-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Phật Học Cơ Bản
-
Tập Ba
- Ban Hoằng Pháp
Trung Ương
GHPGVN
-
Chương Trình Phật Học Hàm Thụ (1998-2002)
Nguyệt San Giác Ngộ
- --- o0o ---
- Phần
II - Bài 7
- Giới thiệu
về Kinh Hoa Nghiêm
- HT Thích Trí
Quảng
-
I. Lịch sử kinh Hoa Nghiêm
- 1-
Khái niệm về lịch sử kinh Hoa Nghiêm
- Về mặt học
thuật, chúng ta học lịch sử phần lớn căn cứ vào dữ liệu mà người
trước đã ghi lại để đánh giá. Nhưng đứng ở lãnh vực tôn giáo để
quan sát, chúng ta lại có nhận thức về lịch sử khác hơn là những
điều được các nhà học thuật ghi nhận.
- Từ hiểu biết
theo học thuật thông thường, tiến lên một bước nữa để hiểu lịch
sử Ðại thừa Phật giáo theo tinh thần của người tu có niềm tin,
có trí tuệ. Và bước sang lịch sử kinh Hoa Nghiêm, chúng
ta phải phát Bồ đề tâm. Có thể nói, chúng ta học Ðại thừa bằng
Bồ đề tâm của chính mình, không học bằng vọng thức, nghĩa là
tiếp nhận tinh ba của giáo nghĩa bằng tâm hồn thanh tịnh, không
phải chỉ dừng lại ở phân tích, học hiểu theo văn tự, ngữ ngôn.
- Kinh Hoa
Nghiêm có ba bộ: Bộ thứ nhất gọi là Ðại Hoa Nghiêm do
Pháp thân Tỳ Lô Giá Na chuyển. Bộ thứ hai là Trung Hoa Nghiêm
do Báo thân Lô Xá Na chuyển và bộ thứ ba do ng thân Thích Ca Mâu
Ni Phật thuyết.
- Như vậy, kinh
Hoa Nghiêm có cái nhìn về Ðức Phật khác hơn các hệ tư
tưởng khác và đương nhiên cũng khác với lịch sử thông thường mà
chúng ta học.
- Cả ba bộ kinh
này đều ở cung rồng Ta Kiệt La. Nhưng hai bộ đại kinh và trung
kinh quá đồ sộ, không thể mang về, nên ngài Long Thọ Bồ tát chỉ
thỉnh được bộ Tiểu Hoa Nghiêm gồm có 100.000 bài kệ. Và
mang về nhân gian, Ngài lọc lại, chỉ còn một nửa là 45.000 bài
kệ.
- Bộ Tiểu
Hoa Nghiêm mà ngài Long Thọ đem về, rồi truyền sang Trung
Hoa, được dịch ra tiếng Trung Hoa, còn lại ngày nay hai bộ. Bộ
Hoa Nghiêm 60 quyển do ngài Giác Hiền dịch đời Tấn và bộ
80 quyển dịch ở đời Ðường, dưới sự bảo trợ của Tắc Thiên hoàng
đế, quen gọi là Võ hậu.
- Bộ kinh
Hoa Nghiêm mà chúng ta tu học chủ yếu nương theo bộ kinh đời
Ðường. Kinh Hoa Nghiêm do Báo thân viên mãn Lô Xá Na và
kinh do Pháp thân Tỳ Lô Giá Na Phật chuyển thì chúng ta không
thấy được Báo thân và Pháp thân Phật, nên không thể nghe, không
thể đọc và không hiểu được.
- Ðiều này gợi
cho chúng ta ý thức rằng khi học Phật pháp, nhất là học Ðại
thừa, đòi hỏi quá trình thiết thân thể nghiệm pháp trong cuộc
sống.
- Hiểu kinh
Hoa Nghiêm là từ văn tự đi vào tư duy, vào thiền định, phát
sinh được trí tuệ và dùng trí tuệ quán sát mọi sự, mọi vật. Nói
cách khác, kinh Hoa Nghiêm dẫn chúng ta vào pháp giới hay
nhìn thế giới chân thật. Và biết được việc ở dạng chân thật, thì
ta không còn lỗi lầm trên sinh hoạt hiện tượng của cuộc đời.
Kinh Hoa Nghiêm muốn dạy ta cốt lõi ấy.
- Theo phán
giáo của ngài Trí Giả, Ðức Phật nói kinh Hoa Nghiêm 21
ngày. Chỉ có 21 ngày ngắn ngủi, làm sao Phật nói được vô lượng
bài kệ gọi là vi trần? Trong khi các bộ kinh khác, Ðức Phật nói
trong thời gian dài hơn mà lại không nhiều.
- Phật nói
Hoa Nghiêm 21 ngày trong thiền định. 21 ngày của cuộc sống
vật chất theo đời thường tất nhiên quá ngắn ngủi. Nhưng 21 ngày
tư duy thiền định thiết nghĩ thật lớn lao không thể tính được.
Ai không hành đạo, không công phu tu tập không thể nào biết được
điều này.
- Một niệm tâm
trong thiền định, Bồ tát cứu độ được vô số chúng sanh. Ngài
Thiên Thai chứng được 3.000 pháp biến dịch trong một niệm tâm.
Và 3.000 pháp này tác động lẫn nhau, tạo thành trùng trùng duyên
khởi theo Hoa Nghiêm.
- 21 ngày Phật
tư duy dưới cội bồ đề lại càng lớn không thể tưởng, vì hoạt động
dưới dạng Pháp thân, trở thành đại tự nhiên. Tư duy bằng vọng
niệm chẳng là bao. Nhưng tư duy dưới cội bồ đề nghĩa là ở dạng
bản thể của sự vật, ở chơn như tâm thì Phật, chúng sanh và tâm,
tuy ba nhưng thông làm một.
- Từ bồ đề đạo
tràng, Phật thuyết kinh Hoa Nghiêm 21 ngày, nhưng thuyết
được tất cả. Thuyết tất cả, nghĩa là thuyết những gì xảy ra từ
khi Ngài phát tâm Bồ đề và giáo hóa chúng sanh cho đến ngày
thành Phật. Và hiện giờ, Ngài đang tiếp tục giáo hóa. Tất cả mọi
người trên khắp năm châu bốn biển vẫn đang tiếp tục học pháp với
Tỳ Lô Giá Na Phật, là ý nghĩa quan trọng nhất của lịch sử kinh
Hoa Nghiêm theo tinh thần Ðại thừa.
- Thật vậy, Ðức
Phật vẫn còn giáo hóa và hộ niệm cho chúng ta, nên chúng ta mới
tu học được. Nếu không có lực gia trì đó, Phật pháp không thể
tồn tại đến ngày nay.
- Thái độ của
người học Phật giáo Ðại thừa nói chung và lịch sử kinh Hoa
Nghiêm nói riêng, là phải thấy cái bao la vô cùng tận, còn
cái chúng ta hiểu được giống như con muỗi uống nước biển. Tôi
thấm thía ý này trong kinh Pháp Hoa dạy rằng khi nào tu
tròn hạnh Bồ tát, thành Phật mới hiểu được Phật. Vì vậy, cho
rằng học hết giáo lý là xong, quả là sai lầm lớn.
- Trên tinh
thần bao la vô tận của Phật pháp, chúng ta phải nhận ra thọ mạng
Phật pháp tồn tại thường hằng miên viễn ở dạng Pháp thân vĩnh
hằng bất tử. Ðức Phật chỉ phương tiện hiện Niết bàn, nhưng kỳ
thực Ngài vẫn hiện hữu ở khắp mọi nơi, ở bên cạnh chúng ta trong
từng niệm tâm vậy.
- 2-
Lịch sử truyền thừa và phát triển kinh Hoa Nghiêm
- Kinh Hoa
Nghiêm phát xuất từ Êẽn Ðộ, nhưng được phát triển mạnh ở
Trung Quốc, Nhật Bản. Thật vậy, theo sự nghiên cứu, kinh Hoa
Nghiêm chỉ còn tìm thấy rải rác trong vài tác phẩm ở Êẽn Ðộ.
Ðó là bộ Ðại Trí Ðộ luận của ngài Long Thọ có dẫn dụng
kinh Hoa Nghiêm và những tác phẩm chú sớ như Thập Trụ
Tỳ Bà Sa luận, hoặc Thập địa kinh luận giải thích về
hai phẩm: Thập trụ, Thập địa của kinh. Như vậy, chỉ có một phần
nhỏ của kinh được truyền thừa. Còn toàn bộ kinh Hoa Nghiêm
không có.
- Tuy nhiên về
sau, kinh Hoa Nghiêm được truyền sang Trung Quốc có 3 bộ,
nhưng đều phát xuất từ nước Vu Ðiền của Trung Á (ngày nay thuộc
khu tự trị của Trung Quốc).
- Kinh Hoa
Nghiêm mang về Trường An, đến đời Tấn thì ngài Phật Ðà Bạt
Ðà La (Giác Hiền) là người đầu tiên dịch sang tiếng Trung Quốc
bộ lục thập Hoa Nghiêm, gồm có 60 quyển, thường gọi là bộ
cựu dịch.
- Cách 200 năm
sau, đến đời Ðường, ngài Thập Sa Nan Ðà dịch, chia thành 80
quyển, gọi là bát thập Hoa Nghiêm hay bộ tân dịch.
- Và cũng ở đời Ðường, ngài Bát
Nhã dịch riêng phẩm Nhập pháp giới, gọi là tứ thập Hoa
Nghiêm, gồm 40 quyển.
- Kinh Hoa
Nghiêm phát triển mạnh ở Trung Quốc, tiến đến thành lập tông
Hoa Nghiêm. Sơ tổ của tông này là ngài Ðỗ Thuận (557-640), nhưng
đến ngài Trí Nghiêm (602-668) là Nhị tổ mới chính thức thành lập
tông Hoa Nghiêm.
- Và Tổ thứ ba
của tông này rất nổi tiếng, đó là ngài Pháp Tạng (Hiền Thủ,
643-712). Phải nói là đến thời của ngài Pháp Tạng mới luận giải
kinh Hoa Nghiêm và giảng kinh này cho Tắc Thiên hoàng
hậu.
- Ngài Ðỗ Thuận
và Trí Nghiêm cùng giảng giải kinh theo bộ lục thập Hoa
Nghiêm. Nhưng ngài Ðỗ Thuận chịu ảnh hưởng của hệ Bát Nhã,
vì lúc ấy pháp tánh học thịnh hành. Còn ngài Trí Nghiêm chịu ảnh
hưởng của Duy thức, tức pháp tướng học do ngài Huyền Trang xương
minh và theo đó mà phát triển Hoa Nghiêm.
- Ngài Pháp
Tạng lý giải theo bộ bát thập Hoa Nghiêm. Ngài giảng giải
đầy đủ hơn, vì đã tổng hợp được hai hệ tư tưởng Bát Nhã và Duy
Thức của Sơ tổ và Nhị tổ, kết hợp thành bộ Hoa Nghiêm sớ.
Ðây là cốt lõi của tông Hoa Nghiêm, làm cho Phật pháp thịnh hành
ở thời này.
- Hai vị Ðỗ
Thuận và Trí Nghiêm đều là người Hán. Riêng ngài Pháp Tạng sanh
ở Trung Quốc mà gốc người Trung Á. Vì vậy, Ngài thừa hưởng được
tư tưởng triết học Êẽn Ðộ và văn minh Trung Quốc; đồng thời tổng
hợp được tinh ba của hai luồng tư tưởng vĩ đại này, tạo thành
nét đặc thù nổi bật của tông Hoa Nghiêm, khiến cho giới trí thức
đời Ðường bấy giờ phải thán phục.
- Có thể nói
tông Hoa Nghiêm phát triển mạnh ở Trung Quốc vì tư tưởng kinh
Hoa Nghiêm thích hợp với người Trung Quốc. Trước khi kinh
này được truyền sang, tư tưởng Lão Trang thịnh hành ở Trung
Quốc, có cái nhìn về vũ trụ gần giống với tinh thần Hoa Nghiêm,
nên người trí thức đương thời dễ tiếp thu được tư tưởng Hoa
Nghiêm.
- Tuy nhiên,
cần khẳng định rằng, kinh Hoa Nghiêm phát triển được là
nhờ các vị cao đức thông suốt được áo nghĩa Hoa Nghiêm và biết
kết hợp với tinh thần Lão Trang để triển khai thành tư tưởng chỉ
đạo của tông Hoa Nghiêm.
- Tư tưởng Lão
Trang quan niệm mọi sinh hoạt của vũ trụ vận hành theo lý "Tự
nhiên", tự nhiên là "Vô", và tính chất của "Vô" là bản thể của
vũ trụ. Và theo Trang tử: "Ðạo không chỗ nào không có, ở chỗ con
kiến, con dế, ở chỗ cỏ Ðế, cỏ Bại, ở chỗ gạch ngói, ở chỗ phân
tiểu...".
- Người trí
thức chịu ảnh hưởng Lão Trang có thể thấy vấn đề nói trên của họ
sáng hơn khi tiếp thu tư tưởng Hoa Nghiêm do các vị cao tăng lý
giải; theo đó, mọi sự, mọi vật đều bình đẳng, trong tốt có xấu,
trong xấu có tốt. Tất cả sinh hoạt tương quan tương duyên chằng
chịt trong pháp giới.
- Người chứng
đạo thấy rõ sự tác động của mối tương quan sâu xa ấy, mà thuật
ngữ gọi là lý sự vô ngại pháp giới, thì sẽ hóa giải được tất cả.
Còn chướng ngại, vướng mắc, không dung thông thì trở thành đối
nghịch, đối đầu, từ đó phiền não trùng trùng duyên khởi.
- Thực chất của
sự hành trì theo yếu nghĩa Hoa Nghiêm là thiện ác đều do chính
ta tạo nên, kinh gọi là muôn pháp duy tâm tạp. Liễu ngộ Hoa
Nghiêm thì tất cả viên dung vô ngại vì mọi loài trong pháp giới
cho đến con ong, cái kiến, cỏ cây, hoa lá đều là pháp âm của Tỳ
Lô Giá Na Phật.
- Kinh Hoa
Nghiêm chuyên chở một tư tưởng quá lớn lao, người bình
thường không tiếp thu nổi, không hiểu thì làm sao ứng dụng được.
Vì thế, dù là tư tưởng siêu tuyệt như vậy, vẫn bị mai một.
- Phải có những
bậc danh đức ngộ đạo hiện hữu, như ngài Ðỗ Thuận, Trí Nghiêm,
Pháp Tạng nắm trọn được tinh yếu của Hoa Nghiêm và lý giải cũng
như thể hiện trong cuộc sống, mới có thể phát triển tư tưởng này
sáng chói lên. Nhưng về sau, không có người thừa kế đủ khả năng
tiếp nối đạo nghiệp, nên ngọn đèn Hoa Nghiêm cũng phải tàn lụn.
- Tiếp theo, kinh Hoa Nghiêm
được một nhà sư Trung Hoa mang sang Nhật Bản, nhưng không thuyết
giảng. Ðến đời Thánh Vũ thiên hoàng, ngài Thẩm Tường là nhà sư
Triều Tiên sang Nhật Bản, kinh này mới được Ngài giảng giải và
tông Hoa Nghiêm ra đời ở Nhật.
- Ðặc biệt là
nhờ công đức thuyết pháp của ngài Thẩm Tường khiến cho Thánh Vũ
thiên hoàng phát tâm xây dựng ở Nara tượng Tỳ Lô Giá Na bằng
đồng lớn nhất thế giới. Có điều kỳ lạ cần nhắc lại, theo truyền
thuyết, người ta chỉ đúc được pho tượng này tới cổ, vì phần đầu
của tượng quá lớn, đường kính của mặt tượng Tỳ Lô Giá Na rộng
đến 5 thước, nên rót đồng vô chảy xuống đến cổ là bị rã.
- Sau đó, nhà
sư Phật Triết từ Giao Châu, Việt Nam, đóng bè tre sang Nhật Bản.
Ngài Hạnh Cơ Bồ tát ra đón ngài Phật Triết ở bờ biển về để chỉ
dạy phương cách đúc tượng.
- Pho tượng
được hoàn thành một cách hoàn hảo, nên Thánh Vũ thiên hoàng
thỉnh ngài Phật Triết về chủ lễ điểm nhãn tượng. Và Ngài soạn ra
nghi thức cúng dường khai quang, còn truyền tụng đến ngày nay.
- Như đã nói,
tư tưởng Hoa Nghiêm quá trác tuyệt, khó tiếp thu. Vì vậy, công
đức hoằng truyền kinh Hoa Nghiêm mà ngài Thẩm Tường đã tu tạo,
không có người tiếp nối đạo mạch. Những gì tiêu biểu còn lưu lại
dấu vết như tông Hoa Nghiêm, chùa Ðông Ðại và tượng Tỳ Lô Giá
Na, thì ngày nay chỉ còn hiện hữu như một kỷ niệm mà thôi.
- Tóm lại, kinh
Hoa Nghiêm phát xuất từ Êẽn Ðộ, nhưng vì quá cao siêu nên
hiếm người tiếp thu được và tất nhiên việc phát triển càng khó
hơn nữa. Phải đợi đến khi truyền sang Trung Quốc hay Nhật Bản và
gặp được những vị vua chúa có phước báo và quyền thế phát tâm
mới đủ điều kiện hỗ trợ cho công việc phiên dịch, truyền bá
kinh, cũng như xây dựng chùa chiền, đúc tượng được thành công.
- Riêng ở Việt
Nam, Phật giáo đương nhiên cũng có phần ảnh hưởng tinh thần Hoa
Nghiêm. Một số vị cao tăng cũng thọ trì kinh này, ứng dụng được
phần nào tinh ba của kinh trong cuộc sống. Tuy nhiên, nói chung,
bộ kinh này không phát triển mạnh được ở Việt Nam.
-
II. Nội dung kinh Hoa Nghiêm
- Theo phán
giáo của Thiên Thai Trí Giả đại sư, sau khi Ðức Phật thành đạo,
Ngài thuyết kinh Hoa Nghiêm trong 21 ngày và sau đó Ngài
đến Lộc Uyển độ 5 anh em Kiều Trần Như, bắt đầu lập giáo khai
tông. Trên đường hoằng truyền chánh pháp, Ðức Phật giảng kinh
Phương Ðẳng, Bát Nhã, Pháp Hoa, Niết Bàn.
- Cách phán
giáo của Trí Giả đại sư được Phật giáo Ðại thừa tán đồng. Phật
giáo Nguyên thủy cũng ghi nhận giống ở điểm sau khi thành đạo,
Ðức Phật ngồi tư duy ở Bồ đề đạo tràng trong 21 ngày. Theo kiến
giải của Phật giáo Ðại thừa, trong 21 ngày tư duy ấy, Ngài
thuyết kinh Hoa Nghiêm trong thiền định.
- Thiết lập
pháp hội Hoa Nghiêm với hội chúng, hội trường có điểm khác lạ.
Theo kinh Hoa Nghiêm lục thập quyển thì có 8 hội, nhưng
kinh Hoa Nghiêm bát thập quyển ghi nhận có 9 hội. Ðến
phần kết của hội Hoa Nghiêm vẫn có mặt Xá Lợi Phật, Mục Kiền
Liên, A Nan, nhưng các Ngài không nghe được. Ý này được kinh
diễn tả rằng chúng Thanh văn như người mù, người điếc dự hội.
- Vì khó hiểu
như vậy, một số người cho rằng kinh Hoa Nghiêm có tính
cách giả tưởng. Ngày nay, chúng ta có thể hiểu ý này qua thực tế
như vấn đề trình bày trong cuộc hội thảo dành cho các nhà bác
học thì người có trình độ đại học trở xuống có tham dự cũng
không thể nào hiểu được.
- Pháp Phật nói
cho Bồ tát, hàng nhị thừa không thể biết, huống chi là phàm phu.
Cần hiểu rằng không riêng gì Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên... mà kể
cả chúng ta cũng hiện diện trong hội Hoa Nghiêm, nhưng không
thấy, không nghe vì bị ngũ ấm ngăn che, vướng mắc sắc ấm. Ðức
Phật nói kinh Hoa Nghiêm trong thiền định, dùng tâm
chuyển vật. Chúng ta chưa thấy tâm, làm sao thấy được sự chuyển
vật.
- Tinh thần Ðại
thừa đặt nền tảng trên sinh hoạt của tâm là chính. Nếu tâm thực
sự tốt sẽ kết thành quả tốt, dù cho hành động bề ngoài không
tốt. Sức mạnh phi thường của tâm chi phối, khiến việc thành tựu,
không cần phải cử thân động niệm, kinh gọi là vô tác diệu lực.
Ðó là ý chính mà kinh Hoa Nghiêm muốn đề cập đến.
- Khi Ðức Phật
đắc quả Vô thượng giác ở Bồ đề đạo tràng, không còn lệ thuộc ngũ
ấm thân, Ngài phát hiện ra con người thật bên trong là chơn tâm
hay Tỳ Lô Giá Na Pháp thân và thấy Bồ tát vi trần. Phật pháp
thân ấy nói với các vị Bồ tát trong thiền định, không phải là
người bằng xương bằng thịt nói và cũng không nói cho người nhân
gian. Vì vậy, người nhân gian làm thế nào biết được và tạng kinh
Hoa Nghiêm phải đợi đến Long Thọ Bồ tát kiết tập.
- Ðến pháp hội
thứ hai, đi vào thế giới Quang Minh điện của Phật, nghĩa là ánh
quang Phật thuyết pháp. Ánh quang này chiếu đến Trời Phạm Thiên,
nên vị Ðại Phạm Thiên vương xuống Bồ đề đạo tràng thỉnh Phật
thuyết pháp.
- Ở pháp hội
một, thuyết trong thiền định dành cho người trụ định mới nghe
được. Ðến pháp hội thứ hai, Phật thuyết bằng ánh quang, đòi hỏi
người có trí tuệ, nghe bằng Bồ đề tâm, huệ giải thoát mới thâm
nhập được. Lúc ấy, người tu ngộ đạo nhìn sông núi, cá chim đều
là Phật thuyết pháp.
- Sau đó, Phật
thuyết ở Trời Ðao Lợi, đến Dạ Ma thiên, Ðâu Suất thiên, Tha Hóa
Tự Tại. Ðến đây, Ngài giảng thập hồi hướng, thập địa nhằm chỉ
cho biết đối tượng của pháp cao sâu này phải là Bồ tát, là người
có đầy đủ phương tiện giáo hóa chúng sanh.
- Bồ tát pháp
trong kinh Hoa Nghiêm rất cao sâu. Hàng thấp nhất là Bồ
tát sơ địa cũng phải có khả năng làm vua một cõi, tức tiểu vương
mới có thể hành đạo tự tại. Bồ tát nhị địa phải là Chuyển luân
Thánh vương cai quản bốn phương thiên hạ, ai nghe đến danh cũng
phải kính nể. Bồ tát đệ tam địa phải làm vua Trời Ðao Lợi, cai
quản 33 tầng trời. Cứ như vậy lần lên cõi Trời Dục cao nhất là
Tha Hóa Tự Tại.
- Ðức Phật
giảng cho các vị trời, đồng nghĩa với nhắc nhở những người có
phước báo, quyền uy ở trần gian nên phát tâm làm Phật sự, dễ tu
tạo công đức lớn lao. Nếu không, hưởng hết phước rồi đọa, lúc đó
không còn điều kiện tạo công đức, như vua Tần Bà Sa La bị A Xà
Thế nhốt vô ngục rồi mới phát tâm.
- Từ cõi Trời
Tha Hóa Tự Tại, Ðức Phật trở lại Phổ Quang đường thuyết thập
nhẫn, thập định. Cuối cùng, Ngài trở lại thực tế cuộc sống ở
rừng Thệ Ða nói phẩm Nhập pháp giới.
-
III. Quan niệm về đạo Phật theo kinh
Hoa Nghiêm
- Kinh Pháp
Hoa và Hoa Nghiêm là hai bộ kinh nòng cốt của Phật
giáo Ðại thừa. Kinh Pháp Hoa đặt nặng về pháp, trong khi
kinh Hoa Nghiêm triển khai về Phật là vị có đầy đủ tư
cách để tuyên thuyết diệu pháp.
- Quan niệm về
Ðức Phật theo kinh Hoa Nghiêm tất nhiên cũng khởi đầu từ
Phật nguyên thủy là Ðức Thích Ca. Ngài cũng mang thân tứ đại
giống như chúng ta và trải qua quá trình tu hành, đắc quả Vô
thượng Bồ đề.
- Quan điểm cho
rằng Phật là người giống như ta và tiến tu thành bậc Chánh giác,
được xét lại trong thời Phật giáo Phát triển. Vì câu hỏi được
đặt ra là tại sao người đều giống nhau, nhưng chỉ duy nhất có
Phật thành tựu quả vị toàn giác, còn những vị tu hành khác thì
có người thành Tổ, có người làm trụ trì hoặc người chẳng đạt
được quả vị nào.
- Từ đó, Phật
giáo Phát triển bắt đầu mở tầm nhìn về chiều sâu, nhìn bên trong
cái thực của con người, tức chân linh, để định giá trị khác nhau
của mỗi người. Theo tinh thần ấy, kinh Bổn Sanh, Bổn Sự được
hình thành, nói về vô số tiền kiếp của Phật đã xả thân hành Bồ
tát đạo. Thân xác giống như chiếc áo mặc cho chân linh. Ðó là
quan niệm mới của Phật giáo Phát triển bắt đầu quán sát người ở
hai mặt: mặt bề ngoài là sanh thân hay thân mạng hữu hình và
thân mạng vô hình bên trong là Báo thân.
- Theo Ðại
thừa, Báo thân là phước đức, trí tuệ của Phật. Ngài giáo hóa
thành tựu dễ dàng vì lời nói, hành động, việc làm đều phát xuất
từ trí tuệ siêu tuyệt và đạo đức hoàn toàn thánh thiện.
- Như vậy, Ðại
thừa nhìn Phật qua tri thức và đức hạnh của Ngài và triển khai
Báo thân. Suy nghĩ về Báo thân, nương Báo thân Phật tu hành nhằm
mục tiêu phát triển Báo thân của chính mình. Nói cách khác, trên
bước đường tu, chúng ta xem Phật, Tổ, Bồ tát làm gì, ta cũng làm
vậy để nuôi lớn Báo thân của riêng mình.
- Ðức Phật dạy
rằng ai cũng có thể thành Phật nếu tu tập cho đầy đủ tâm đại bi,
viên mãn hạnh Bồ tát. Vô lượng kiếp qua khứ, Phật, Hiền Thánh
đều trải thân hành Bồ tát đạo, làm lợi ích chúng hữu tình, mới
đạt đến Vô thượng Ðẳng giác. Ngày nay, muốn thành tựu quả vị như
Phật, chúng ta cũng phải phát tâm Bồ đề, dấn thân tu Bồ tát đạo.
Ðó là tư tưởng nòng cốt của Phật giáo Ðại thừa.
- Tiến đến đỉnh
cao của hệ tư tưởng này là kinh Hoa Nghiêm. Kinh Hoa Nghiêm
giới thiệu Ðức Phật và cách tu thế nào để thành Phật, tức Bồ tát
pháp.
- Tinh thần Hoa
Nghiêm cho chúng ta ý niệm về Ðức Phật hoàn toàn mới, khác hẳn
các bộ kinh Ðại thừa khác. Ðức Phật không bị giới hạn trong một
loại hình cố định nào.
- Thật vậy, Hoa
Nghiêm mở ra cho chúng ta tầm nhìn phóng khoáng, theo đó không
có gì không phải là Phật, đó mới là Ðức Phật chân thật. Phật này
là Phật huệ, nên trí tuệ Phật hiện vô thân đồng nữ thì đồng nữ
đó là Phật, hiện trong thân trưởng lão thì trưởng lão là Phật.
- Tư tưởng đặc
biệt của Hoa Nghiêm về sự hiện hữu vĩnh hằng của một Ðức Phật
toàn diện đòi hỏi chúng ta phải đạt đến trình độ nhất định nào
đó mới có thể hiểu, sống và hành đạo như vậy.
- Ðứng trên lập
trường bao quát, thấy Phật là tất cả, là pháp giới, được kinh
Hoa Nghiêm tiêu biểu qua hình ảnh Phật với 10 loại thân:
Ngũ ấm thân, Quốc độ thân, Chúng sanh thân, Thanh văn
thân, Duyên giác thân, Bồ tát thân, Như Lai thân, Trí thân, Pháp
thân, Hư không thân. Hay có thể nói 10 loại hình này là
diễn tiến sự sống từ thấp nhất tiến đến quả vị Phật và từ Phật
giới chi phối ngược xuống toàn bộ các loài hữu tình, vô tình.
- Theo Hoa
Nghiêm, trước tiên lấy ngũ ấm làm căn bản, vì tất cả muôn vật
đều phát xuất từ ngũ ấm: sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Ðức Phật
cũng hiện hữu từ ngũ ấm, nhưng Ngài tiến đến quả vị toàn giác vì
Ngài không bị ngũ ấm chi phối. Trong khi chúng sanh cũng mang
thân ngũ ấm, nhưng do bị ràng buộc triệt để, nên luôn gánh chịu
khổ đau sanh tử.
- Ðức Phật
khẳng định rằng ngũ ấm cấu tạo nên con người và con người bị lệ
thuộc nó. Chính vì còn kẹt vào thân vật chất, tức sắc uẩn, nên
chúng ta còn bị 4 thứ: đói, khát, nóng, lạnh hành hạ. Hương vị
giải thoát đầu tiên của người đắc được sơ quả là xa lìa được đói
khát, nóng lạnh. Vì vậy, chúng ta thấy các Thiền sư trong lúc
nhập định không cần ăn uống, ngủ nghỉ mà không cảm giác đói
khát, mệt mỏi, vì họ đang sống với chân linh, vượt ngoài sự chi
phối của thân xác.
- Thân của Ðức
Phật khởi đầu cũng phát xuất từ thân ngũ ấm như chúng ta và Ngài
cũng sử dụng nó. Nhưng chính yếu là Phật điều khiển được thân
hoàn toàn theo mục tiêu mà Ngài đặt ra.
- Ðối với Phật,
Ngài mang thân ngũ ấm trang nghiêm bằng 32
tướng tốt, 80 vẻ đẹp, thành Vô thượng Ðẳng giác để giáo hóa
chúng sanh. Khi việc đáng làm đã làm, người đáng độ đã độ, Ngài
rời bỏ thân một cách nhẹ nhàng. Ðức Phật khác hơn chúng sanh là
như vậy.
- Chúng sanh
thì bị thân ngũ uẩn dày xéo, hành hạ, sống khổ với thân, chết
cũng không yên với nó. Ðức Phật thì tự tại hoàn toàn vì biến đổi
được ngũ uẩn thành Pháp thân mà kinh diễn tả là: "Nhược năng
chuyển vật tức đồng Như Lai".
- Ðức Phật sử
dụng, biến ngũ uẩn thành ngũ phần Pháp thân, nên ngũ uẩn được
kinh Hoa Nghiêm coi là một trong 10 thân Phật Tỳ Lô Giá
Na.
- Từ ngũ uẩn
làm gốc, nảy sinh ra sự sống, hiện thân thứ hai là quốc
độ thân, chỉ cho sơn hà đại địa. Nói chung, sự sống đơn
bào tiến lên đa bào, phát triển lần đến các sinh vật hữu tình và
vô tình.
- Theo tinh
thần Hoa Nghiêm, nhìn sông núi hùng vĩ, ngắm dòng suối chảy, nụ
hoa mơn mởn, cá bơi chim liệng hay thấy tượng Phật trang nghiêm,
cảnh chùa thanh tịnh, khiến ta phát tâm, đó là vô tình thuyết
pháp.
- Nói cách
khác, thân Tỳ Lô Giá Na đã tác động vào cảnh quan, tạo thành lực
hấp dẫn đưa ta đến với Phật đạo. Trong kinh thường diễn tả quá
trình hành Bồ tát đạo, Phật hiện thân trong tất cả các loài,
không riêng gì loài người, Ngài đã từng làm nai, chim, sư tử...
Vì vậy, trong vũ trụ, cỏ cây hoa lá cho đến động vật đều có Tỳ
Lô Giá Na ảnh hưởng đến và trong các hữu tình chúng sanh thuộc
tứ sanh lục đạo cũng chịu lực chi phối của Tỳ Lô Giá Na để tồn
tại.
- Như vậy, loại
thân hình thứ hai của thân Phật Tỳ Lô Giá na là trải thân ra làm
đất đai, làm cây cỏ, làm núi sông để che chở, nuôi sống, dung
nhiếp muôn loài.
- Không loài
nào mà tâm đại bi Phật không tác động đến, thể hiện sự hiện hữu
loại thân thứ ba của Phật gọi là chúng sanh thân.
- Dưới mắt
người hành đạo theo tinh thần Hoa Nghiêm, con ong, cái kiến cho
đến cọng cỏ, bụi gai, không cái gì mà không dễ thương, không
phải là Phật. Ngược lại, mọi sự vật trên cuộc đời đều chướng tai
gai mắt với phàm phu, ràng buộc làm họ khổ đau.
- Trên tinh
thần tất cả đều đẹp, người thật dạ tu hành ở bên phiến đá, cạnh
dòng suối trong núi rừng, nhưng có cảm nghĩ nơi đó hiện diện ba
đời mười phương Phật, nên họ dễ dàng tiến tu giải thoát. Nhưng
khởi vọng tâm đòi hỏi phải ở chỗ này mới tu được, ở chỗ kia buồn
khổ, thì không thể nào sống trong thiền môn.
- Bước theo lộ
trình Hoa Nghiêm, chúng ta cũng tập sống theo tinh thần rộng lớn
như vậy, tập làm những việc bao dung, giúp đỡ người phát triển.
Ðó là con đường đưa chúng ta đến quả vị toàn giác trong tương
lai.
- Từ trong
chúng sanh thân, nhận ra cuộc đời không bền chắc, nên khởi tâm
đi tìm hằng hữu. Từ bỏ đời sống thế nhân, đi theo lộ trình Phật
đạo, mang thân tu sĩ trắc nghiệm 37 phẩm trợ đạo giữa lòng cuộc
đời, được coi như là Pháp thân của Ðức Phật hay Thanh văn thân
là một phần trong tổng thân của Phật Thích Ca.
- Kế đến là
hàng Duyên giác thuộc tầng lớp trí thức, tinh thần rất bén nhạy.
Họ quán nhân duyên để thấy được mối quan hệ giữa mọi người với
nhau trong xã hội. Và theo lời Phật dạy, người nào thấy nhân
duyên thì thấy được pháp chân thật, đó là điều tiên quyết để
tiến đến quả vị toàn giác.
- Vì vậy, hàng
Duyên giác hay Bích chi Phật ẩn tu, thâm nhập thiền định, nhận
chân được mối quan hệ của chúng sanh trong tứ sanh lục đạo và
hành xử theo đúng với lý nhân duyên ấy, thì họ vẫn được coi là
một hiện thân của Phật trên cuộc đời.
- Thanh văn tu
hành tập thể và Duyên giác hay Ðộc giác ẩn tu quán sát các pháp.
Tổng hợp hai cách tu này, chúng ta có mẫu người thứ ba vừa có
đạo đức, vừa có tri thức, đi vào đời độ sanh gọi là Bồ tát.
- Bồ tát hay
bậc giác hữu tình, tức người đem ánh sáng giác ngộ đến các loài
hữu tình. Họ phát tâm Bồ đề, khởi niệm thương chúng sanh và đến
giúp đỡ, cũng là do Phật lực chi phối đến.
- Trên tinh
thần hành đạo cứu đời vì tiếp nhận được lực Tỳ Lô Giá Na, nên Bồ
tát thân cũng là thân của Phật.
- Khi người tu
tròn đủ hạnh Bồ tát và tâm đại bi thì đạt quả vị Phật, tức Như
Lai thân. Với thân Như Lai, không còn phải dấn thân vào đời để
cứu độ như Bồ tát, không phải ẩn tu như hàng Duyên giác, cũng
không cần sống trong tập thể để trao đổi sách tấn nhau tu hành
như Thanh văn.
- Vì Như Lai
thân không từ đâu tới và cũng không đi về đâu. Chính thân đó tác
động đến các loài chúng sanh và giáo hóa được tất cả mà không
cần cử thân động niệm.
- Từ ngũ ấm
thân, trải qua quá trình tu hành tiến lên quốc độ thân, chúng
sanh thân, Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát thân và Như Lai thân là
thân thứ 7.
- Bấy giờ, ở
quả vị Như Lai, không cần làm như trước nữa, nhưng các loài hữu
tình chúng sanh tự phát tâm tu và tự giải thoát. Ðó là đặc biệt
của sự giáo hóa bằng Như Lai thân, không cần cứu độ mà mọi loài
được nương nhờ, tự tôn kính, quy ngưỡng Phật.
- Trên bước
đường tu, sử dụng thân của từng giai đoạn tu khác nhau, thành
đạt đến vị trí Như Lai. Lúc ấy, như như bất động mà vẫn hóa độ
được chúng sanh, nên hoạt động chính của Như Lai không phải bằng
thân xác vật chất, bằng ngôn ngữ bình thường, nhưng bằng trí
tuệ, nên gọi là trí thân (thân thứ 8).
- Dùng trí
thân, tức dùng trí tuệ Như Lai tác động chúng sanh, khiến họ
phát tâm Bồ đề. Chúng sanh chịu sự chi phối của trí thân gồm cả
hữu tình và vô tình chúng sanh, tức nhứt thiết pháp. Tất cả pháp
không có pháp nào mà trí tuệ Như Lai không chiếu tới.
- Trí Như Lai
chiếu tới đâu thì biến các pháp ấy thành Pháp thân của Ðức Phật.
Ðó là điểm then chốt của kinh Hoa Nghiêm quan niệm về Ðức Phật.
Trí tuệ Phật chiếu vào một tu sĩ hay cư sĩ, tác động họ phát
tâm, chiếu vào tất cả sự vật thì làm vật đó biến chuyển thành
pháp của Phật.
- Ví dụ trí tuệ
Như Lai tác động vào chúng ta, khiến chúng ta phát nguyện đi
theo Phật đạo và cũng tác động qua các pháp, biến gạch ngói, đất
đá thành chùa chiền. Tu sĩ, tín đồ, chùa, cảnh vật, pháp khí
hiện hữu để Phật pháp tồn tại, phát triển, thì tất cả đều là
Pháp thân của Ðức Phật (thân thứ 9).
- Quang cảnh
thiền môn tuy không phát ra âm thanh, nhưng tác động cho người
hình dung ra Phật, liên tưởng đến cách sống của Ngài và họ phát
tâm tu theo, tức Pháp thân của Phật đã thuyết pháp.
- Như vậy, Pháp
thân Phật theo tinh thần Hoa Nghiêm được triển khai rộng hơn ý
niệm Pháp thân của Phật giáo Nguyên thủy chỉ hạn hẹp trong giáo
pháp Phật còn lưu lại.
- Kinh Hoa
Nghiêm quan niệm tất cả pháp, kể cả sơn hà đại địa đều nhận
lực chi phối của huệ Như Lai, đều là Pháp thân Phật. Từ căn bản
ấy, tất cả mọi sự vật trên cuộc đời đều biến thành Phật pháp nếu
có huệ Như Lai rọi vào. Một miếng gỗ, cục đá hay đồng chì đều
biến thành Phật khi người tạo ra nó, hoặc chiêm ngưỡng, kính lễ
nhận được huệ Như Lai, có ý niệm về Phật.
- Trái lại,
không có huệ Như Lai đầu tư vào, thì đất đá vẫn là đất đá. Triển
khai mạnh về ý nghĩa này, kinh Hoa Nghiêm chủ trương bằng
mọi cách phát huy được Như Lai huệ để chiếu sáng vào lòng cuộc
đời, vào vũ trụ, biến tất cả thành Phật pháp.
- Tiến theo lộ
trình Hoa Nghiêm, đạt đến đỉnh cao nhất là Hư không
thân hay Tỳ Lô Giá Na thân. Tỳ Lô Giá Na dịch
là phổ quang minh chiếu, chỉ cho trí tuệ rọi vô pháp, biến pháp
thành Pháp thân. Lúc ấy, trí và lý bất nhị, kết hợp thành một.
Thiết nghĩ, đây là loại hình của thế giới tu chứng, khó diễn tả
bằng ngôn ngữ bình thường.
- Mười thân
Phật nói trên là một tổng thân của Tỳ Lô Giá Na Phật, kết hợp
giữa chân lý và trí tuệ, chi phối ngược xuống 9 loại hình, từ
hàng Thánh giả đến người thường trên cuộc đời và cả loài hữu
tình, vô tình.
- Trong vô
hình, lực Tỳ Lô Giá Na chi phối xuống hữu tình chúng sanh và vô
tình khí thế giới, khiến cho tất cả phát tâm Bồ đề, tiến tu đạo
nghiệp, kết hợp thành pháp giới.
- Ðó là thế giới huyền môn của đạo
Phật dành cho những người tiến bước theo Bồ tát đạo, đạt đến
bằng sự tu chứng thật sự, nằm ngoài lạm bàn của phàm phu điên
đảo vọng tưởng./.
- -oOo-
-
Câu hỏi hướng dẫn ôn tập
- 1- Trình bày sơ lược
lịch sử kinh Hoa Nghiêm.
- 2- Nội dung cơ bản của
kinh Hoa Nghiêm là gì?
- 3- Trình bày quan niệm
về Ðức Phật theo kinh Hoa Nghiêm.
|
--o0o--
|
|