hai chúng này cùng chung một giới
pháp. Phật quy định tuổi xuất gia nhỏ nhất là 7 tuổi, lớn nhất
là 70 tuổi. Người 70 tuổi mà còn tráng kiện, có thể tu học tiến
bộ thì cho xuất gia, nhưng nếu già yếu lụm cụm thì không cho
xuất gia.
- Luật Ma Ha
Tăng Kỳ, quyển 29, căn cứ theo tuổi tác, chia Sa di thành 3
hạng:
- 1. Khu ô Sa
di (Sa di lo phận sự đuổi quạ) từ 7 tuổi đến 13 tuổi.
- 2- Ðáng pháp
Sa di (Sa di đúng pháp) từ 14 tuổi đến 19 tuổi.
- 3. Danh tự Sa
di (Sa di trên danh nghĩa) từ 20 tuổi trở lên.
- Những người
đã thọ 10 giới thì gọi là Pháp đồng Sa di, nghĩa là Sa di đã đủ
giới pháp; còn những người mới xuất gia đã cạo đầu mà chưa thọ
giới thì gọi là Hình đồng Sa di, nghĩa là hình thức giống với Sa
di.
- Vị Sa di đầu
tiên trong hàng ngũ đệ tử xuất gia của Phật là La Hầu La
(Rahula). Phật đã bảo Trưởng lão Xá Lợi Phất (Sàriputta) làm
Ðường đầu Hòa thượng truyền giới cho tôn giả La Hầu La.
- Mười giới
pháp của Sa di
- Về phương
diện giới pháp thì hai chúng Sa di và Sa di ni cũng tuân thủ
mười giới căn bản như nhau, chỉ khác đôi chút về vấn đề oai
nghi, nhưng không đáng kể. Mười giới pháp được kể như sau:
- 1. Không được sát sinh
2. Không được trộm cắp
3. Không được dâm dục
4. Không được nói dối
5. Không được uống rượu
6. Không được mang vòng hoa thơm, không được dùng hương thơm xoa
mình
7. Không được ca, vũ, hòa tấu, biểu diễn hay đi xem nghe
8. Không được ngồi nằm giường ghế cao đẹp lộng lẫy
9. Không được ăn phi thời (ăn sau giờ ngọ)
10. Không được giữ vàng bạc, bảo vật (4).
- Ngoài 10 giới
đã kể trên, hai chúng này còn phải tuân thủ một số quy tắc theo
nếp sinh hoạt hàng ngày của thiền gia, tức là "Tỳ ni nhật dụng"
gồm chừng 45 điều; đồng thời phải giữ tác phong đạo hạnh gồm
khoảng 24 điều, gọi là 24 oai nghi.
- Hiện nay, ở
nước ta gồm có Phật giáo Bắc truyền, Phật giáo Nguyên thủy (hay
Nam tông) và hệ phái Khất sĩ. Nhưng về giới pháp của Sa di thì
trên căn bản gần như đồng nhất. Chỗ khác nhau là Phật giáo Nam
tông không có Sa di ni (có lẽ do thất truyền) mà chỉ có tịnh
nhân nữ (tu nữ). Nghĩa là người nữ mặc áo hoại sắc, sống ở tự
viện, theo nếp sống của người xuất gia.
-
V. Giới pháp của Thức xoa ma ni
- Thức xoa ma
ni hay Thức xoa ma na là từ dịch âm chữ Phạn Siksamànà, hay chữ
Pàli Sikkhamànà, được dịch ý là Học giới nữ (người nữ học giới),
Chánh học nữ (người nữ đang học những pháp cơ bản). Người nữ
xuất gia, trước khi thọ giới Cụ túc làm Tỷ kheo ni, phải trải
qua 2 năm học tập những học pháp căn bản của Tỷ kheo ni. Ở đây
có hai trường hợp: Nếu là đồng nữ xuất gia thì khi được 18 tuổi,
cho thọ học Thức xoa ma ni 2 năm, lúc đủ 20 tuổi sẽ cho thọ giới
Cụ túc. Nếu người nữ đã có chồng lúc 10 tuổi (ở Êẽn Ðộ ngày xưa
có việc tảo hôn), mà xuất gia, cũng cho 2 năm học giới làm Thức
xoa ma ni, sau 2 năm học giới xong, mới cho thọ Cụ túc. Trong 2
năm này, một là để học hết những giới pháp căn bản, tôi luyện
tính tình, tập quen nếp sống xuất gia, khiến cho tâm ý được kiên
cố; hai là để tránh tình trạng đã có thai ở nhà mà không biết,
đến khi thọ giới Cụ túc rồi mới phát hiện [theo luật Thập
Tụng]. (Vấn đề này rất phức tạp, ai muốn hiểu thêm xin xem
bài "Thập tuế tằng giá là thế nào?" đăng trên nguyệt san Giác
Ngộ số 27, tháng 6-1998).
- Sáu giới căn bản
- 1. Không được sát sinh
2. Không được trộm cắp
3. Không được dâm dục
4. Không được nói dối
5. Không được uống rượu
6. Không được ăn phi thời.
- Ngoài 6 giới
kể trên, Thức xoa ma ni còn phải học 18 tùy pháp (những pháp
phụ), như trong Ni luật đã đề cập, hoặc rộng rãi hơn là học tập
292 pháp (xem Thức xoa ma ni giới, HT Trí Quang dịch, bản
ấn hành năm 1994).
-
VI. Giới pháp của Tỷ kheo
- Trong 7 chúng
đệ tử của Phật thì Tỷ kheo được xem là trưởng tử của Như Lai,
chiếm một địa vị tôn quý nhất trong hàng ngũ đệ tử, cả tại gia
lẫn xuất gia. Tiếng Pàli Bhikkhu được phiên âm là Tỷ kheo, tiếng
Sanskrit Bhiksu được phiên âm là Bí-sô. Hai chữ Bhikkhu và
Bhiksu cùng một nghĩa và được dịch ý là Khất sĩ, Bố ma, Phá ác.
- - Khất sĩ: Ði
khất thực để tự nuôi sống mình một cách thanh tịnh, nên gọi là
Khất sĩ.
- Bố ma: Tỷ kheo có thể tu đạo khiến cho ác ma kinh hồn, nên gọi
là Bố ma.
- Phá ác: Tỷ kheo tu giới, định, tuệ, có thể phá trừ hai thức ác
là Kiến hoặc và Tư hoặc, nên gọi là Phá ác.
- Ðây là những
người nam xuất gia đã thọ Ðại giới hay giới Cụ túc. Tiếng Phạn
Upasampadà. Hán dịch là Cụ túc hay Cận viên. Cụ túc nghĩa là
thành tựu đầy đủ; Cận viên nghĩa là đến gần Niết bàn viên mãn.
Luật quy định số tuổi tối thiểu để thọ giới Cụ túc là 20 tuổi.
Một giới tử muốn thọ giới Cụ túc phải là người đầy đủ 6 căn
(mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý), đây là điều kiện chung, chủ
yếu, từ xưa đến nay các bộ phái đều nhất trí chấp hành. Những
điều kiện này bao gồm cụ thể trong 13 già nạn và 15 khinh nạn
hay chướng pháp (xem Giới đàn Tăng, HT Thiện Hòa).
- Theo giáo sử
thì 5 anh em tôn giả Kiều Trần Như (Kondanna, Bhaddiya, Vappa,
Mahànàma và Assaji) là những đệ tử đầu tiên trong hàng ngũ đệ tử
Tỷ kheo của Phật.
- Luật Thập Tụng chia Tỷ kheo
làm 4 hạng:
- 1. Danh tự Tỷ kheo: Tỷ kheo hữu
danh mà vô thực
2. Tự ngôn Tỷ kheo: Người tự xưng mình là Tỷ kheo
3. Vi khất Tỷ kheo: Tỷ kheo đi khất thực để nuôi sống
4. Phá phiền não Tỷ kheo: Tỷ kheo chuyên phá trừ các phiền não.
- Giới pháp của Tỷ Kheo (Theo
Luật Tứ phần gồm 250 giới)
- 1. Ba-la-di, gồm có 4 giới
2. Tăng-già-bà-thị-sa, gồm có 13 giới
3. Bất định, gồm có 2 giới
4. Ni-tát-kỳ-ba-dạ-đề, gồm có 30 giới
5. Ba-dạ-đề, gồm có 90 giới
6. Ba-la-đề-đề-xá-ni, gồm có 4 giới
7. Chúng học pháp, gồm có 100 giới
8. Diệt tránh, gồm có 7 giới
- Giải thích các thuật ngữ:
- 1. Ba-la-di
(Pàràjika) được dịch ý là Khí hay Ðoạn đầu. Khí nghĩa là
người phạm tội này coi như bị bỏ ra ngoài Phật pháp. Ðoạn đầu
nghĩa là giống như người đã bị chặt đầu, không thể dùng thuốc để
cứu chữa được nữa.
- 2.
Tăng-già-bà-thị-sa (Sangha-disesa) nghĩa là Tăng tàn, tức
là người bị trọng thương đối với tịnh pháp của Tăng đoàn; tuy bị
trọng thương nhưng còn có thể dùng phương pháp sám hối để cứu
chữa được.
- 3. Bất định
(Aniyata), loại này không phải phạm một tội danh nào nhất
định, mà có thể phạm Ba-la-di, Tăng tàn hoặc Ba-dật-đề, nên gọi
là Bất định.
- 4.
Ni-tát-kì-ba-dật-đề (Nissaggiya-pàcittiya): Ni-tát-kì
nghĩa là xả bỏ tất cả; Ba-dật-đề nghĩa là đọa. Hợp cả hai gọi là
Xả đọa. Người phạm tội này là do cất giữ những vật vượt ra ngoài
quy định. Vì thế, trước hết phải đem vật ấy ra thí xả giữa chúng
Tăng, rồi sám hối tội đọa.
- 5. Ba-dạ-đề
(Pacittiya) nghĩa là tội bị đọa lạc. Người phạm tội này
không có vật phải xả bỏ nên gọi là Ðơn đọa, cần phải sám hối với
3 thầy Tỷ kheo thanh tịnh để diệt tội.
- 6.
Ba-la-đề-đề-xá-ni (Patidesaniya) được dịch nghĩa là Hướng
bỉ hối. Người phạm tội này phải sám hối với một thầy Tỷ kheo để
trừ tội.
- 7. Chúng học
pháp: Tiếng Pàli "Sekkhiyavatta" được phiên âm là
Thức-xoa-ca-la-ni, dịch ý là Chúng học pháp hay Ưng đương học,
nghĩa là những pháp cần phải học. Loại này thuộc về oai nghi.
- 8. Diệt
tránh: Tiếng Pàli Adhikarana-samattha được dịch ý là Diệt tránh,
nghĩa là dập tắt sự tranh chấp. Pháp này gồm có 7 yếu tố. Một
khi trong Tăng đoàn xảy ra sự xung đột, tranh chấp, thì dùng một
hoặc nhiều yếu tố này để giải quyết, dập tắt sự xung đột ấy.
- (Về nội dung chi tiết, xin xem
Luật Tỳ kheo, tập II, Tứ phần Hiệp chú, HT Thích
Trí Thủ, bản ấn hành năm 1991).
- Các giới trên
không phải được chế định một lần mà tùy phạm tùy chế, nghĩa là
phạm đến đâu, Phật chế giới đến đó. Sau khi chế định xong, được
đem ra phân loại thành 8 cột, rồi sắp xếp từ nặng đến nhẹ. Cột
thứ 8 "Diệt tránh" tuy gọi là giới, nhưng tính chất của nó là do
kết hợp giữa giới và luật mà thành.
-
VII. Giới pháp của Tỷ kheo ni
- Tỷ kheo ni
(Bhikkunì) hay Bí-sô-ni (Bhiksunì) là những người nữ xuất gia đã
thọ giới Cụ túc; về ý nghĩa thì như ở phần Tỷ kheo đã giải
thích. Ngoài ra còn là Khất sĩ nữ (những người nữ sống bằng sự
khất thực) hay nói gọn là Ni. Về tuổi tối thiểu để thọ giới thì
trên nguyên tắc là 20 tuổi, nhưng có trường hợp châm chước như ở
phần Thức xoa ma ni đã nói.
- Vị Tỷ kheo ni
đầu tiên trong hàng ngũ Ni chúng là bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề
(Mahàpajàpati), di mẫu của Phật, được Phật cho phép xuất gia thọ
giới Cụ túc. Tiếp theo sau bà là 500 người nữ dòng họ Thích cũng
được Phật độ cho xuất gia, thành lập Ni chúng.
- Ðể đảm bảo
tính chất tôn nghiêm của giáo pháp và sự thanh tịnh của Tăng
đoàn, người nữ muốn xuất gia thọ giới, trước hết phải tuân thủ 8
kính pháp mà Phật quy định (5).
- Giới của Tỷ
Kheo Ni (Theo Luật Tứ phần gồm 348 giới)
- 1. Ba-la-di 8 giới
2. Tăng tàn 17 giới
3. Xả đọa 30 giới
4. Ðơn đọa 178 giới
5. Hối quá 8 giới
6. Chúng học100 giới
7. Diệt tránh 7 giới
- Trên đây,
giới bản của Tỷ kheo ni chỉ có 7 cột, không có cột "Bất định"
như giới của Tỷ kheo; đồng thời trong mỗi cột, số giới hoặc
bằng, hoặc nhiều hơn giới của Tỷ kheo, và nội dung mỗi giới cũng
có sai khác ít nhiều.
- Hiện nay, có
hai loại giới bản được lưu truyền phổ biến là giới bản của Luật
Tứ phần và giới bản của Luật Pàli. Ở nước ta, người xuất gia
theo hệ thống Bắc tông cũng như hệ phái Khất sĩ thì áp dụng giới
bản của Tứ phần, còn người xuất gia theo Nam tông thì áp dụng
theo giới bản của Luật Pàli. Về số lượng và nội dung của giới
bản giữa hai bộ luật sai khác nhau không nhiều lắm. Ta có thể so
sánh:
- - Luật Tứ phần: Tỷ kheo 250 giới;
Tỷ kheo ni 348 giới
- Luật Pàli: Tỷ kheo 227 giới; Tỷ kheo ni 311 giới
- (Về nội dung
chi tiết, xin xem Tỷ kheo giới, HT Trí Quang, bản ấn hành
năm 1994; Tỷ kheo ni giới cũng như trên).
-
VIII. Giới pháp của Bồ tát
- Những bản
kinh liên quan đến giới bản của Bồ tát gồm có:
- 1. Bồ tát Anh Lạc bản nghiệp kinh
2. Phạm Võng kinh Bồ tát giới bản
3.Du già Sư địa luận Bồ tát giới bản
4. Bồ tát Ðịa trì kinh
5. Bồ tát Thiện giới kinh
6. Ưu bà tắc giới kinh.
- Trong các
kinh nêu trên thì hai kinh Anh Lạc, Phạm Võng có nguồn
gốc từ hệ thống kinh Hoa Nghiêm và được các học giả suy
định là do người Trung Quốc biên soạn. Ba kinh Du già, Ðịa
trì và Thiện giới bắt nguồn từ luận Du già Sư địa,
cùng chung một nguyên bản, nhưng các bản dịch có tên khác nhau.
Tại Trung Quốc, Việt Nam thì giới bản Phạm Võng tỏ ra
thịnh hành nhất, nhưng ở Tây Tạng thì chỉ dùng giới bản Du
giaâ.
- Giới Bồ tát
được gọi là Ðạo tục thông hành giới, nghĩa là người xuất gia và
tại gia đều thọ trì như nhau. Không những thế mà các loài chúng
sanh từ cõi trời Sắc giới trở xuống, hễ ai hiểu được lời nói của
pháp sư đều có thể thọ giới, chỉ trừ những kẻ phạm 7 tội nghịch
(giết cha, giết mẹ, giết A la hán, phá sự hòa hợp của Tăng, làm
cho thân Phật ra máu, giết Hòa thượng Bổn sư và giết thầy dạy
phép tắc). Hơn nữa, giới này có thể thọ toàn phần hay từng phần,
tùy theo khả năng. Ai đã thọ lãnh giới này rồi thì vĩnh viễn
không mất giới, dù tái sinh ở bất cứ nơi đâu, chỉ trừ phạm 7 tội
nghịch, phạm thượng phẩm trọng giới và bỏ mất tâm Bồ đề.
- Giới này lấy
tinh thần Tam tụ tịnh giới (xem lời giải thích ở Thập thiện
giới) làm nền tảng. Sau đây, xin giới thiệu 10 giới trọng và 48
giới khinh thuộc giới bản Phạm Võng vốn phổ biến trong đời sống
tu tập của người Phật tử Việt Nam:
- 10 giới trọng
- 1. Không được sát sinh
2. Không được trộm cướp
3. Không được dâm dục
4. Không được vọng ngữ
5. Không được mua bán rượu
6. Không được nói xấu người đồng đạo
7. Không được khen mình, chê người
8. Không được tiếc lẫn tài và pháp
9. Không được ấp ủ sự giận hờn
10. Không được phỉ báng Tam bảo.
- 48 giới khinh
- 1. Không được bất kính với thầy,
bạn
2. Không được uống các thứ rượu
3. Không được ăn các loại thịt
4. Không được ăn những thức ăn cay nồng
5. Không được không khuyên bảo người sám hối
6. Không được không siêng cầu chánh pháp
7. Không được không đi nghe pháp
8. Không được phản bội giới pháp Ðại thừa
9. Không được không giúp đỡ người bệnh
10. Không được tàng trữ dụng cụ sát sinh
- 11. Không được làm kẻ chủ mưu gây
chiến
12. Không được buôn bán một cách tàn nhẫn
13. Không được vô cớ phỉ báng người khác
14. Không được thiêu đốt bừa bãi
15. Không được chỉ dạy sai lệch
16. Không được nói pháp rối loạn
17. Không được dựa thế lực để cầu lợi
18. Không được làm thầy mà mù quáng
19. Không được hủy báng người có giới đức
20. Không được không phóng sinh và làm phước
- 21. Không được giận dữ báo thù
22. Không được kiêu căng, không học
23. Không được thọ giới trái quy định
24. Không được học các sách khác
25. Không được lạm dụng gây rối
26. Không được không đãi khách Tăng chu đáo
27. Không được lấy của chúng Tăng làm của riêng
28. Không được mời riêng chư Tăng
29. Không được sống bằng tà mạng
30. Không được làm những việc điên đảo
- 31. Không được không cứu chuộc
đồng đạo và kinh tượng
32. Không được làm tổn hại chúng sinh
33. Không được tà tâm làm quấy
34. Không được rời bỏ tâm Bồ đề
35. Không được không phát đại nguyện
36. Không được không phát đại thệ
37. Không được không hành Ðầu đà và bố tát hàng tháng
38. Không được ngồi lộn xộn mất trật tự
39. Không được không làm việc lợi ích
40. Không được lựa chọn người để truyền giới
- 41. Không được vì tham lợi mà làm
thầy
42. Không được nói giới cho kẻ ác
43. Không được cố ý phạm giới
44. Không được không tôn trọng kinh luật
45. Không được không giáo hóa người và vật
46. Không được thuyết pháp trái với thể thức
47. Không được tìm cách khống chế Phật giáo
48. Không được phá hoại đạo pháp.
- (Bản tóm tắt này dựa vào Bồ tát
Phạm Võng của HT Trí Quang, bản ấn hành năm 1994).
-
-
C- Kết luận
- Qua những trình bày trên đây,
chúng tôi đã giới thiệu khái quát về những điểm cơ bản trong
giới pháp của 7 chúng đệ tử Ðức Phật. Những giới pháp này do
Phật chế định cách nay đã 25 thế kỷ, thời gian và không gian có
nhiều thay đổi, nhất là ngày nay nhân loại đã văn minh hơn xưa,
khoa học đạt được những tiến bộ vượt bậc, thế nhưng, giới pháp
của Phật vẫn còn mang đầy đủ tính chất hiện đại và vô cùng thiết
thực. Bởi lẽ, mục đích của giới pháp đặt trên nền tảng đạo đức
nhân bản, nhằm hoàn thiện phẩm giá con người, đem lại an lạc cho
cá nhân, hạnh phúc cho gia đình, ổn định cho xã hội và thanh
bình cho toàn thể nhân loại. Vì vậy, bao lâu cuộc đời còn đau
khổ, con người còn khiếm khuyết, thì giới pháp của Phật vẫn còn
tồn tại như những nguyên tắc tối ưu để giải phóng con người
thoát khỏi mọi khổ đau và lầm lỗi./,
-
* Chú thích:
- (1), (2):
Thiền sư N.H, Nghi thức tụng niệm, Lá Bối, 1994, tr.182,
189
- (3) HT Thích
Thiện Hòa, Giới đàn Tăng, tái bản 1999, tr.280, 284
- (4) Sa di
giới và Sa di ni giới, tập I, HT Trí Quang, xb 1994, tr.5
- (5) Nội dung
tám kính pháp gồm có:
- 1. Tỷ kheo ni
dù 100 tuổi hạ mà khi thấy vị Tỷ kheo mới thọ giới cũng phải
đứng dậy chào hỏi, mời ngồi
- 2. Tỷ kheo ni
không được trách mắng Tỷ kheo
- 3. Tỷ kheo ni
khôngđược nêu tội Tỷ kheo
- 4. Thức xoa
ma ni sau 2 năm học giới hoàn tất phải đến Tỷ kheo thỉnh cầu thọ
Ðại giới (giới Cụ túc)
- 5. Nếu Tỷ
kheo ni phạm tội Tăng tàn thì phải đến trước 2 bộ Tăng, Ni làm
phép ý hỉ (làm cho mọi người hoan hỷ) trong vòng nửa tháng
- 6. Tỷ kheo ni
phải đến Tỷ kheo thỉnh cầu thầy Giáo thọ vào những dịp bố tát
của mỗi nửa tháng
- 7. Tỷ kheo ni
không được kiết hạ an cư tại những nơi không có Tỷ kheo
- 8. Tỷ kheo ni
an cư xong phải đến Tỷ kheo cầu tự tứ (vui lòng chỉ bảo) về ba
phương diện: thấy, nghe và nghi trong những tình huống phạm tội.
--o0o--
|
|