-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Phật Học Cơ Bản
-
Tập Ba
- Ban Hoằng Pháp
Trung Ương
GHPGVN
-
Chương Trình Phật Học Hàm Thụ (1998-2002)
Nguyệt San Giác Ngộ
- --- o0o ---
- Phần
II - Bài đọc thêm
- Duyên khởi
và Tính không được đồ giải qua phương trình E=MC2
của nhà bác học Albert Enstein
- Khải Thiên &
Nguyễn Chung Tú
-
I. Tổng quan về Duyên khởi và tính
Không
- Triết lý
Duyên khởi (Paticcasamuppàda) và tính Không (Sunyàta) là hai
điểm giáo lý then chốt của Phật giáo được trình bày xuyên suốt
trong các kinh điển, từ Nikaya, Agama cho đến các kinh điển
thuộc văn hệ Ðại thừa (Mahayàna). Ðây cũng là phần giáo lý độc
nhất vô nhị của Phật giáo, mà không hề tìm thấy trong bất kỳ hệ
thống giáo lý nào khác trong lịch sử của tôn giáo và triết học,
trước cũng như sau thời Ðức Phật. Ðứng trên góc độ lịch sử-tư
tưởng, Duyên khởi được xem như là phần triết lý nền tảng của cả
hai hệ thống Nam tạng và Bắc tạng, từ thời kỳ Phật giáo Nguyên
thủy (Theravàda) đến Phật giáo Phát triển sau này. Riêng về
triết học tính Không, sự phát triển của nó bắt nguồn từ khởi
điểm của Phật giáo Mahayàna (Phật giáo Phát triển) và nội dung
như đã được trình bày cụ thể trong kinh Bát Nhã (Prajanaparamita
Sùtra), một bộ kinh đầu tiên thuộc văn hệ Ðại thừa. Mặc dầu vậy,
về nội dung triết lý, giữa Duyên khởi và tính Không không có sự
khác biệt về bản chất. Trên phương diện logic học, mối quan hệ
giữa Duyên khởi và tính Không được xem như là "một dòng vận hành
tất yếu", như nước trăm sông cùng đổ về biển cả; nó vừa là
nguyên nhân, lại vừa là kết quả sinh khởi nên vạn hữu trong vũ
trụ vô biên này. Sự thể như thế nào sẽ được trình bày ở phần nội
dung.
-
II. Nội dung của Duyên khởi và tính
Không
- 1- Duyên
khởi: Nếu như thế giới bao la mênh mông này được chia thành
hai loại: hữu tình chúng sinh (tức những loài có tri giác như
động vật, con người) và vô tình chúng sinh (tức những loài vô
tri như cỏ cây hoa lá, sông suối, đá đồi v.v...), thì Duyên
khởi, ở một góc độ nào đó, cũng có thể chia thành hai loại: một
loại tập chú vào sự hiện hữu của con người được Ðức Phật dạy qua
12 Nhân duyên, và một loại khác chỉ đến sự tương duyên, tương
tác trong sự hình thành và hiện hữu của thế giới khách quan, tự
nhiên được dạy qua định thức tổng quát về Duyên khởi. Tuy nhiên,
cả hai đều trình bày về sự thật Duyên khởi - nguyên lý tương
tác, sinh khởi và vận hành của vũ trụ nhân sinh. Ở đây, phạm vi
của bài viết chỉ đề cập đến Duyên khởi qua định thức tổng quát.
- Kinh Phật Tự
Thuyết (Tiểu Bộ I, tr.291), Ðức Phật đã trình bày tóm tắt về
nguyên lý Duyên khởi như sau:
- "Do A hiện hữu nên B hiện hữu
Do A sinh khởi nên B sinh khởi
Do A không hiện hữu nên B không hiện hữu
Do A đoạn diệt nên B đoạn diệt"
- Nguyên lý này
bảo rằng, tất cả hiện hữu trong thế giới bao la mênh mông này,
không một hiện hữu (sự vật, hiện tượng) nào có thể tồn tại một
cách độc lập mà không nương tựa vào nhau. Sự nương tựa và tùy
thuộc nhau để hình thành và tồn tại v.v... là nguyên lý vận hành
của vũ trụ nhân sinh này; tương tự như thế đối với hằng hà sa
thế giới. Do đó, Ðức Phật bảo rằng: "Do A hiện hữu nên B hiện
hữu... Do A đoạn diệt nên B đoạn diệt". Có thể lấy tỷ dụ như
nước và sóng gió, do có nước và gió nên mới có sóng cuộn nhấp
nhô. Nếu không có nước thì sẽ không bao giờ có sóng. Sóng có mặt
là do nương vào nước và gió v.v... Rồi tiếp tục suy luận như
thế, bản thân của nước cũng không phải do đơn độc hình thành, mà
cơ cấu của nước là H2O. Vì thế, qua đôi mắt bình
thường, nước là nước; nhưng qua lăng kính khoa học, nước không
phải là nước, mà nước là hợp chất của hydro và oxy v.v... Tương
tự như thế đối với tất cả hiện tượng, sự vật, cả hữu tình (động
vật) và vô tình (thực vật - hay vật vô tri). Sự có mặt của mỗi
hiện hữu luôn luôn bao gồm trong nó hàng loạt các giá trị của
nhân và duyên. Ðây là nội dung cơ bản của định thức
tổng quát về Duyên khởi.
- 2- Tính
Không: Tính Không (Sunyàta) không phải là một khái niệm đối
lập với Có, mà Không ở đây là thực tính của các pháp (những gì
có mặt trong cuộc đời). Tính Không cũng không phải là chủ nghĩa
hư vô không tận; nó vốn thoát ly mọi đối ngẫu phân biệt giữa
hữu-vô, sanh-diệt, thường-đoạn, khứ-lai, siêu việt lên trên tất
cả mọi phạm trù đối lập của thế giới nhị nguyên. Do đó, mọi khái
niệm về Không được xây cất trên tư duy logic đều không phải là
thực tại - tính Không; trái lại, ở đây đòi hỏi một sự thể nhập
trực tiếp vào thế giới thực tại sau khi mọi ý niệm tự ngã được
buông bỏ. Như thế, khi con người còn đầy ắp những tập khí, cảm
nhiễm, những khát vọng, mong cầu được thiết lập trên cơ sở của ý
niệm về tự ngã, thì sự bàn bạc về tính Không chẳng khác nào dã
tràng xe cát.
- Tuy nhiên,
trên mặt hiện tượng, tính Không được nhận thức như một hệ quả
tất yếu trong tiến trình Duyên khởi mà ngài Nàgàrjuna, qua Trung
Quán luận, gọi là "Duyên khởi tức Không". Ðiều đó cho thấy rằng,
nếu thế giới vũ trụ này được hình thành theo cơ cấu trật tự của
Duyên khởi, thì đương nhiên nó cũng hoại diệt theo cơ cấu hoàn
diệt của Duyên khởi. Vì lẽ, một sự thể nếu được hình thành từ
nhiều nhân duyên (theo như định lý Duyên khởi nói) thì chính sự
thể ấy đã loại trừ cái mà gọi là thực thể (entity) đơn nhất ngay
nơi tự thân của nó. Do đó, trên bình diện công ước, tính Không
đã khước từ và phủ định hoàn toàn mọi ngã thể, nếu ngã thể ấy
được xem như là một thực thể độc lập bất biến hay thường tại
vĩnh hằng. Ở đây, cần ghi nhận rằng tính Không không phải là sự
đồng hóa hay đánh mất mọi bản sắc cá biệt của hiện tượng giới
(the world of phenomena). Mà trái lại, cội nguồn của "Duyên khởi
tức Không" giải trình hiện tượng giới qua ba tính chất đặc thù
của một sự thể, đó là: Giả danh, Không và Trung đạo.
- a)- Giả danh:
Thông thường, tất cả sự vật, hiện tượng đều được định danh bởi
một tên gọi khác nhau, như nước, mây, mưa, hơi nước v.v... Nhưng
các tên gọi đó chỉ là giả danh, vì chúng tạm thời mà có.
Như nước gặp sức nóng-hút của ánh sáng mặt trời thì gọi là hơi,
hơi ngưng tụ thì gọi là mây, mây rơi xuống thì gọi là mưa, mưa
đọng lại thì gọi là nước v.v... Vì thế, các tên gọi mây, mưa,
hơi nước... đều là tên gọi tạm thời được hình thành trên bề mặt
của mỗi mỗi sự vật, hiện tượng. Và cái mà gọi là bản sắc cá biệt
của hiện tượng giới chính là hiện thân của tác dụng và tên gọi
tạm thời đó.
- b)- Không:
Một sự thể, như đã đề cập, xuất hiện là do các nhân duyên hình
thành, và các nhân duyên đó luôn luôn điều kiện hóa lẫn nhau.
Trong khi đó, thực tính của các nhân duyên đều là Duyên khởi;
và, như đã nói, Duyên khởi tức Không, thế có nghĩa Không là tự
tính vô tính của Duyên khởi và là thực tính như tính của Duyên
khởi. Tỷ dụ, nếu phân tích bản chất của nước, hơi nước, mây,
mưa, ta sẽ không nắm bắt được gì ngoài hydro và oxy - công thức
là H2O. Và nếu tiếp tục phân tích cho đến độ không
thể phân tích được nữa, thì tự thân của hydro và oxy cũng là
Duyên khởi của một dạng thức năng lượng không hình thù, không
màu sắc và không biên giới. Năng lượng là vô biên, hiện diện ở
mọi lúc, mọi nơi. Ngay tại đây, chính năng lượng hiển thị bản
tính Không; nó xóa nhòa mọi khuôn khổ, chiều kích trong từng mỗi
bản sắc cá biệt của hiện tượng giới. Do vậy, sự thể vốn không.
- c)- Trung
đạo: Trung đạo, trên mặt triết lý, là lối dẫn vào thực tại tính
Không - Niết bàn vô thượng; trên mặt nhận thức, là sự phủ dẫm
mọi định kiến về hữu-vô, sinh-diệt, thường-đoạn, khứ-lai... Do
đó, có thể nói Trung đạo là con đường dắt dẫn mọi sinh linh một
phen đi vào "đô thị tính Không", một cảnh giới Niết bàn vô
thượng hiển hiện ngay trên mặt đất gồ ghề của trần thế này.
Trung luận viết rằng: "Nếu không y vào chân lý công ước (chân lý
của kẻ còn vô minh) thì không thể đạt đến chân lý tuyệt đối; nếu
không đạt đến chân lý tuyệt đối (chân đế), thì không thể hiểu
được Phật pháp". Như thế, với Trung đạo, một sự thể không thể
nói là có hay là không, mà chỉ có thể nói nó là Duyên khởi.
-
III. Duyên khởi và tính Không qua
phương trình: E = MC2
- Trước năm
1905, Einstein đã phát biểu công thức E = MC2 trong
thuyết Tương đối hẹp. Mặc dầu công thức này không được in thành
sách, nhưng Paul Langeoin đã giảng dạy nó cho sinh viên. Công
thức E = MC2 nói lên một sự thật Duyên khởi trong thế
giới sự vật, hiện tượng qua lăng kính của vật lý học. Ở đây, E
biểu thị cho năng lượng, M biểu thị cho khối lượng vật chất và C
biểu thị cho vận tốc ánh sáng trong chân không.
- Về năng lượng
(E), được ví như những làn sóng vô hình mà con người không thể
thấy, nghe hay sờ mó được. Năng lượng E là cội nguồn của tất cả
hiện hữu (thế giới thực tại khách quan và con người); vì thiếu
nó, thì mỗi mỗi sự thể M (hay khối lượng vật chất) không thể
hình thành. Cho đến sự vận hành của tâm thức cũng được xem là
một dòng năng lượng đặc biệt (năng lượng tâm thức). Thông qua
công thức E = MC2, ta có thể thấy rằng vật chất chính
là năng lượng được cô đọng lại, và năng lượng chính là vật chất
được phân tỏa đến độ tan biến vào hư không vô biên, như hạt muối
được bỏ vào dòng sông. Từ chi tiết này cho thấy rằng, thế giới
sum la vạn tượng này, mỗi hiện hữu, sự thể đều được tạo nên bởi
một bản sắc cá biệt, như: cây, củi, than, tro..., nhưng bản chất
của nó thật sự là chân không - Duyên khởi. Và, mỗi mỗi bản sắc
cá biệt đó luôn luôn mang tính cách lâm thời mà không phải là
vĩnh hằng.
- Cũng từ công
thức E = MC2, thí nghiệm cho biết rằng khi một điện
tử âm mà khối lượng là M = 0,90 x 10-30 kg gặp một
điện tử dương mà khối lượng cũng là M, thì cả hai đều biến mất,
để cho một tia gama mà năng lượng E = 1,01 mega-electron-volt.
Ðổi năng lượng này ra joule rồi chia cho 2M để được C2
, trong đó C là vận tốc ánh sáng trong chân không (300.000km/s).
Và nếu đảo lại, một tia gama mà năng lượng E = 1,10
mega-electron-volt có thể biến đi để cho hai điện tử: một âm,
một dương. Ðây là sự trao đổi năng lượng hai chiều giữa bức xạ
và vật chất. Công thức E = MC2 trong vật lý vi mô,
như vừa trình bày, cũng tương tự với công thức W = MC2
trong ngành vật lý vĩ mô (thiên văn).
- Từ một vài dữ
kiện được trưng dẫn qua phương trình E = MC2, hiện
hữu chung quanh con người - tức thế giới thực tại khách quan của
vô số sự vật, hiện tượng - được nhìn nhận không gì khác / ngoài
nguyên lý Duyên khởi. Và tất nhiên, chân lý đằng sau Duyên khởi
chính là thế giới thực tại - tính Không, mà Bồ tát Mã Minh,
trong Mahàyàna-sradhotspàda-Sàstra, gọi là Chân như -
Duyên khởi.
- Công thức: Chân như = Duyên khởi;
và đảo ngược: Duyên khởi = Chân như.
- Công thức này
sẽ trả lời cho người trần một câu hỏi vĩ đại, rằng tại sao
Chân như lại Duyên khởi? Và nó cũng hiển thị cho thấy tính
chất bất khả phân ly của thực tại - hiện hữu:
- Sóng về xóa dấu chân không
Bỗng dưng thuyền đã bên dòng chân như"
-- (Sakya T.Th)
--o0o--
|
|