-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Phật Học Cơ Bản
-
Tập Ba
- Ban Hoằng Pháp
Trung Ương
GHPGVN
-
Chương Trình Phật Học Hàm Thụ (1998-2002)
Nguyệt San Giác Ngộ
- --- o0o ---
- Phần
II - Bài đọc thêm
- Giới luật
công truyền hay bí truyền?
- Thích Phước
Sơn
- Trong lời
phàm lệ của quyển Tứ phần giới bổn như thích, Luật sư
Hoằng Tán (1611-1685) nói: "Tam thế chư Phật câu thuyết
Kinh-Luật-Luận tam tạng Thánh giáo. Kinh luận nhị tạng hàm thông
tại gia, xuất gia, duy Luật nhất tạng Tỷ kheo độc trì, như vương
bí tạng phi ngoại quan sở tư. Nhược Sa di, bạch y tiên lâm giả,
vĩnh bất thọ đại giới, tội dữ ngũ nghịch đồng liệt. Vị sư giả
tối nghi cẩn thận". Dịch nghĩa: "Ba đời chư Phật đều nói ba tạng
Thánh giáo Kinh-Luật-Luận. Hai tạng Kinh-Luận chung cả tại gia,
xuất gia, riêng tạng Luật chỉ dành cho Tỷ kheo gìn giữ, như tạng
bí mật của vua, hàng ngoại quan không được biết đến. Nếu Sa di,
bạch y mà xem trước, thì vĩnh viễn không được thọ đại giới, mắc
tội ngang với tội ngũ nghịch. Phàm là người làm thầy phải hết
sức cẩn thận".
- Ý kiến này có
lẽ bắt nguồn từ Luật sư Châu Hoằng (1532-1612) trong quyển Luật
Sa di: "Bất đắc đạo thính Ðại Sa môn thuyết giới".
- Thật ra, câu
cảnh cáo của ngài Châu Hoằng là nhằm nhắc nhở Sa di không được
nghe lén khi Tỷ kheo tụng giới; vì nghe lén là hành vi bất
chính. Bởi lẽ, Sa di chưa đủ tư cách pháp nhân của một vị Tăng
thực thụ nên không được phép tham dự vào những sinh hoạt chính
yếu của Ðại tăng như các việc yết ma, bố tát, tự tứ v.v... Nếu
người chưa thọ Cụ túc mà khoác áo cà sa, len lỏi vào hàng ngũ Tỷ
kheo, tham dự các pháp yết ma, bố tát, tự tứ thì phạm tội tặc
trú (ở trong Tăng chúng để trộm pháp), về sau không được thọ Ðại
giới, hay giới Tỷ kheo. Do đó, khi Tăng tiến hành tiền phương
tiên (thủ tục ban đầu) thì thầy Yết ma phải hỏi trong Tăng
chúng: "Người chưa thọ giới Cụ túc đã ra chưa?". Và khi được xác
nhận trong Tăng không có người nào chưa thọ giới Cụ túc, thì
Tăng mới tiến hành các pháp yết ma. Như vậy, việc làm này rất
chính đáng và đâu có dụng ý gì ngăn cấm người chưa thọ giới Cụ
túc xem giới pháp của Tỷ kheo? Còn việc không cho Sa di, bạch y
tham dự bố tát là có nguyên do. Lúc Phật còn tại thế, một hôm
chư Tăng bố tát, có một người bạch y tham dự, sau đó, một Tỷ
kheo phạm tội, người bạch y này bèn hạch tội Tỷ kheo. Các Tỷ
kheo thấy thế liền bạch với Phật, Phật dạy: "Từ nay trở đi không
nên cho bạch y và Sa di tham dự bố tát" (Ngũ phần luật, Ð.22,
tr.123a).
- Phát xuất từ
lời Phật dạy trên đây mà ngài Châu Hoằng nhắc nhở các Sa di
không được nghe lén Tỷ kheo tụng giới. Nhưng nếu Sa di vì tha
thiết cầu học, có thiện chí tiến tu, thì Ngài cổ vũ: "Nhược nhạo
quảng lãm, tự đương duyệt Luật tạng toàn thư" (Nếu muốn hiểu
biết rộng thì nên xem toàn bộ Luật tạng). Và một đoạn khác trong
Luật Sa di, Ngài khuyến khích: "Tuy Tỷ kheo sự, Sa di đương dự
tri chi" (Tuy là việc của Tỷ kheo, nhưng Sa di cũng nên tham dự
để biết). Như vậy, thiết nghĩ quan điểm của Luật sư Châu Hoằng
đã quá rõ, thế nhưng vẫn có người ngộ nhận như trường hợp ngài
Hoằng Tán. Rồi từ ý kiến của ngài Hoằng Tán, có người đã luận
giải, nêu ra ba lý do:
- 1- Nếu Sa di
xem trước giới luật Tỷ kheo rồi thấy giới pháp quá nhiều, khó
khăn, sẽ sanh tâm thối thất, không dám thọ giới Cụ túc.
- 2- Nếu Sa di
biết giới luật Tỷ kheo, khi họ thấy các Tỷ kheo thọ giới rồi mà
không giữ gìn nghiêm túc, hủy phạm cấm giới, họ sẽ sanh tâm kiêu
mạn, khinh rẻ các Tỷ kheo, do đó sẽ tổn phước, mất lợi ích.
- 3- Khi đã
biết trước giới pháp thì lúc thọ giới thấy giới không còn thiêng
liêng, tâm chí thành sẽ sút giảm nên khó đắc giới thể.
- Lý luận ấy
mới nghe qua có vẻ như hợp lý, nhưng xét kỹ thì hoàn toàn không
ổn. Vì các lẽ: Thứ nhất, chẳng lẽ những người xuất gia toàn là
những kẻ bạc nhược hết hay sao mà "thấy giới pháp nhiều sanh tâm
thối thất?"; thứ hai, lẽ nào những người xuất gia lại quá kém
phẩm chất, chuyên bới lông tìm vết, hễ "thấy Tỷ kheo phạm giới
liền sanh tâm khinh rẻ?"; thứ ba, vấn đề giới tử đắc giới thể là
do ba việc: "Giới sư thanh tịnh, Giới đàn trang nghiêm và Giới
tử chí thành", chứ đâu phải nhờ giới tử không biết trước giới
luật mà đắc giới thể?
- Quả thật lối
lập luận trên có nhiều chỗ đi xa tinh thần giới pháp và giới
luật. Ai cũng biết ngài Qui Sơn (771-833) định nghĩa người xuất
gia: "Phàm là người xuất gia là mong cất bước đến chân trời cao
rộng, hình dáng và tâm hồn khác với thế tục. Vì mục đích làm
rạng rỡ dòng thánh, trấn áp quân ma, báo đáp bốn ân và cứu vớt
ba cõi". Và các bậc cổ đức cũng đã nói: "Thế thượng phi trượng
phu đại giải thoát hán, hà năng kham thủ?" (Trên đời này, nếu
chẳng phải là bậc trượng phu đại giải thoát, thì làm sao đảm
đương nổi "sứ mệnh xuất trần"?).
- Vả lại Luật
dạy, vị thầy khi nhận đệ tử xuất gia phải chọn những người: về
hình dạng thì sáu căn phải đầy đủ, không mắc một khuyết tật nào,
về tâm hồn thì phải là người hảo tâm xuất gia, có dũng khí kiên
cường bất thối, chứ không phải ai cũng xuất gia được. Chả thế mà
ca dao ta có câu "Năm lừa mười lọc mới trọc cái đầu".
- Ðúng ra, vì
nhờ xem trước giới pháp nên Sa di biết được công dụng của giới
là "phòng phi chỉ ác", là "thuyền bè đưa người qua bể khổ", nên
họ mới sinh tâm khát ngưỡng, trông mong được lãnh thọ giới pháp.
Khi đã hiểu giới luật, thấy những điều khó làm mà các Tỷ kheo
vẫn tuân thủ nghiêm túc, thì họ càng tăng thêm tâm cung kính,
chứ làm sao dám khinh thường? Mặt khác, các Tỷ kheo khi đã hiểu
rằng mọi người đều biết những giới luật mình đã lãnh thọ, thì
càng phải nỗ lực hộ trì không dám buông lung, vì sợ thiên hạ phê
bình. Kinh nghiệm thực tế cho thấy các nước Nam phương như
Campuchia, Thái Lan..., mọi Phật tử đều biết giới luật của Tỷ
kheo và họ rất tôn kính các nhà sư, chứ không bao giờ dám coi
thường hay chỉ trích. Chính nhờ biết trước giới luật nên họ mới
có thể tạo điều kiện và tìm cách yểm trợ các sư giữ giới tốt
hơn. Tình trạng hiện nay ở thành phố ta có những kẻ lợi dụng
chiếc y vàng để đi xin ăn làm tổn thương Phật pháp. Nếu Phật tử
biết rõ giới luật, ắt họ sẽ tẩy chay và tìm cách ngăn chặn hành
vi phi pháp của những hạng người ấy, để giữ gìn sự trong sáng
của đạo pháp.
- Còn vấn đề
này nữa, tạng Luật phải chăng là bí tạng dành riêng cho các thầy
Tỷ kheo, các chúng khác không có quyền biết đến? Khẳng định như
vậy thật là vô căn cứ, không có cơ sở và trái hẳn thực tế. Vì
trong các giới điều dành cho Phật tử cũng như Sa di, không có
một giới nào ngăn cấm họ tìm hiểu giới bổn của Tỷ kheo hết. Ðành
rằng chỉ có các Tỷ kheo thọ 250 giới, và các Tỷ kheo ni thọ 348
giới mới có bổn phận tuân thủ giới pháp của mình, còn những
người khác không ai có quyền bắt họ phải tuân thủ. Ðó là nói về
trách nhiệm gìn giữ, còn việc cầu thị, tìm hiểu với thiện chí
hướng thượng thì ai cũng có quyền nghiên cứu giới luật Tỷ kheo
mà không vi phạm bất cứ điều khoản nào.
- Giả sử một hội đoàn nào đó gọi
chúng ta gia nhập, rồi mới cho biết nội quy và điều lệ, thì liệu
chúng ta có yên tâm gia nhập hay nghi ngờ hội đoàn đó có điều gì
mờ ám, bất chính? Theo lẽ thường, người có trí mỗi khi muốn tham
dự một tổ chức nào chắc chắn phải tìm hiểu tường tận điều lệ của
tổ chức ấy rồi mới tham gia. Ðó là một việc làm hợp lý và có
tinh thần khoa học.
- Vả lại,
Phật giáo là đạo công truyền chứ không phải bí truyền,
là đạo trí tuệ chứ không phải giáo điều, lại càng không chấp
nhận sự cuồng tín. Chính Ðức Phật đã bác bỏ quan điểm độc quyền
của Bà La Môn cho rằng chỉ có giáo sĩ Bà La môn mới có quyền đọc
Thánh kinh Vệ Ðà. Phật còn dạy: "Tin Ta mà không hiểu Ta, tức là
hủy báng Ta". Và một chỗ khác lại nói: "Chánh pháp được thuyết
giảng giống như bàn tay mở ra, chứ không phải bàn tay nắm lại".
Hoặc nói: "Phật pháp là thiết thực hiện tại, vượt ngoài thời
gian, đến để mà thấy, được người trí chứng ngộ". Chung quy cũng
chỉ nhằm nói lên tinh thần cởi mở, phóng khoáng, tự do tư tưởng
và tôn trọng sự thật của đạo trí tuệ mà thôi.
- Hơn nữa, bàng
bạc đó đây trong một số kinh điển đều có đề cập đến giới Tỷ
kheo; như kinh Di Giáo, Phật dạy Tỷ kheo không được buôn bán đổi
chác, không được mua ruộng tạo nhà, không được đào đất, đốn cây,
không được coi ngày, xem tướng v.v... Như vậy toàn là giới cả,
chứ có gì khác đâu. Vả lại ngày nay, kinh điển, giới luật được
in ấn, phát hành rộng rãi, ai cũng có thể tự do tìm đọc, thì làm
sao cấm người ta xem giới cho được.
- Hơn nữa, giá
như ông cha ta để lại lời di chúc cho chúng ta theo đó sống hợp
với đạo lý làm người, hầu trở thành một người hữu ích, có giá
trị, rồi chúng ta đem cất trên khám mà thờ, không biết trong đó
nói gì, thì thử hỏi hành vi ấy là tôn kính hay bất kính đối với
tổ tiên?
- Ai cũng biết
rằng tính chất của giới luật là "thanh lương", nghĩa là mát mẻ,
là "biệt biệt giải thoát", tức là giữ được điều nào giải thoát
được điều ấy, thế mà bảo rằng "người nào xem trước giới luật Tỷ
kheo thì phạm tội ngang bằng tội ngũ nghịch" thì thực không còn
biết nói thế nào nữa! Như vậy chẳng hóa ra quyển Luật Tứ phần là
một tác phẩm văn hóa độc hại hay sao? Nói kiểu ấy là chỉ nhìn
vấn đề một cách rất phiến diện và lệch lạc. Thực sự, nếu nhiều
người hiểu rành giới luật thì có lẽ xã hội sẽ tốt đẹp hơn nhiều;
và những tội ác xảy ra hàng ngày làm cho chúng ta phải đau lòng
chắc chắn sẽ giảm đi không ít.
- Ðành rằng
công đức xiển dương Luật học của ngài Hoằng Tán là đáng trân
trọng, chúng ta chẳng dám xem thường; nhưng nếu bảo phải tin một
cách tuyệt đối, không được tìm hiểu thấu đáo, thì chúng ta cũng
không thể chấp nhận, vì nó trái hẳn với tinh thần học Phật. Ðức
Phật dạy: "Khi nghe một điều gì, các ngươi chớ vội bác bỏ, cũng
chớ vội tin ngay, dù nó là Thánh điển".
- Thử hỏi, từ
khi Ðức Ðạo sư chế giới, trải qua Tổ Tổ tương truyền cho đến Tổ
Châu Hoằng (1532-1612), giới luật vẫn thuần khiết, nhất vị,
không có điều gì phải thắc mắc, đến khi ngài Hoằng Tán
(1611-1685) xuất hiện sau Tổ Châu Hoằng gần cả thế kỷ, đưa ra
một câu nói khiến cho nhiều người hoang mang, thì làm sao chúng
ta không bức xúc cho được?
- Do vậy, chúng
tôi mạo muội nêu vấn đề này ra thương xác ở đây là nhằm hai mục
đích: thứ nhất là hy vọng trấn an được phần nào nỗi hoang mang
của tầng lớp Tăng Ni trẻ, nhất là những người mới xuất gia, chưa
thọ Ðại giới; thứ hai là để cho những ai tha thiết tìm hiểu giới
pháp có thể nhận thức đúng đắn tinh thần giới luật mà đấng Ðại
giác đã từ bi truyền dạy. Vì thế, tuyệt nhiên không hề có ý phê
bình ngài Hoằng Tán ở đây. Tuy vậy, chúng tôi cũng rất mong
thỉnh thị các bậc tôn túc luật sư cao minh, và hy vọng nhận được
sự quan tâm chỉ giáo của các vị nếu có điều chi sai sót./.
--o0o--
|
|