-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Phật Học Cơ Bản
-
Tập Ba
- Ban Hoằng Pháp
Trung Ương
GHPGVN
-
Chương Trình Phật Học Hàm Thụ (1998-2002)
Nguyệt San Giác Ngộ
- --- o0o ---
- Phần
II - Bài đọc thêm
- Giới thiệu
về Kim Cang Thừa
- Nguyễn Thế Ðăng
-
1- Ðôi nét về ý nghĩa và lịch sử của
Kim cương thừa
- Kim cương
thừa (Vajrayana), còn gọi là Mật thừa, cũng như mọi tông phái
khác của Phật giáo, đều nhắm đến mục đích đạt đến trọn vẹn Phật
tánh để thành Phật. Có thể nói rằng, tông phái nào không nhắm
đến mục đích giải thoát, đạt đến Phật tánh, thì tông phái ấy
không phải là Phật giáo đích thực.
- Ngay trong
tên gọi đã nói lên điều đó: Kim cương thừa, là con đường để đạt
đến trí tuệ kim cương, Phật tánh như kim cương bất hoại, không ô
nhiễm bởi phiền não sinh tử. Phật tánh ấy bản chất là sáng (như
Phật A Di Ðà có nghĩa là Vô lượng quang), nên trong Kim cương
thừa, tánh sáng đó được gọi tên là Tịnh quang (Clear light).
Phật tánh ấy thể hiện trong ba thân: Pháp thân, Báo thân và Hóa
thân, cho nên mục đích của Kim cương thừa là đạt đến ba thân ấy.
Một ý nghĩa nữa là: Kim cương là sự kết hợp không thể phân chia
của trí tuệ, tánh Không và Ðại bi.
- Kim cương
thừa còn gọi là Tantrayana. Tulku Pema Wangyal giải thích chữ
Tantra như sau: "Kim cương thừa gồm các giáo pháp được biết dưới
tên Tantra. Phần đông chúng ta đã quen với từ Phạn này: tan
có nghĩa là một dòng, tra là cái giải thoát cho. Giải
thoát cho dòng gì? Dòng tâm thức. Tantra là cái giải thoát cho
dòng tâm thức bị nhiễm ô của chúng ta một cách rất nhanh chóng".
- Theo sự giải
thích của Tsongkapa thì Tantra có nghĩa là Phật tánh thể hiện
trong ba phần nhân, hạnh, quả. "Nghĩa của tantra là tương tục,
không đứt đoạn, có 3 phần: "căn bản" tức là Phật tánh, Như Lai
tạng tánh; "con đường" là 4 kỹ thuật tiếp thông và chứng nghiệm
nhờ vào hai giai đoạn phát triển và thành tựu; và tính Bất hoại
tức là Vô trụ xứ Niết bàn (PhậtVajradhara: Kim Cương Trì), khuôn
mẫu của Nhất như, hay là tương tục như là Quả" (The life and
teaching of Naropa - Hebert V.Guenther).
- Kim cương
thừa còn gọi là Mật chú thừa (Mantrayana). Mật chú (mantra) có
nghĩa là cái hộ trì, bảo vệ tâm để tiến đến giải thoát.
- Mục đích của
Kim cương thừa là đạt đến cái tri kiến của Phật: tất cả âm thanh
đều là chân ngôn (tức là pháp âm Phật), tất cả hiện tượng đều là
Niết bàn, tất cả chúng sanh đều là Phật. Ðó cũng là mục đích của
Thiền tông, Hoa Nghiêm tông, Thiên Thai tông...
- Trong lịch
sử, Kim cương thừa xuất hiện gần như cùng lúc với Ðại thừa, là
sự thực hành để thành tựu của Ðại thừa, như Thiền tông Trung Hoa
là sự thực hành để thành tựu của Ðại thừa. Nagarjuna (Long Thọ,
khoảng 500 năm sau Phật nhập diệt) là luận sư vĩ đại số một làm
hưng khởi Ðại thừa, cũng là một vị Tổ của Kim cương thừa. Ngài
đã viết những giảng luận về Kim cương thừa, điều đó cho chúng ta
thấy hầu như Ðại thừa và Kim cương thừa có cùng một lúc. Phái
chính thống Prasangika Madhyamika của ngài Long Thọ là cột trụ
cho mọi quan điểm về tánh Không của 4 phái Phật giáo Tây Tạng.
- Cả hai trường
phái Trung quán và Duy thức đều đóng góp rất nhiều vào việc phát
triển Kim cương thừa. Cụ thể với Trung quán là tánh Không và với
Duy thức là sự nghiên cứu những biến hiện của tâm thức, trở
thành một lý thuyết cho sự quán tưởng và tương ưng (Du già) của
Kim cương thừa.
- Phát xuất từ
Ấn Ðộ, Kim cương thừa được những đại sư nổi tiếng ở Nalanda như
Shantirashita và Padmasambhava... truyền vào Tây Tạng từ thế kỷ
thứ 8. Hầu hết kinh điển Phạn ngữ đã được dịch, và qua sự truyền
trực tiếp, bởi thế Phật giáo Tây Tạng rất gần gũi với Phật giáo
Ấn Ðộ vào thời kỳ Ðại thừa và Kim cương thừa ở Ấn Ðộ.
-
2- Ðường lối của Kim cương thừa
- Kim cương
thừa là sự tịnh hóa ba nghiệp thân, khẩu, tâm để trở thành thân,
khẩu, tâm của một vị Phật. Khi ba sự tịnh hóa ấy thành tựu, gọi
là ba nghiệp tương ưng, tức là ba nghiệp tương ưng trọn vẹn với
Phật tánh. Thân trở thành Hóa thân, khẩu trở thành Báo thân và
tâm trở thành Pháp thân của Phật. "Mật thừa có 4 đặc tính: thứ
nhất là pháp Du già tịnh hóa triệt để môi trường chung quanh;
thứ hai là pháp Du già tịnh hóa triệt để thân xác; thứ ba là
tịnh hóa triệt để mọi cảm thọ; thứ tư là pháp Du già tịnh hóa
triệt để mọi hành vi. Bất cứ giáo lý nào chứa đựng bốn sự tịnh
hóa ấy đều là Mật thừa" (Geshe Kelsang Gyatso).
- Ðức Ðạt lai
Lạt ma thứ 13 nói: "Ðối với những ai chưa thỏa mãn các pháp thực
hành Hiển thừa, thì có 4 loại tantra: krya, charya, yoga và yoga
tantra tối thượng. Tinh túy của bốn loại này là yoga tantra tối
thượng hay là "phần tantra tối cao"; qua nó, sự giác ngộ viên
mãn về Phật tánh rốt ráo có thể được hoàn thành chỉ trong một
đời này. Ðể hoàn thành Phật tánh tròn đủ, người ta cần một con
đường kết hợp cả hai mặt: phương tiện (năng lực) và trí tuệ
(quán chiếu). Ðiều này tạo ra trạng thái đại hòa hợp của thân và
tâm đã được tịnh hóa, đây là sự đạt đạo tối hậu. Trong các
tantra tối thượng, "phương tiện" ám chỉ các yoga thân huyễn
(illusory body) và "trí tuệ" để chỉ các yoga tịnh quang (clear
light) (The practice of Kalachakra).
- Sự tịnh hóa,
thăng hoa, tương ưng ấy được thực hiện qua nhiều phương tiện,
phương pháp, kỹ thuật.
- *
Thần chú (mantra): Bình thường, câu nói nào của chúng
ta cũng tạo thành một tâm tương ứng. Như nói, tôi thương A lắm,
tôi ghét B lắm. Lập tức, câu nói ấy tạo thành một trạng thái tâm
thương và tâm ghét nơi ta. Thần chú cũng ảnh hưởng đến chúng ta
theo cách ấy. Thần chú là những âm thanh, những tần số mà vũ trụ
này tạo thành bằng những tần số rung động. Năng lượng là những
rung động ở tần số rất cao. Vật chất là những rung động ở tần số
cấp thấp. Khi khoa học nói: vật chất là năng lượng cô đặc, có
nghĩa là tùy theo mức độ rung động mà có những thế giới từ thô
đến tế. Vì thần chú là những rung động, nên nó có thể làm cho
chúng ta tương ưng với những rung động vi tế, những năng lượng
vi tế, những thế giới vi tế. Thần chú là những âm thanh do chư
Phật, Bồ tát nói ra khi đang ở trong tam muội, trong cảnh giới
tự chứng, trong tâm giác ngộ của các Ngài; nên khi trì chú,
chúng ta cũng có thể tương ưng với tam muội ấy, cảnh giới ấy,
tâm ấy của chư vị. Thần chú là cây cầu âm thanh bắc từ tâm thức
thấp trược của chúng ta đến tâm cao sáng của chư vị giải thoát.
Ngôn ngữ lại có tính cách thông tin, truyền đạt, khai mở, duy
trì; thần chú cũng có tính cách thông tin, truyền đạt, khai mở,
duy trì tâm giác ngộ như thế. Một ví dụ là muốn khai mở tình
thương ở nơi ta bằng cách tiếp thông với tâm từ bi của Quán Thế
Âm Bồ tát, chúng ta có thể trì chú Lục tự đại minh hoặc Ðại Bi
của Ngài.
- * Ấn
(mudra): Kim cương thừa quan niệm thân tâm ta là một
tiểu vũ trụ tương tự với đại vũ trụ bên ngoài. Như kinh nói:
"Trong thân thể này có sự sinh thành thế giới, sự duy trì thế
giới và sự hoại diệt của thế giới", sự tương quan mật thiết của
thân tâm ta và thế giới là như vậy.
- Ấn là những
cách thế, xếp đặt thân thể (nhất là 5 ngón tay tượng trưng cho 5
đại) để có được một sự điều hòa đem lại một trạng thái tâm thức
nào đó. Các hóa thần ôm ấp nhau thường thấy ở các hình ảnh Kim
cương thừa cũng là một loại ấn (karma mudra). Ở đây chẳng có gì
là dục tính. Sự ôm ấp âm dương ấy là sự kết hợp của phương tiện
"dương" và trí tuệ "âm", sự kết hợp của Ðại lạc "dương" và tánh
Không "âm". Sự kết hợp khách quan ấy còn phản ánh vào trong
chính thân tâm của con người: khi quán tưởng các hình ảnh kết
hợp âm dương ấy, những năng lực âm dương, bên tả và bên hữu
trong thân thể sẽ kết hợp với nhau, tạo thành một sự bùng nổ
năng lực rất cao.
- * Mạn
đà la (mandala): là một hình vẽ biểu thị vũ trụ, vũ trụ
trong cái nhìn của một bậc giác ngộ. Theo Duy thức, vũ trụ chính
là sự biến hiện của tâm ta, cho nên mạn đà la vừa biểu thị vũ
trụ, vừa biểu thị tâm ta. Quán tưởng mạn đà la là quán tưởng vũ
trụ, đồng thời quán tưởng tâm mình. Sự quán tưởng đó dựa trên
tánh Không, nên vũ trụ vốn Không mà tâm ta cũng vốn không. Ở
đây, chúng ta thấy Thiền tông cũng diễn tả về tâm và vũ trụ
tương tự như vậy; tâm mở ra thì đầy khắp pháp giới, quy về thì
nhỏ thành một điểm không thể thấy. Quán tưởng mạn đà la cũng bắt
đầu từ một điểm trung tâm; từ đó nới rộng ra đến ngoại biên.
Quán tưởng Kim cương thừa thường bắt đầu từ một chủng tử (bija)
ở trung tâm lực trái tim, phóng ánh sáng đến tất cả chúng sanh
và chư Phật trong mười phương thế giới, rồi ánh sáng và thế giới
đó lại thu về trong chủng tử tự; sau cùng, cả chủng tử tự này
cũng tan biến vào tánh Không bổn nhiên.
- Mạn đà la là
một đồ hình vũ trụ thu nhỏ. Theo lý thuyết cắt phần đồ hình khoa
học hiện nay, nếu cắt một phần của tấm ảnh, một phần đồ hình
biểu lộ toàn thể tấm ảnh. Mạn đà la là hình ảnh thu nhỏ của
vũ-trụ-trong-bản-chất-giác-ngộ-của-nó, nên năng lực của
vũ-trụ-trong-bản-chất-giác-ngộ đó cũng biểu hiện nơi mạn đà la.
Cũng như một tượng Phật, tuy không phải là chính Ðức Phật, nhưng
nó cũng mang một năng lực nào đó của giác ngộ. Bởi thế, trong
những lễ quán đảnh, đệ tử nhập môn được đưa vào chiêm ngưỡng mạn
đà la, để tiếp xúc với năng lực giác ngộ. Mạn đà la Kalachakra
được đặt vĩnh viễn ở Bảo tàng New York, theo cảm tưởng của khách
đến tham quan, cho một cảm giác an bình kỳ lạ (The wheel of
time).
- * Hóa
thần (yidam, tiếng Anh: deity): Nói là thần theo lối
nói bình dân, thật ra hóa thần là hóa thân của một vị Phật trong
Kim cương thừa. Ví dụ Ðức Quán Thế Âm có nhiều hóa thân: Tara,
Quán Âm 11 mặt... Kinh nói đến 32 tướng thân (Hóa thân) của Quán
Thế Âm. Như thế, khi quán tưởng hóa thần tức là quán tưởng Hóa
thân của một vị Phật. Cũng như nhìn thấy hình tướng của người
nào, ta cảm thông với tâm người đó; nghe tiếng nói ai đó bên kia
vách, ta cảm nhận được phần nào tâm người đó; khi quán tưởng hóa
thần, chúng ta cũng tương ưng với tâm giải thoát của chư Phật.
Khi trì thần chú, tức âm thanh của vị ấy, ta tiến gần đến
"khẩu", "ngữ" của bậc giải thoát ấy. Những hóa thần có loại hiền
lành, có loại dữ tợn để đối trị với tâm bệnh của hành giả.
- Qua vài điểm
trên với lời giải thích sơ sài, chúng ta thấy Kim cương thừa là
sự thực hành của Ðại thừa với nhiều phương tiện, nhưng mục đích
đều là đạt đến thực tại rốt ráo như Ðại thừa. Có điều Kim cương
thừa nhấn mạnh đến năng lực, như khi Thiền tông biểu thị thực
tại rốt ráo - tức là tánh Không - thì vẽ một vòng tròn trắng.
Kim cương thừa cũng đồng ý với vòng tròn trắng đó, nhưng với Kim
cương thừa thì vòng tròn trắng Không ấy chứa đầy năng lực. Chú ý
đến phương diện năng lực của thực tại là một điểm rất đặc thù
của Kim cương thừa. Vũ trụ là năng lực, như thế giới Hoa Nghiêm
là sự giao thoa trùng trùng của ánh sáng và năng lực, như năng
lực vũ trụ được gọi là Phật lực trong phẩm Như Lai thần lực của
kinh Pháp Hoa. Bởi thế, những phương tiện thiện xảo của Kim
cương thừa phần nhiều chú trọng đến năng lực, nhưng trong một
hình thức cụ thể, do đó dễ thực hành và có nhiều hiệu quả.
-
3- Những đặc điểm của Kim cương thừa
- Trong lời
giới thiệu cuốn The practice of Kalachakra, Ðức Ðạt lai
Lạt ma viết: "Tu hành tantra mạnh mẽ hơn sự tu hành tổng quát
của kinh điển, vì một số lý do. Một trong số đó là tantra bao
gồm cả hai yếu tố "phương tiện" và "trí tuệ". Trong con đường
kinh điển, người ta thiền định về tánh Không, hay là tính cách
và tự tánh của các hiện tượng trong ước nguyện đạt đến giác ngộ
vì động lực đại bi. Thiền định về tánh Không là yếu tố trí tuệ,
còn nguyện vọng Bồ tát là phương tiện. Tuy nhiên, trong con
đường Kinh thừa này, hai yếu tố ấy không thể thực hiện đồng thời
trong một tâm niệm bởi một hành giả ở mức độ bình thường. Trong
con đường Mật thừa (Tantra), người ta quán tưởng mạn đà la và
các hóa thần bổn tôn, và rồi tập trung vào tánh Không của chúng.
Theo con đường này, phương tiện và trí tuệ sanh khởi đồng thời
trong một tâm.
- Trong Phật
tánh, phương tiện và trí tuệ, thân và tâm, là một vị. Con đường
tantra dùng động lực này ngay từ khởi điểm, và như thế làm phát
sinh giác ngộ rất nhanh chóng. Tính cách đặc biệt của con đường
tantra là nó đem một phương diện quan trọng của kết quả do thực
hành - tính toàn diện của Phật tánh - vào trong cơ cấu của sự tu
hành ngay lúc khởi đầu. Thiền định được tiến hành với trí tuệ
soi thấu tánh Không, và chính cái tâm thức tập trung vào tánh
Không này được phát sinh trong hình tướng của các hóa thần thủ
hộ của mạn đà la. Ðây là đặc trưng của tất cả bốn loại tantra.
Trong yoga tantra tối cao, nguyên lý này được vận dụng hơn nữa,
hành giả sử dụng những mức độ vi tế nhất của những năng lực thân
thể và của tâm thức, những mức độ mà người không tu hành không
thể thâm nhập.
- Ở đây, tịnh
quang được dùng như nguyên nhân chất thể đặc biệt của Pháp thân
Phật. Qua việc đem tịnh quang vào con đường tu hành, giác ngộ
tức thời trở nên có thể. Kỹ thuật tối tinh tế này chỉ được tìm
thấy trong yoga tantra tối cao".
- Kim cương
thừa sử dụng tất cả những gì mà con người có thể có được trong
thân tâm mình để tiến bộ trên đường giải thoát. Bởi thế, có một
câu nói nổi tiếng rằng: "Con người đã ngã té trên đất, hắn phải
nhờ chính mặt đất để đứng dậy". Sự nhấn mạnh vào phương tiện,
phương pháp, kỹ thuật là một đặc điểm của Kim cương thừa.
- Những phương
tiện đó với người không theo Kim cương thừa đôi khi có vẻ kỳ lạ,
ví như quán tưởng mình là một vị hóa thần (deity) và thế giới
chung quanh là một mạn đà la của hóa thần ấy. Thật ra, sự quán
tưởng ấy có tác dụng rất mạnh để phá chấp ngã và chấp pháp:
không có ngã, không có pháp là cốt tủy của Ðại thừa. Khi quán
tưởng tự thân là hóa thần, có được sự kiêu hãnh kim cương (vajra
pride), cái ngã sẽ tan biến vào chính tánh Không của hóa thần;
và khi thấy thế giới bên ngoài là một mạn đà la, sự phân biệt
ta-người, xấu-tốt, dơ-sạch, tăng-giảm... sẽ biến mất. Ðây là sự
phá hủy các hình tướng thế tục, sự xuất hiện của thế gian do
vọng tưởng kết thành - là những thứ mà kinh Kim Cương gọi là
"phi tướng" trong câu kinh: "Kiến chư tướng phi tướng tức kiến
Như Lai". Và vì là quán tưởng cho nên cả hóa-thần-ta và
mạn-đà-la-thế-giới đều là tánh Không, như mộng huyễn bào ảnh,
như lộ diệc như điển... Dĩ nhiên, đây chỉ là một công dụng của
việc quán tưởng hóa thần và mạn đà la, còn nhiều công dụng không
thể nói hết đối với con đường Phật pháp. Và vì nhiều công dụng
không thể nói trọn, nên Kim cương thừa được gọi là Mật.
- Một phương
tiện khác là nguyên lý tâm-khí bất nhị. Theo quan niệm này, một
loại tâm bao giờ cũng cưỡi trên một loại khí nào đó. Tâm sân thì
cưỡi trên khí sân. Khí là thân vi tế của tâm. Không có khí, tâm
sẽ không có hình tướng, sẽ không hiện hành. Khi trong ta không
có khí sân, tâm sân sẽ không có chỗ hiện hữu; dầu có muốn tưởng
đến sân, nó cũng không hiện hành. Bởi thế, khác với các tông
khác nhằm tịnh hóa tâm thức, Kim cương thừa còn nhằm đến sự tịnh
hóa cái khí (winds). Một trong những công dụng của thần chú là:
vì thần chú là một rung động đặc biệt và vi tế, nên nó là một
phương tiện để tịnh hóa cái khí này, tịnh hóa khí cũng là tịnh
hóa nghiệp, vì chủng tử nghiệp có "nhà ở" trong khí. Khí được
tịnh hóa thì tâm cũng được tịnh hóa. Khí được tịnh hóa cùng cực
thì tâm giải thoát. Khí là thân thể vi tế của chúng ta. Khí cùng
với những hạt (drops) vi tế trong thân và hệ thống kinh mạch
(channels) tạo thành thân thể vi tế (như có thân của giấc mộng,
thân sau khi chết - thân trung ấm...). Thân vi tế này được tịnh
hóa thì gọi là thân kim cương. Ở những chỗ kinh mạch đan nhau,
thắt gút với nhau trên đường kinh mạch trung ương (central
channel), gọi là các trung tâm lực hay luân xa (chakra). Cũng
chính trong khí này và trong những luân xa mà nghiệp trú ngụ,
gọi là khí nghiệp (karam winds). Tịnh hóa thân trong Kim cương
thừa chính là tịnh hóa khí nghiệp này để xóa tan những ngăn che
với ánh sáng của tánh Giác.
- Thân thể vi
tế bằng khí đó khi được tịnh hóa cùng cực sẽ thành thân huyễn
(illusory body), thân trống không (empty body), thân kim cương
và cuối cùng là Sắc thân (Rupa-kaya) hay Hóa thân của một vị
Phật. Trong Kim cương thừa, khí là phương tiện ám chỉ illusory
body, đây là cái mà các father tantra (như Guhyasamaja,
Yamantaka...) thiên về. Còn tâm là "trí tuệ" ám chỉ clear light,
đây là cái mà các mother tantra (như Kalachakra, Heruba...)
thiên về. Trong các tantra tối cao, chính cái thân cùng cực vi
tế và trong sạch này (illusory body) sẽ kết hợp với tâm tịnh
quang để tựu thành giác ngộ; lúc ấy, thân này là Hóa thân của
một vị Phật và tâm tịnh quang là Pháp thân. Danh từ chuyên môn
gọi điều này là sự kết hợp không còn học hỏi nữa. Với Kim cương
thừa, sự việc đó được diễn tả trong các hình vẽ bằng một vị hóa
thần ôm người nữ của mình, tức là thân vi tế cùng cực sạch hết
nghiệp kết hợp với tâm vi tế cùng cực, thân kim cương kết hợp
với ánh sáng trí tuệ kim cương, xóa tan mọi che chướng đạt đến
toàn giác.
- Một trong
những phân biệt khác của Kim cương thừa và Kinh thừa là theo
quan niệm của Kim cương thừa, Kinh thừa là thừa nhân (cause
vehicle) và Kim cương thừa là thừa quả (effect vehicle). Gọi Ðại
thừa hiển giáo là thừa Nhân, vì sự tu hành của nó y cứ trên
những nhân là sáu Ba la mật, hai thứ tích tập phước đức và trí
tuệ... trải qua nhiều đời để thành tựu quả là Phật. Còn Kim
cương thừa là thừa Quả, nghĩa là Kim cương thừa đặt nền tảng tu
hành trên chính cái quả là Phật tánh vốn có nơi mỗi hành giả
ngay tự bước khởi đầu. Thay vì con người là một vị Phật sẽ
thành, thì ở đây người ấy vốn có Phật tánh, vốn tự là Phật; sự
tu hành, tiến bộ chỉ là sự hiển lộ của Phật tánh sẵn có thôi.
Sống ở trên Quả có nghĩa là một hành giả Kim cương thừa phải
thấy thế giới này như thế giới của một vị Phật đã chứng, một
Tịnh độ của Phật, phải thấy mình là một Hóa thân Phật, ăn uống,
ngủ nghỉ đều là sự sinh hoạt của một vị Phật trong cảnh giới tự
chứng của mình. Nói theo ngài Tangtong Gyalso (thế kỷ 14) khi
dạy về pháp Quán Thế Âm: "Hành giả quán thấy toàn thể ngoại cảnh
đều được quang minh chiếu soi. Tất cả những sự vật bình thường
đều trở thành những vật phẩm trang nghiêm của cõi Tịnh độ Cực
lạc, tất cả chúng sanh đều thành tựu viên mãn, thân họ là thân
Quán Thế Âm, bất cứ họ nói gì đều là Lục tự chân ngôn, bất cứ họ
nghĩ gì đều là hoạt dụng tự phát của tâm giác ngộ. Hiển nhiên,
bản thân hành giả cũng được chuyển hóa như vậy. Nói một cách dễ
hiểu hơn, tất cả những hiện tượng trong vũ trụ đều chuyển hóa
thành những hình thái mà lẽ ra chỉ có thể có được nơi cảnh giới
của một vị Phật giác ngộ".
- Một đặc điểm
nữa của Kim cương thừa là biến tất cả mọi sinh hoạt đời sống
thành sự tu hành, thành con đường giác ngộ, lợi dụng tất cả cơ
hội của đời sống để đạt đến Phật tánh; ví dụ lợi dụng giấc ngủ
để thành tựu clear light của giấc ngủ, lợi dụng giấc mơ
để thành tựu illusory body, lợi dụng cái chết để đạt đến
clear light của cái chết... Có chín cách đưa những trạng
thái của đời sống vào sự thực hiện Pháp thân, Báo thân, Hóa thân
như vậy: hội nhập với Pháp thân, Báo thân, Hóa thân trong trạng
thái thức; hòa nhập với Pháp thân, Báo thân, Hóa thân trong
trạng thái ngủ; hòa nhập với Pháp thân, Báo thân, Hóa thân trong
trạng thái chết (Clear Light of Bliss, Geshe Kelsang
Gyalso).
- Cuộc sống sau
lúc ngồi thiền cũng là một sự tu hành. Tsongkapa nói: "Khi đã
thấy Lạc và tánh Không trong thiền định, thì trong đời sống sau
thiền định, hành giả phải thấy sắc, thanh... là sự kết hợp giữa
Lạc và Không, do đó suốt đời sống hàng ngày là một "xuất thần"
liên tục (Six Yogas of Naropa).
- Một đặc điểm
của Kim cương thừa là sự tích tập phước đức nhanh hơn so với Ðại
thừa thông thường. Như chúng ta đã biết, Phật là bậc Lưỡng Túc
Tôn, hai thứ tích lũy trí tuệ và phước đức đã trọn vẹn. Quá
trình tích lũy phước đức đã đầy đủ rồi, thì có được Sắc thân
Phật với 32 tướng chánh và những tướng phụ. Ðây là một quá trình
mà theo Kinh thừa phải tu tập lâu dài nhiều kiếp. Với Kim cương
thừa, sự tích lũy phước đức này có thể rút ngắn lại trong một
đời bằng sự quán tưởng hóa thần (và những quán tưởng khác). Sự
thiền định này tạo ra một tương tự về Sắc thân, nơi cư trú, tài
nguyên và hoạt động của một vị Phật.
- Một đặc điểm
nữa của Kim cương thừa là việc chuyển hóa các phiền não tiêu cực
(tham, sân, si...) thành Bồ đề. Ðây cũng là một chủ đề của Kinh
thừa, nhưng ở Kinh thừa có tính cách lý thuyết hơn, như nói:
Phiền não tức Bồ đề, tánh của tham sân si là Bồ đề... Chúng ta
hãy xem một đoạn rút ngắn lời dạy của Padmasambhava về sự chuyển
hóa sợ hãi bằng những chủ đề của Ðại thừa thông thường như tánh
Không, như huyễn, bất nhị...
- "Ðể cắt đứt
sự chấp ngã và tin vào ma quỷ, hãy đến một nơi dễ sợ nhất cắm
trại. Hãy bắt đầu với việc quy y Tam bảo, phát triển Bồ đề tâm
và cầu xin bổn sư. Rồi sau một hồi lâu quán tưởng Từ bi và Bồ đề
tâm đối với tất cả chúng sanh nhiều như hư không, mà trước hết
là với ma quỷ của vùng ấy...
- Thứ hai, để
cắt đứt sự chấp ngã, hãy nhận biết rằng mọi đối tượng là không
thực. Khi nhận ra mọi đối tượng là không thực, mọi ý niệm đều là
vọng tưởng, mọi sự đều trống không, và cái thấy biết của con bấy
giờ cũng như một giấc mộng, hay một ảo giác huyễn hóa, lúc ấy
hãy đi ngủ trong một trạng thái Không - vô quái ngại, trong đó
rốt ráo không có gì hiện hữu...
- Thứ ba, để
cắt đứt, hãy hiểu tánh bất nhị nhờ vào cái thấy vững chắc của
giai đoạn thành tựu. Dùng sự sợ hãi, sự tin vào ma quỷ để nâng
cao tính chất bất nhị. An trụ thư thả trong trạng thái bất nhị,
trong đó thân và tâm là không hai, bạn và thù là không hai, chư
Thiên và ma quỷ là không hai. Tóm lại, an trụ trong trạng thái
nơi đó không có bất kỳ hiện tượng nhị nguyên nào. Nếu ma quỷ
thực sự xuất hiện, hãy nhảy vào lòng ma quỷ và con sẽ đi xuyên
qua nó không chướng ngại trong tánh Không bất nhị và không nền
tảng. Cuối cùng, ma quỷ không có một thực thể nào.
- Kết quả là,
khi con hiện hữu thì các ma quỷ còn hiện hữu; khi con bình an
thì các ma quỷ bình an; khi con giải thoát thì các ma quỷ được
giải thoát; khi con được thuần hóa, các ma quỷ cũng được thuần
hóa. Ma quỷ là ma quỷ của chính con, và cắt đứt nó làm cho con
an bình. Thế nên, chính là một sự nâng cao, làm mạnh thêm trí
huệ khi giáp mặt với một nơi chốn đáng sợ hơn là thiền định
trong ba năm" (Advice from Lotus, Born).
- Cuối cùng,
trong Kim cương thừa cũng có những phương pháp chỉ dạy trực tiếp
như Thiền tông với "bất lập văn tự, ngoại giáo biệt truyền, trực
chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật". Ðó là Ðại Ấn (Mahamudra)
của phái Kargyu và Ðại Toàn Thiện (Maha-Ati) của phái Nyingma.
Ðại Êẽn chính là tánh Không. Trong kinh Ðịnh Vương (King of
Concentration Sutra), Ðức Phật nói: "Tánh của tất cả các pháp là
Ðại Ấn". Dùng ấn tánh Không này ấn tất cả các pháp, kể cả tâm
thức và tư tưởng, đưa tất cả trở về tánh Không để giải thoát".
- Mức độ cao
nhất của Ðại Ấn là chỉ thẳng thực tại. Shamar Rinpoche nói:
"Loại Mahamudra thứ ba, Mahamudra cốt lõi thì không có gì chung
với hai loại trước. Trong cách tiếp cận của Trung quán, sự tham
cứu mãnh liệt thiết lập một niềm tin vững chắc trong tâm hành
giả, dẫn người ấy thấu hiểu Ðại Ấn. Trong Mahamudra Mật thừa,
anh ta dựa vào thiền định về hóa thần và cách thực hành Yoga.
Nhưng ở đây không cần đến những việc đó.
- Vị thầy đã
giác ngộ và học trò sẵn sàng được giác ngộ. Nó là sự nhận biết
trực tiếp về tâm bởi tâm, trực tiếp thiền định về Quả hơn là
trải qua nhiều bước. Ðệ tử có thể nhận ra tâm mình và những biểu
lộ của nó mà không dựa vào bất cứ phương pháp nào ở trên, đơn
giản vì có người chỉ thẳng nó ra cho y; lúc đó, trí tuệ thông tỏ
của y nhận ra cái y được chỉ cho. Với một số người, sự nhận ra
ấy là tức thời. Ðây là phương pháp rất sâu xa, cao hơn hết mọi
thứ, được Saraha, Tilopa và Milarepa truyền thụ" (The Change
of Expression).
- Còn Ðại Toàn
Thiện có nghĩa là Phật tánh vốn sẵn đủ, vốn tự toàn thiện ở mỗi
chúng ta, không cần chỉnh trị, sửa sang thêm bớt, không phải tu
tập, chỉ cần thấy nó (kiến), tham thiền về nó (thiền định) và
sống với nó (hạnh). Chúng ta thấy lời dạy của Padmasambhava cho
đệ tử không khác gì "tức tâm tức Phật" của Mã Tổ:
- Hãy nghe đây, Dorje Dudjom họ
Nanam!
Cái có tên là "tâm sáng tỏ của giác ngộ"
Là vốn sẵn bên trong, bổn nhiên tự hữu và không có trung tâm,
cũng chẳng có chu vi
Chớ sửa chữa, chỉnh trị nó, mà ở trong trạng thái tự thông tỏ và
trống sáng tự nhiên
Không thay đổi, không làm biến chất, mà an trụ giải thoát trong
tánh bổn nhiên!
Ở yên như thế, tâm con người thoát khỏi động niệm
Chính tâm ấy là Phật!
- Với Ðại Ấn và
Ðại Toàn Thiện, chúng ta có thêm những phương cách để làm phong
phú thêm Thiền tông.
- Qua vài điểm
đại cương ở trên, chúng ta có thể có một cái nhìn khái quát về
Kim cương thừa và cũng hiểu phần nào tại sao hiện nay Kim cương
thừa là tông phái có ảnh hưởng lớn trong việc thâm nhập của Phật
giáo vào Tây phương. Kim cương thừa cũng là một tông phái ít bị
thay đổi so với Phật giáo Ấn Ðộ, cho nên còn mang những tinh túy
của Phật giáo Ấn Ðộ./.
--o0o--
|
|