-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Phật Học Cơ Bản
-
Tập Ba
- Ban Hoằng Pháp
Trung Ương
GHPGVN
-
Chương Trình Phật Học Hàm Thụ (1998-2002)
Nguyệt San Giác Ngộ
- --- o0o ---
- Phần
II - Bài đọc thêm
- Cơ sở triết
lý của Tam Luận Tông
- Khải Thiên
-
I. Lịch sử truyền thừa của Tam Luận
Tông
- Tam luận tông
là một trong những tông phái của Phật giáo, thiên về duy tâm
luận phủ định. Về cơ sở truyền bá và xiển dương, Tam luận lấy
kinh Bát Nhã làm nền tảng; từ Bát Nhã mà tạo ra Trung quán luận
(Màdhyamika-sàstra), Thập nhị môn luận (Dvàdasadvara-sàstra).
Hai tác phẩm vĩ đại này đều do Long Thọ trước tác. Bên cạnh đó,
là tác phẩm Bách luận (Satasàstra) của Ðề Bà (Arya-deva).
Do y cứ trên ba bộ kinh-luận này mà có tên là "Tam luận". Về
sau, có thêm một bộ luận kỳ vĩ nữa, cũng của Long Thọ, là Ðại
Trí Ðộ luận (Prajna pàramità-sàstra), vì thế có khi gọi là "Tứ
luận".
- Mục tiêu của
luận thuyết này là "phá tà hiển chánh", do đó, những nỗ lực và
bước đi táo bạo của nó đều nghiêm túc phê bình các quan điểm sai
lầm về Phật pháp của tất cả bộ phái Phật giáo cũng như là ngoại
đạo tà giáo (1). Ở đây, trước hết nó phê bình những quan điểm
sai lầm của các bộ phái Phật giáo, rồi đến phê bình những quyết
đoán lệch lạc của các nhà Ðại thừa (Mahayanists). Ðây là lý do
khai sinh của Tam luận.
- Nhưng cho đến
khi Tam luận được truyền sang Trung Hoa, thì nó bắt đầu xuất
hiện như là một tông phái cùng với sự xuất hiện của Cưu Ma La
Thập (Kumàrajìva), người Kucca (Qui Tư). Từ đó, Tam luận tông ra
đời.
- Khởi đầu vào
thế kỷ thứ V TL, Cưu Ma La Thập đã phiên dịch Trung luận và
truyền cho Ðạo Sanh, Ðàm Tế và Ðạo Lãng (2). Ðến thế kỷ thứ
VI.TL, Pháp Lãng, một đạo sư trứ danh đương thời, truyền cho Cát
Tạng (3). Ðến thế kỷ thứ VII.TL, Cát Tạng truyền cho Huệ Quán,
Huệ Quán sang Nhật năm 625 và truyền bá Tam luận tại chùa Nguyên
Hưng (Gwangoji) ở Nại Lương (Nara)...
- Sau Cát Tạng,
Tam luận tông tạm dừng phát triển (mà chuyển sang Nhật Bản bởi
Huệ Quán) vì bấy giờ Huyền Trang và đệ tử là Khuy Cơ đang hưng
khởi Pháp tướng tông. Mãi đến năm 679, một vị Tăng tên là
Suryaprabhàsa đến Trung Hoa giảng Tam luận cho Hiền Thủ, từ đó
dòng tân Tam luận tông ra đời (4).
-
II.- Cơ sở lý luận - phê bình của Tam
Luận Tông
- Trong bài tụng mở đầu của Trung
quán luận, Long Thọ viết rằng:
- "Bất sinh diệc bất diệt
Bất thường diệc bất đoạn
Bất nhất diệc bất dị
Bất lai diệc bất xuất
Năng thuyết thị nhân duyên
Thiện diệt chư hý luận
Ngã khể thủ lễ Phật
Chư thuyết trung đệ nhất" (5)
- Bản dịch tiếng Anh của
Stcherbatsky (6):
- "The perfect Buddha,
The foremost of all teachers I salute,
He has proclaimed
The principle of (universal) relativity.
Is like Blissful (nirvana),
Quiescence of plurality
There nothing appears,
Nothing has an end,
Nor is there anything eternal
Nothing is identical (with itself)
Nor is there anything differentiated,
Nothing moves,
Neither hither no thither".
- Bài tụng trên có thể tạm dịch như
sau:
- "Ðấng Toàn giác Vô thượng
Ngài đã tuyên thuyết
Nguyên lý tương đối trong vũ trụ
Như Niết bàn
Vắng lặng mọi sai biệt
Không có gì biến mất
Cũng không có gì xuất hiện
Không có gì đoạn diệt
Cũng không có gì thường hằng
Không có gì đồng nhất (với chính nó)
Cũng không có gì sai biệt
Không có gì di chuyển từ chỗ này hay chỗ kia".
- A- Cơ sở một:
Từ bài tụng trên, trước hết chúng ta thấy chủ đích của nó được
thể hiện qua hàng loạt cách ngôn phủ định "không... không...
không...". Như thế, có thể nói, cơ sở lý luận-phê bình của Tam
luận (mà ở đây là Trung luận) là "phủ định biện chứng"
(dialectical negation). Và, mục đích của phủ định biện chứng của
Trung luận là "diệt hý luận" (nisprapãnca); và, luận cứ cơ bản
của phéáp phủ định biện chứng này là "tứ cú" (7):
- 1- Hữu (sat)
2- Vô (asat)
3- Diệc hữu diệc vô (cũng có, cũng không)
4- Phi hữu phi vô (không có, không không)
- Bốn luận cứ
trên là một hàng rào "tối hậu", nhằm đưa mọi lý luận trở về kết
luận. Ở đây buộc đối phương phải trả lời một cách dứt khoát; và
đương nhiên sẽ không có bất kỳ một câu trả lời xuất sắc nào có
thể lẩn trốn được bốn luận cứ xác quyết này, khỏi cần bàn đến
câu hỏi, cũng không màng đến câu trả lời nữa! Do đó, nếu không
nắm được luận cứ cơ bản này, thì sẽ không hiểu được cách lý luận
phê bình của phép phủ định biện chứng.
- B- Cơ sở hai:
Bước thứ hai của phép phủ định biện chứng này, cần phải biết, đó
là Bát bất (tám cái KHÔNG), hay còn gọi là tám cái phủ định:
- 1- Không sinh
2- Không diệt
3- Không thường
4- Không đoạn
5- Không giống
6- Không khác
7- Không đến
8- Không đi
- Như thế, trên
nền tảng của tám cái phủ định này, cái gì có thể tồn tại? Thực
ra đây là sự phủ định, phủ định tất cả sắc thái đặc thù của hiện
hữu. Ở đây, hễ cái gì bám vào hữu, vô, sinh, diệt, thường, đoạn,
đồng, dị, khứ, lai thì đều là sai lầm, hay những hiện hữu nào
sinh khởi từ chúng cũng đều là sai lầm. Do đó, đặc điểm của phép
phủ định biện chứng này là phủ định liên tiếp, phủ định luôn cả
cái được phủ định. Tỉ dụ, phủ định ý niệm sinh khởi (sinh) bằng
ý niệm đoạn diệt; phủ định ý niệm đoạn diệt bằng ý niệm đến
(lai); phủ định ý niệm đến bằng ý niệm đi (khứ); phủ định mọi ý
niệm trên bằng thường hằng; phủ định ý niệm thường hằng bằng
đoạn diệt; phủ định ý niệm đoạn diệt bằng đồng thể (nhất); phủ
định ý niệm đồng thể bằng sai biệt (dị); phủ định ý niệm sai
biệt bằng sinh khởi... Cứ như thế mà phủ định sạch sẽ mọi ý niệm
chấp trước bám víu vào hữu, vô, sinh, diệt, thường, đoạn, đồng,
dị, khứ, lai.
- C- Cơ sở ba:
Bước thứ ba của phép biện chứng phủ định này là Trung đạo
(Middle way) - tức con đường Giữa; mà, đã ở Giữa đương nhiên
phải có hai bên - hai bên đó được gọi là Nhị đế: Chân đế và Tục
đế. Từ đó suy luận, hễ bên này là Chân, thì bên kia là Tục. Tỉ
dụ:
- 1- Hữu đối
lập với vô: Hữu là tục; vô là chân
- 2- Hữu-vô đối
lập với phi hữu-phi vô: Hữu-vô là tục; phi hữu phi vô là chân.
- 3- Nếu cả 4
luận cứ trên là tục, thì luận cứ nào phủ định chúng là chân:
Hữu-vô, phi hữu-phi vô là tục; phi phi hữu, phi phi vô là chân.
- 4- Nếu cả 4
luận cứ trên đều là tục, thì luận cứ nào đứng trên chúng và phủ
định chúng là chân: Phi phi hữu, phi phi vô là tục, phi phi bất
hữu, phi phi bất vô là chân... Cứ phủ định như thế, càng đi sâu,
càng tiến gần đến cửa chân lý. Cho đến khi nào "nhất thiết, nhất
thiết buông xả hết", thì khi đó bạn đối diện với chân lý thực
tại tánh Không - không thủ đắc (apràptitva). Trên đây chỉ là lối
lập luận, vậy thôi. Nó không có một điều gì u huyền kỳ bí hết.
- D- Cơ sở bốn:
Vấn đề quan trọng là sự xác định giá trị của chữ Trung = Giữa,
đầu mối là nằm ở đó.
- Chúng ta biết
rằng, Trung là một khoảng ở Giữa, một khoảng trống vô cùng giá
trị mà bên nào cũng muốn lấn chiếm để kéo về phần mình. Do đó,
Trung là vị trí then chốt, là điểm tựa của hai thái cực; nếu bám
víu vào một trong hai thái cực là điều sai lầm, sẽ rơi vào cực
đoan, như kiến chấp về hữu-vô, về thường hằng, về đoạn diệt
v.v..., nhưng nếu bám víu vào cả hai thái cực thì cũng là điều
sai lầm, như muốn đến thì lại đi, muốn sinh thì lại diệt; nhưng
ngay tại đây, nếu một phen buông bỏ mọi kiến chấp vào hữu, vô,
sinh, diệt, thường, đoạn, đồng, dị, khứ, lai, thì đó là lúc trực
nhận chân lý. Vì thế, Tam luận đề cập đến "Năm huyền nghĩa" như
sau:
- 1- Nếu có
người cho rằng, thế giới sự vật hiện tượng này là thực sinh thực
diệt, thì đó là tục đế phiến diện.
- 2- Nếu có
người cho rằng, thế giới sự vật hiện tượng này là bất sinh bất
diệt, thì đó là chân đế phiến diện.
- 3- Nếu có
người cho rằng, thế giới sự vật hiện tượng này là không thực
sinh, không thực diệt, thì đó là trung đạo của tục đế.
- 4- Nếu có
người cho rằng, thế giới sự vật hiện tượng này là không thực bất
sinh, không thực bất diệt, thì đó là trung đạo của chân đế.
- 5- Nếu có
người cho rằng, thế giới sự vật hiện tượng này là không có sinh
diệt hay bất sinh bất diệt, thì đó là trung đạo được biểu thị từ
sự kết hợp GI_A tục đế và chân đế (Nhị đế hiệp minh trung đạo).
- Do vậy, Trung
luận viết rằng: "Nếu không nương vào tục đế, thì không thể đạt
đến chân đế". Cũng như nếu không dùng thuyền, thì không thể sang
sông. Và "Tất cả đều hợp lý vì hợp lý với Tánh Không, tất cả
không hợp lý vì không hợp lý với Táng Không". (Mk. XXIV.14).
- E- Cơ sở năm:
Cuối cùng là nguyên lý Duyên khởi. Chúng ta biết rằng, Duyên
khởi (Paticcasamuppàda) là giáo lý vô cùng quan trọng, có một
không hai trong lịch sử tôn giáo và triết Ðông-Tây. Ðây cũng là
giáo lý thống nhất được ghi lại trong hệ thống kinh tạng Nam
truyền và Bắc truyền. Như Phật nói, Ngài và các Ðức Phật thời
quá khứ đều chứng đắc giác ngộ từ giáo lý Duyên khởi (8). Từ đó,
cho thấy tính cách quan trọng của giáo lý này (9).
- Ở đây, nếu
muốn hiểu một phần nào đó về Tánh Không, thì trước hết phải
nghiên cứu về Duyên khởi, vì nó là con đường "độc nhất vô nhị"
dẫn đến tri nhận thực tại tính Không. Duyên khởi và tính Không
là hai mặt của một thực tại, dầu nó được giải minh trên bất kỳ
bình diện nào, công ước hay tuyệt đối, tục đế hay chân đế. Duyên
khởi, trên mặt hiển thị, là hiện tượng của tính Không; và tính
Không, trên cái nhìn tuyệt đối, là bản chất của Duyên khởi. Ðây
là một loại hệ luận, mà nói theo ngôn ngữ của Hoa Nghiêm là
"tương tức", "tương nhập" - cùng sinh khởi và cùng hiện hữu. Do
đó, "tính Không" (sunyata), nếu được xem là một loại thể tính
đặc thù, một loại thể tính mà nó luôn luôn phá hủy chính nó -
phá hủy liên hồi, thì tác dụng khả thể của tính Không là như Tâm
kinh (Hridaya sutra) nói "viễn ly điên đảo mộng tưởng", "cứu
cánh Niết bàn". Như thế, Duyên khởi và tính Không chính là khái
niệm cuối cùng của ngôn ngữ - vì không còn ngôn từ nào khác hơn
có thể thay thế cho nó được - khả dĩ nói về Viễn Ly
(Naiskramya). Nó viễn ly mọi tự tính (svahàva), mọi tự tướng
(svalaksana). Duyên khởi như bọt bóng, bất giác từ khi nào chẳng
biết, lặng lẽ trôi theo ghềnh thác đổ, và khi chạm phải dòng
nước, nó liền biệt tăm - trở về với bản thể ư? Không. Ở đây
không có bất kỳ một bản thể nào hiện hữu cả! Vì, như theo lối
nói của viễn ly, bản thể của Duyên khởi là "Không Tự Tính"
(svabhavaabhàva), nó trôi lăn từ nơi này đến nơi kia trong cơn
tuần hoàn mộng mị của những sự nối kết và nương tựa nhau (y
tha), như từng giọt nước, nối kết và nương tựa nhau để tạo thành
dòng nước; còn cái mà được gọi là dòng nước chỉ là lâm thời, nó
là "duyên hội" (10) vậy thôi. Duyên khởi là như thế.
- Qua năm cơ sở
như được đề cập trên đây, chúng ta phần nào nắm bắt được những
điểm khái quát về Tam luận tông, và đây cũng là tiền đề để đi
vào tìm hiểu triết học tánh Không.
-
III. Nguyên lý Trung đạo
(Madhyama-pratipada)
- Như đã được
nói đến ngay từ đầu, Trung đạo là một khái niệm do chính Ðức
Phật nói lên sau những biến cố quan trọng trong cuộc hành trình
trở về Niết bàn của Ngài. Nó, ngay từ thời Phật giáo Nguyên
thủy, vốn được xem là một giáo lý đặc thù trên cả hai bình diện:
đời sống thực tiễn tu hành và đạo lý đưa đến giải thoát.
- Lịch sử ghi
nhận rằng, trải qua sáu năm tu khổ hạnh ở núi Tuyết, thân thể
của Bồ tát Tất Ðạt Ða chỉ còn da bọc xương. Bồ tát đã đánh đổi
mọi sức sống năng động và nhiệm mầu của chính mình cho những cơn
đói lạnh khôn lường, có lúc Ngài đã rơi vào hôn mê, bất tỉnh.
Song, chính nhờ vào những kinh nghiệm thống thiết như thế mà
Ngài mới ngộ ra rằng, sự hủy diệt xác thân này để cầu Vô thượng
đạo là điều phi lý vô bờ, không thể có được. Từ đó, Bồ tát thức
tỉnh, và Ngài bắt đầu tìm lại cuộc sống quân bình, một đời sống
vốn tiềm tàng một khả tính nhiệm mầu vô biên trong mỗi con
người, bằng cách ăn uống, tắm rửa và nghỉ ngơi (11); rồi đi vào
thiền định.
- Sau khi thành
đạo, bài pháp đầu tiên mà Phật giảng tại vườn Nai là Tứ thánh
đế; trên cơ sở của pháp thoại này, nguyên lý Trung đạo được Phật
nhấn mạnh như sau: "Có hai cực đoan mà người học đạo muốn hướng
đến một đời sống giải thoát cần phải tránh xa: cực đoan thứ
nhất, nếu lấy lạc thú của thân thể làm mục đích của đời người,
thì đó là một đời sống thô bỉ và ngu xuẩn; cực đoan thứ hai, nếu
sống một đời khổ hạnh ép xác, chỉ tạo thêm khổ đau và vất vả".
Ðây được gọi là Trung đạo tu tập; con đường Giữa, không rơi vào
hai cực đoan. Một loại Trung đạo khác, đó là Trung đạo giải
thoát. Có nghĩa là đi vào giác ngộ và thể nghiệm chân lý từ thế
giới của thực tính Duyên khởi. Vì lẽ, đối với Duyên khởi thì mọi
pháp không thể được xem là có hay không. Do đó, Duyên khởi được
xem như là Trung đạo của giải thoát.
- Từ cái nền
móng cơ bản này, mà về sau, trải qua một lịch sử lâu dài, cũng
lắm phen phiêu lưu bồng bềnh, Long Thọ đã xây dựng lại nguyên lý
Trung đạo trên cơ sở của Bát bất. Cố nhiên, tại sao Long Thọ
không xây dựng luận thuyết của mình trên cái đã có (như Trung
đạo thời Nguyên thủy) mà lại y cứ trên một nền tảng mới là có lý
do của nó; và lý do đó là những gì được trình bày trong thời kỳ
Phật giáo Bộ phái và Phật giáo tiền Ðại thừa. Ðó là một đề tài
thuộc sự phát triển của lịch sử-tư tưởng, khi mà giới tuyến giữa
"ngôn" và "hành" bị xóa nhòa, và kinh nghiệm thể chứng tự nội
phải nhường chỗ cho sự biện biệt phân tranh. Lúc bấy giờ kẻ chấp
có, người chấp không, kẻ chấp vừa có lại vừa không, người chấp
vừa không có lại vừa không không..., cứ như thế, những định kiến
của có và không đã diễn tiến trong suốt quá trình phát triển tư
tưởng Phật giáo. Hết thời đại này, đến thời đại khác, vấn đề đó
cứ sinh rồi diệt, diệt rồi sinh như là vòng luân hồi vĩnh cửu
(le retouré ternel) của Nietzsche. Có lẽ vì thế mà Long Thọ phải
xây dựng lại nguyên lý Trung đạo trên một nền tảng mới của Bát
không (12).
- Như thế, rõ
ràng Trung đạo ở đây được ra đời trong một bối cảnh mới, hẳn
nhiên nó cũng cưu mang theo những thể cách đặc thù của nó. Tuy
nhiên, không vì vậy mà học thuyết của Long Thọ khác biệt với hay
chống trái với giáo lý của Phật; trái lại, nó chỉ có thể được
xem là sự phát triển bản ý của Phật trong một bối cảnh mới, cũng
tựa hồ như dùng một tên gọi mới cho một khái niệm cũ, vậy thôi.
- Do đó, khi
Trung đạo nằm giữa chiến trận của Bát bất hay được bao quanh bởi
Bát bất, thế có nghĩa Trung đạo là chân lý lâm thời, khả dĩ
không rơi vào mọi kiến chấp của hữu vô sinh diệt thường đoạn khứ
lai. Do đó, nếu nhìn từ thực tế, Trung đạo không phải là bản
chất của chân lý tuyệt đối, hay là bản thể của chân lý thực tại
nào cả, nó chỉ đóng vai trò-biểu hiện trong kết cấu của tư duy
mà thôi. Cũng như giữa bóng tối và ánh sáng, trong tư duy chúng
ta cho rằng nó phải có một giới tuyến hão huyền nào đó để phân
chia hai thái cực sáng và tối khác nhau; và đó là một nhu cầu
của tư duy hữu ngã. Nhưng với chân lý thực tại, sẽ không hề có
và không bao giờ có bất kỳ một giới tuyến lẻ loi nào hiện hữu
như là biên tế của giữa ánh sáng và bóng tối. Vì thế, cái mà gọi
laâ Trung-đạo-đế, nên nhớ rằng, chỉ là điểm tựa của những kết
cấu lâm thời trong tư duy hữu ngã, đây là điểm đặc thù nhất về
nguyên lý Trung đạo.
- Như vừa đề
cập trong luận đề trên, chúng ta thấy rõ Trung đạo không phải là
Niết bàn, mà là con đường dẫn đến Niết bàn. Ở đây, một vấn nạn
khác có thể được đặt ra là tại sao Trung đạo, một con đường mong
manh như thế, lại có khả năng dẫn đến Niết bàn, và chỉ có nó mới
có đủ năng lực để dẫn đến Niết bàn?
- Ngay tại chi
tiết này lộ rõ cho ta thấy tính cách nhiệm mầu và vô cùng kỳ vĩ
của những cái vốn được xem là mong manh, sương khói; và có khi
chúng được xem là vô tích sự, vô giá trị. Trong viễn kiến của
các nhà Ðại thừa độc đoán, họ cho rằng chỉ có vô là trên hết,
hoặc chỉ có chân đế là trên hết v.v..., mà họ không biết rằng vô
chỉ có thể được nhận diện trong hữu, cũng như chân đế hiện hữu
từ tục đế (13). Và khi đã ôm chặt lấy quan điểm (hoặc vô, hoặc
hữu) của mình, thì lập tức họ rơi vào lầm lỗi. Vì thế, cái biên
giới mong manh mà gần như là không biên giới này, tác dụng của
nó là cực mạnh và dùng để phá hủy mọi thiên chấp trong cơ đồ của
ngã kiến; nó phóng thích tất cả mọi phần tử cấu uế trong ngục tù
của tâm thức, rồi đập tan luôn cả cái ngục tù huyễn mộng này để
cho mọi tâm thức trở về với cái bản thể thanh nguyên. Và, khi
tâm thức đã được gội rửa, nó sẽ trở nên trong sạch như Trung
đạo, mọi ý niệm về có và không không còn hiện hữu trong nó nữa,
bấy giờ nó đang đối diện và tắm mình trước chân lý thực tại đấy.
Do đó, chính cái không là gì cả và không có hệ lụy nào cả mới có
thể đập vỡ cái hữu hạn, biến nó trở thành vô biên. Ðó là vai trò
trọng yếu của Trung đạo. Có thể tỉ dụ như người lái xe đạp, nó
không vướng bận vào đâu cả, bên phải hay bên trái, phía trước
hay phía sau; nó chỉ chủ động không nghiêng ngả về bất kỳ bên
nào trong một thể cách lắm diệu vợi và bấp bênh. Nhưng chính sự
nối kết của từng giây phút bấp bênh đó mà con người có thể đạt
đến mục đích. Trung đạo là như thế. Như vậy, do tính cách bao
dung và không thiên chấp mà Trung đạo được xem là con đường giữa
dẫn đến trú xứ của Niết bàn. Ðây là điểm đặc thù thứ hai về
nguyên lý Trung đạo.
- Cuối cùng là
vấn đề của chính Trung đạo. Thông qua bút pháp của La Thập,
chúng ta hiểu được tôn chỉ của Tam luận, mà cụ thể là Trung đạo
trong Trung luận. Ngay từ đầu, ý nghĩa của chữ Trung đã đóng vai
trò trung tâm của mọi luận thuyết, nó là cánh cửa giữa của ba
"huyền môn" để bước vào thực tại tính Không. Do đó, trên cơ sở
của tư duy và ngôn ngữ, thì "Trung" thủ vai của những chứng lý
tối thượng. Và cũng tại đó là điểm cao nhất mà bậc thức giả khả
dĩ đạt đến bằng con đường ngôn ngữ. Còn cảnh giới thực tại, cho
dù có được xem là đối tượng của nhận thức hay không, thì nghìn
năm vẫn bất khả thuyết bởi ngôn ngữ. Song, nếu như thế thì làm
sao Phật độ chúng sinh, vì cái mà Phật biết thì chúng sinh không
thể biết? Từ đó, cánh cửa phương tiện được mở ra cho những ai có
mắt để nhìn thấy, có tai để nghe. Ở đây, chữ "LU_N" đóng vai trò
của phương tiện. Như thế, nếu Trung là cứu cánh, thì Luận là con
đường phương tiện dẫn đến cứu cánh, tương tự như thế đối với
Trung đạo. Và hai bình diện phương tiện và cứu cánh trong nguyên
lý Trung đạo được gọi là Nhị đế - tức hai chân lý: chân lý công
ước (tục đế) và chân lý tuyệt đối (chân đế). Mối quan hệ của hai
chân lý này là bất khả phân ly. Nếu chỉ chấp nhận một trong hai
thì lại tiếp tục rơi vào hoặc thường kiến, hoặc đoạn kiến... Cho
đến khi nào đạt đến cảnh giới Niết bàn vô thượng, thì chân hay
tục sẽ không còn được bàn đến nữa. Tuy nhiên, ở đây trên góc độ
nhận thức, hai chân lý này mở ra cho chúng ta một chân trời bao
la mênh mông đầy hy vọng. Ðó chính là khả tính vô biên của Duyên
khởi được biểu hiện trên cả hai phương diện của chân đế lẫn tục
đế. Và cũng từ đây, cuộc đối thoại giữa Phật và chúng sinh bắt
đầu.
- "Mượn chỉ đưa diều lên khỏi gió
Buông thuyền lúc khách đã sang sông
Gaté gaté, paragaté, parasamgaté
Bodhi Svahà !".
-
* Chú thích:
- (1) Ngoại đạo
tà giáo ở đây không hẳn là ngoài Phật giáo, mà trái lại, đó là
người theo Phật giáo nhưng có những quan điểm sai lầm (tà kiến).
- (2) Xem bảng
số 8 - Hệ truyền thừa của Long Thọ ở Ấn Ðộ và Trung Hoa.
- (3) Cát Tạng
là một trong 25 đồ đệ xuất sắc của Pháp Lăng. Ông sống vào đời
Tùy, quê ở Kim Lăng, họ An Thế, tổ tiên là người An Túc (dân tộc
Hồ) nên gọi là An Cát Tạng hoặc Hồ Cát Tạng. Thuở nhỏ, ông theo
cha học đạo với ngài Chân Ðế (Paramàrtha), được phú hiệu là Cát
Tạng. Ðến năm 13 tuổi, (có chỗ nói là 7 tuổi), ông theo học Tam
luận với Pháp Lăng. Năm 19 tuổi bắt đầu đi thuyết giảng. Năm 32
tuổi, sau khi thầy tịch, Cát Tạng về chùa Gia Tường ở Cối Khê,
tỉnh Chiết Giang, hành đạo. Vì mỗi pháp hội của sư có hơn 1.000
thính giả, nên được gọi là Gia Tường Ðại sư. Về công trình
nghiên cứu của sư, gồm: Tam luận huyền nghĩa, Ðại thừa huyền
luận, Nhị đế chương, 7 sớ giải về kinh Pháp Hoa, 2 tác phẩm sớ
giải về kinh Niết Bàn, Ðại Bát Nhã, và 120 quyển sớ giải
về kinh Hoa Nghiêm, Thắng Man, Tịnh Danh, Ðại Vô Lượng Thọ, Quán
Vô Lượng Thọ... Sư đã từng biện luận với Tam quốc luận sư
Tăng Xán. Năm 618, sư là một trong 10 vị thầy được vua Cao Tổ
tuyển làm Quản tăng. Tháng 5 năm 623, trước khi viên tịch, tắm
gội xong, sư viết bài "Tử bất bố luận" (Luận không sợ
chết) rồi thị tịch, thọ 75 tuổi. Nhà vua cấp kinh phí để an táng
cho sư (xem Tục cao tăng truyện - Phật Tổ thống ký..., Phật
Quang đại từ điển).
- (4) Cựu Tam
luận tông chỉ truyền bá từ ngài Cưu Ma La Thập đến Cát Tạng (kéo
dài từ 409 - 623 TL).
- (5) Xem
Ðại tạng kinh, Ðại chính tân tu, No 1564 (cf Nos, 1565-1567)
thượng - Quán nhân duyên phẩm, đệ nhất, thập lục kệ, tập 30,
tr.1, trung.
- (6) Xem
The Conception of Buddhist Nirvana, Stcherbatsky, tr.69.
- (7) "Tứ cú",
ở đây là bốn mệnh đề xác định, hoặc là có, hoặc là không, hoặc
là vừa có, vừa không, hoặc là vừa không có, vừa không không.
- (8) Kinh
Tương Ưng Nhân Duyên, Tương Ưng Bộ II, bản dịch của Thích
Minh Châu, ÐTKVN.
- (9) Xem
Tìm hiểu nhân sinh quan Phật giáo của Thích Tâm Thiện.
- (10) Tam luận
tông ở Trung Hoa dùng từ "duyên hội" như là sự hội ngộ của Duyên
khởi và tánh Không để diễn đạt về ý nghĩa Trung đạo.
- (11) Trong
suốt thời gian tu khổ hạnh, lúc nào bất luận ngày hay đêm, Ngài
cũng đều dồn nén tư tưởng và thân thể để truy cầu chân lý vĩnh
cửu.
- (12) Kinh
Nikàya có không ít đoạn đề cập đến những loại thiên kiến này,
như trường hợp của 62 tà thuyết trong Trường Bộ kinh, phẩm Sa
môn quả (xem ÐTKVN).
- (13) Phật
thường dùng hình ảnh hoa sen mọc trong bùn để dụ cho điều này.
--o0o--
|
|