-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Cư Trần Lạc Ðạo
- (Trọn
bộ 3 tập)
- Toronto, Canada
1999 - PL 2543
- --- o0o ---
-
- Tập
1
- (2)
- Bát Chánh Ðạo
-
Trong cuộc đời đau khổ trên
thế gian này, khi gặp những việc tai biến, những sự bất trắc,
những chuyện bất như ý, con người thường có khuynh hướng cầu
nguyện van xin tổ tiên ông bà, thánh thần thiên địa, ngọc hoàng
thượng đế, Bồ Tát Phật Tổ, từ bi gia hộ, thương xót cứu giúp, tai
qua nạn khỏi, cho được bình yên. Nhưng thực ra, chúng ta ai ai
cũng hiểu rằng việc cầu nguyện chỉ có tác dụng giúp cho con người
được an tâm trong giây phút cầu nguyện đó thôi. Có mấy ai cầu gì
được nấy? Cầu xin không được đáp ứng, chẳng lẽ thiên địa không bác
ái, Bồ Tát không từ bi? Còn Ðức Phật cứu độ chúng sanh bằng cách
nào, như thế nào?
- Ðạo Phật không
chỉ dạy cầu nguyện như là cứu kính. Theo quan niệm của Phật giáo,
cầu nguyện được xem như những lời chúc lành, những mong muốn thiết
tha, với mục đích vị tha bất vị kỷ, vì người không vì mình, một
cách phát tâm đại từ bi. Chẳng hạn như chúng ta cầu nguyện cho
quốc thới dân an, chúng sanh an lạc. Chúng ta làm được việc tốt
gì, có được công đức hay phước báu nào, cũng hồi hướng, cầu nguyện
cho tất cả chúng sanh đều trọn thành Phật đạo. Chẳng hạn như chúng
ta cầu nguyện cho cha mẹ được mạnh khỏe bình yên, sống lâu trăm
tuổi. Song việc đó có được hay không, còn tùy phước duyên của cha
mẹ. Tuy nhiên, việc cầu nguyện như vậy cũng nói lên được lòng hiếu
thảo chân thành của chúng ta.
- Trong Kinh Pháp
Cú, Ðức Phật có dạy: "Hãy tự thắp đuốc lên mà đi. Thắp lên với
Chánh Pháp". Nghĩa là mọi người hãy tự mình tích cực chuyển
hóa thân tâm của mình, bằng cách cố gắng học hiểu giáo lý của đạo
Phật, đó là ngọn đuốc Chánh Pháp, soi đường chỉ lối, giúp con
người thoát ly phiền não và khổ đau của cuộc đời, khi thực sự đem
áp dụng vào đời sống hằng ngày. Ðó là cách duy nhất thập phương
tam thế chư Phật cứu độ chúng sanh. Người Phật Tử chân chánh cần
nên nhớ kỹ điều này.
- * * *
- Theo giáo lý
của đạo Phật, con người can đảm nhìn nhận sự thực là: cuộc đời
khổ nhiều vui ít, nhưng không tư tưởng tiêu cực, không bi quan
yếm thế, không ngán ngẩm chán chường. Trái lại, con người tích cực
tìm phương cách để được giác ngộ và giải thoát, không thụ
động chấp nhận, không cầu nguyện van xin. Ðể giúp chúng sanh được
sống an vui, xả trừ triền phược, cắt đứt trói buộc, dẹp tan phiền
não, thoát ly đau khổ, trong tam tạng kinh điển, Ðức Phật thuyết
minh "Bát Chánh Ðạo".
- Bát chánh đạo
là phương pháp giản dị, thích hợp với đời sống hằng ngày của chúng
sanh, nhằm mục đích cải thiện tâm lý, ngôn từ và hành động, giúp
đỡ con người bỏ tà đạo theo chánh đạo. Bát chánh đạo giúp chúng
sanh hướng về, tiến đến một đời sống chí diệu cao siêu, hay ít ra
cũng xây dựng được đời sống an lạc và hạnh phúc. Vì vậy, "Bát
Chánh Ðạo" còn được gọi là "Bát Thánh Ðạo".
- Bát chánh đạo
là con đường đưa chúng sanh đến chỗ giác ngộ và giải thoát, gồm
tám điều chân chánh, đó là: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ,
chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định.
-
1.- Chánh Kiến:
- Trước hết,
chúng ta nhận thức mọi sự sự vật vật hiện hữu, tức là muôn pháp
trên thế gian, khắp pháp giới, đều do nhân duyên sinh, không
trường tồn và sẽ biến diệt. Ðó là "Lý Nhân Quả" và "Lý Vô Thường",
hai chánh kiến quan trọng mọi người cần thấu triệt.
-
A. - Thế nào là chánh kiến?
- Chánh kiến là kiến thức chân chánh. Nghĩa là con người
cần có sự hiểu biết và sự nhận thức sáng suốt và hợp lý. Chánh
kiến có ích lợi giúp con người không sống trong mê lầm, điên đảo.
Người có chánh kiến thấy như thế nào thì nhận đúng như thế ấy,
không thay đổi trắng đen, không kỳ thị xấu tốt, không phê phán hay
dở. Chánh kiến là sự hiểu biết và nhận thức không bị tập quán,
thành kiến, dục vọng hay tâm phân biệt, ngăn che và làm sai lạc.
Người có chánh kiến hiểu biết tường tận thế nào là chánh tà, chơn
ngụy, đại tiểu, thiên viên, nhưng với tâm bình thường, tâm chính
trực và tâm bất tùy phân biệt.
- a)
Lý nhân quả: Chúng ta ai ai cũng biết: "Gieo nhân nào
gặt quả nấy". Thí dụ như có hột cam gieo xuống đất, gọi là "nhân",
cộng thêm nước tưới, ánh sáng, phân bón, công chăm sóc, gọi là
"trợ duyên", chúng ta sẽ gặt hái được "quả cam", sau một
thời gian nào đó. Không thể nào gieo hột cam ngọt lại gặt quả
chanh chua được, hay ngược lại. Lý nhân quả còn được gọi là lý
nhân duyên.
- * Không bao giờ
có quả mà không có nhân. Có mây mới có mưa, có lửa mới có khói,
gieo gió mới gặt bão, sinh sự thì sự sinh. Không thể có chuyện tự
nhiên có cái cây mọc lên, mà không có hạt giống trong đất. Không
thể có chuyện tự nhiên chúng tới chửi mình, mà mình chẳng có làm
gì hết, trong kiếp này hay những kiếp trước! Ðó là chân lý. Ðó là
lý nhân quả hay lý nhân duyên. Nhận rõ quả báo của hành vi, ngôn
từ và ý niệm của chính mình như vậy, chúng ta sẽ không trách
người, trách trời, trách đất gì hết, chỉ biết trách mình, cho nên
không còn phiền não và khổ đau nữa. Trái lại, chúng ta tích cực
sửa đổi tâm tánh, làm sao cho mỗi ngày một tốt đẹp hơn, để cuộc
đời được sáng sủa hơn, gia đình được hạnh phúc hơn.
- * Việc này sinh
ra do việc kia đã sinh ra. Không có chuyện gì xảy ra, dù lớn hay
nhỏ, dù quan trọng hay bình thường, mà không do có chuyện khác xảy
ra trước đó. Thí dụ như chúng ta có cái bánh để ăn, nguyên do
trước đó có bột, có đường và có công thợ, dĩ nhiên cũng do chúng
ta có tiền mua. Thí dụ như: Cơ thể phát phì nguyên do ăn uống quá
độ. Nghèo túng nguyên do làm biếng. Bệnh tật nguyên do thiếu vệ
sinh. Con cái không có tình thương đậm đà nguyên do cha mẹ không
thường xuyên chăm sóc, gần gũi. Thiên hạ thù ghét nguyên do lời
nói khó nghe. Vợ chồng lục đục nguyên do thiếu sự cảm thông, thiếu
sự hiểu biết, thiếu sự hòa hợp.
- * Muôn sự muôn
vật trên thế gian này đều do nhân duyên sinh. Mọi sự mọi việc
không do ông trời, không do một đấng tạo hóa đầy quyền năng nào
tạo ra cả. Có người cho rằng: chính con người sinh ra thượng đế,
bởi vì thượng đế chỉ là sản phẩm do con người tưởng tượng mà thôi.
Mỗi đạo giáo, mỗi dân tộc, mỗi thời gian, có mỗi quan niệm khác
nhau về thượng đế. Thượng đế, nếu có thực, không thể để cho các
người thế gian lợi dụng danh nghĩa và phải là đấng chí công vô tư.
Tại sao lại có những chuyện: trời thương người này hơn người kia,
cho người này sung sướng hơn người kia, người này sinh ra khỏe
mạnh, trong cảnh giàu sang, người kia sinh ra tật nguyền, trong
cảnh nghèo khó, dân tộc này giàu sang sung sướng, dân tộc khác
nghèo nàn khổ cực?
- Theo giáo lý
của đạo Phật, sở dĩ người này khác người kia về phương diện này
hay phương diện nọ, bởi vì mỗi người tạo tác nghiệp nhân khác
nhau, cho nên nhận nghiệp quả khác nhau. Cũng như người làm bánh
thì ăn bánh, người nấu chè thì ăn chè. Chính mình làm mình hưởng.
Chính mình làm mình chịu. Ðó mới thực là chí công vô tư vậy.
- b)
Lý vô thường: Chúng ta ai ai cũng biết: "Có sinh ắt
có diệt". Nghĩa là muôn sự muôn vật trên thế gian này đều không
tồn tại vĩnh viễn. Trong Kinh Kim Cang, Ðức Phật có dạy: "Phàm
sở hữu tướng giai thị hư vọng". Nghĩa là bất cứ vật nào có
hình tướng, nhìn thấy được bằng cặp mắt thường, lớn như quả núi,
tòa nhà, nhỏ như tấm thân chúng ta, như hạt cải, hạt cát, tất cả
đều hư vọng, đều trải qua bốn giai đoạn: "sinh, trụ, dị,
diệt". Mọi vật sinh ra, trụ thế một thời gian ngắn dài, rồi cũng
biến dị và cuối cùng cũng bị diệt mất! Thí dụ như: Cây bông hồng
từ hạt giống trong đất sinh ra, mọc lên, trổ hoa. Hoa hồng khoe
hương sắc, ít ngày sau héo úa, tàn lụi, trở thành phân bón cho
bông hồng khác sau này. Cuộc đời cứ như thế tiếp diễn không ngừng,
đạo Phật gọi là "sự luân hồi", cũng như bánh xe quay mãi, quay mãi
vậy.
- Hiểu được như
vậy, khi của cải vật chất, xe hơi đồ đạc bị mất mát hư hao, khi
con cái lỡ tay đập bể hay làm hư hại vật gì, dù quí giá đến đâu,
thậm chí khi người thân đến lúc qua đời, chúng ta sẽ không khổ đau
nhiều. Hiểu được như vậy, khi gặp một việc tai biến, một sự bất
trắc, một chuyện bất như ý, thậm chí tán gia bại sản, người thân
biến thành kẻ thù, chúng ta cũng sẽ không đau khổ nhiều. Chuyện gì
rồi cũng sẽ qua, có gì tồn tại mãi mãi đâu mà cố chấp, tranh đua
hơn thua, cái mạng sống này còn không giữ được nữa, huống là thứ
gì khác trên đời này? Có ai sống mãi không chết? Có ai trẻ mãi
không già? Có ai khỏe mãi không đau? Ðó là lý vô thường. Có câu:
Bèo hợp rồi tan, trăng tròn rồi khuyết. Cuộc đời cứ như thế xoay
vần đổi thay, không bao giờ dừng. Thường xuyên quán chiếu, tin sâu
"Lý Nhân Quả" và "Lý Vô Thường", cuộc đời của con người sẽ an lạc
và hạnh phúc hơn.
- Trong Kinh Thủ
Lăng Nghiêm, Ðức Phật có dạy: "Nhân duyên hòa hợp hư vọng hữu
sinh. Nhân duyên ly tán hư vọng hữu diệt". Nghĩa là: Muôn sự
muôn vật trên thế gian này do nhân duyên hình thành, tạm gọi là
sinh. Muôn sự muôn vật do nhân duyên tan rã, tạm gọi là diệt. Thí
dụ như: Một chiếc xe mới được hình thành do tất cả các bộ phận,
các phụ tùng ráp lại, tạm gọi là sinh. Ðến khi xe hư, các phụ
tùng, các bộ phận được tháo rời ra, chiếc xe không còn nữa, tạm
gọi là diệt. Thí dụ khác: Tấm thân tứ đại của chúng ta cũng vậy,
hình thành do đất, nước, gió, lửa, tạm gọi là sinh. Sống đời một
thời gian nào đó, khi hết nhân duyên, thì cát bụi trở về với cát
bụi, tạm gọi là chết. Tại sao vậy? Bởi vì khi đó, chính là lúc
chúng ta bắt đầu một kiếp khác. Bánh xe luân hồi đang chuyển động
đó vậy.
-
B. - Thế nào là tà kiến?
- Ngược lại, tà kiến là sự hiểu biết và nhận thức sai lầm. Theo
quan điểm của Phật giáo, cho sự hiện hữu của tự thân và hoàn cảnh
đều là tự nhiên, không có quả báo cùng nhiều duyên khác tập hợp,
đó là tà kiến và mê tín. Chấp thượng đế tạo vật, phủ nhận nhân quả
nghiệp báo, chủ trương định mệnh, phủ nhận kết quả của hành
nghiệp, đó là tà kiến và mê tín. Quan niệm thương ghét khác biệt
giữa người và người, giữa người và vật, coi thú vật sinh ra để
nuôi sống con người, đó là tà kiến và mê tín.
- Cố chấp thành
kiến, quan niệm phân biệt phải trái, đúng sai cố định, đi tới kết
luận, người nào không tin theo tín ngưỡng như mình, đều phải bị
trừng trị nghiêm khắc, phải bị đọa địa ngục đời đời, đó là tà kiến
và mê tín. Chấp theo thần thoại, đồng bóng bói toán, xem sao giải
hạn, định hướng nhà cửa, tin bướng tin càn, tin vô căn cứ, làm bể
cái gương, điềm không may mắn, đầu năm quét nhà, tài lộc ra cửa,
mùng năm mười bốn hăm ba của dân ta, con số 13 của dân tây, cho là
xui xẻo, đó là tà kiến và mê tín. Ðốt vàng mã, tiền bạc, xe hơi,
nhà lầu, áo quần, hình nhơn bằng giấy, cho người chết xài dưới âm
phủ, đó là tà kiến và mê tín. Không may đau bệnh, không khám bác
sĩ, không đi bệnh viện, không muốn uống thuốc, không chịu kiêng
cữ, lại đi xem bói, thỉnh bùa chú giấy, đem về đốt uống, nước tiên
nước thánh, nước suối nước sông, chẳng hạp vệ sinh, cũng đem về
uống, đó là tà kiến và mê tín.
- Nói chung,
những điều gì phản khoa học, trái với chân lý, không theo lý trí,
chẳng thể xét suy, không thể kiểm chứng, đều được gọi là tà kiến
và mê tín. Tà kiến và mê tín thường có nơi những người có lòng cố
chấp nặng nề, chấp ngã và chấp pháp, dù người bình dân, hay kẻ học
thức, ở ngoài thế gian, cũng như trong đạo. Ðức Phật ra đời,
thuyết pháp độ sinh, phá màn vô minh, dẹp tan tà kiến, mê tín dị
đoan, chỉ nhằm mục đích, khai thị chúng sanh, ngộ nhập trí tuệ bát
nhã, trong Kinh Pháp Hoa, gọi là Tri Kiến Phật, để được
giác ngộ và giải thoát.
-
2. - Chánh Tư Duy:
- Sách có câu:
"Bình an dưới thế cho người thiện tâm". Người thiện tâm luôn luôn
nghĩ tốt, nghĩ đúng, nghĩ thiện, cho nên làm tốt, làm đúng, làm
thiện, và nói tốt, nói đúng, nói thiện. Người thiện tâm là người
có tâm trí luôn luôn được bình an, thảnh thơi, thư thái.
-
A. - Thế nào là chánh tư duy?
- Chánh tư duy là sự suy nghĩ chân chánh. Nghĩa là con người cần
phải nghiệm xét, nghĩ suy, quán chiếu một cách đúng đắn, hợp với
chân lý, không trái với lẽ phải, có lợi cho mình và cho người.
Chúng ta thường xuyên suy nghĩ đến "giới, định, tuệ" để tu tập
giải thoát, suy nghĩ nguyên nhân gây đau khổ cho chúng sanh, để
giải thích và khuyến tu, suy nghĩ những hành vi lỗi lầm, những lời
nói sai trái và những tâm niệm xấu xa của chính mình để sám hối và
cải đổi. Tất cả những điều đó gọi là chánh tư duy. Chư Tổ có dạy:
"Phản quan tự kỷ bổn phận sự". Nghĩa là quay lại chiêm nghiệm, suy
xét, quán sát tự tâm chính mình là phận sự của chúng ta. Chánh tư
duy có ích lợi giúp con người không sống trong đen tối, không phạm
lỗi lầm do mê tín dị đoan.
- Ngày xưa, thời
Ðức Phật còn tại thế, có một người con của vị quốc sư, tên là Ma
Ha Ca Chiên Diên, đến với Ðức Phật xin được xuất gia tu hành. Ðức
Phật hỏi nguyên do nào ông phát tâm như thế. Ông trả lời rằng: Bởi
vì ông chiêm ngưỡng 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp của Ðức Phật. Ðức Phật
bèn nói: Như vậy, sau này khi thân tướng Như Lai già yếu, ông
không còn phát tâm nữa sao? Lần thứ hai, ông lại đến xin được xuất
gia. Ðức Phật lại hỏi nguyên do. Lần này ông đáp: Bởi vì ông tôn
trọng pháp âm vi diệu của Ðức Phật. Ðức Phật bèn nói: Như vậy, sau
này khi Như Lai không thuyết pháp, ông không còn phát tâm nữa sao?
Lần thứ ba, ông lại đến xin được xuất gia. Ðức Phật cũng hỏi
nguyên do. Lần này ông đáp: Bởi vì ông kính phục chư tăng tu hành
nghiêm túc, cẩn mật. Ðức Phật bèn nói: Như vậy, sau này khi tình
cờ thấy vị tăng nào tu hành không như ý ông, ông không còn phát
tâm nữa sao?
- Ba lần xin được
xuất gia đều không toại nguyện, dù ông hết lòng tán thán tam bảo
bên ngoài: Phật, Pháp, Tăng. Lần sau cùng, ông đến với Ðức Phật và
bạch rằng: Bạch Ðức Thế Tôn, từ lâu con đã nghe Thế Tôn thuyết
pháp, con đã suy nghĩ tường tận chín chắn. Sau đó, đem áp dụng cho
bản thân, áp dụng trong gia đình, con thấy có ích lợi thiết thực,
tâm được khinh an, gia đạo được yên vui. Cho nên con phát tâm xuất
gia để tu hành rốt ráo, cho đến giác ngộ và giải thoát, để tự lợi
và lợi tha. Ngưỡng mong Ðức Thế Tôn rủ lòng từ bi hứa khả. Lần đó,
Ðức Phật chấp nhận. Sau này, Ðại Ðức Ma Ha Ca Chiên Diên trở thành
vị đệ tử nghị luận bậc nhứt trong tăng đoàn thời Phật.
- Lời tác bạch
của Ðại Ðức Ma Ha Ca Chiên Diên mang ý nghĩa sâu sắc trong nhà
Phật: Ngài đã nghe Ðức Phật thuyết giảng giáo lý, đã suy nghĩ một
cách chín chắn tường tận, mới đem áp dụng vào đời sống của Ngài và
của gia đình. Ðó chính là ba bước "văn, tư, tu" để phát triển trí
tuệ bát nhã. Văn có nghĩa là nghe, là học hỏi, là nghiên cứu. Tư
có nghĩa là tư duy, là suy nghĩ chân chánh. Tu có nghĩa là sửa
đổi, là thực hành, là áp dụng. Còn được gọi là "Tam Tuệ Học" trong
Phật giáo. Ba lần đầu, Ngài hướng lòng tôn kính đến tam bảo bên
ngoài, nên chưa được chấp nhận.
- Sau cùng,
Ngài biết "phản quan tự kỷ", hướng về "tam bảo tự tâm", biết đường
hướng tu hành, để phát sanh trí tuệ. Nghĩa là Phật Tử biết hướng
về bản tánh sáng suốt của tự tâm gọi là Phật, hướng về pháp môn vi
diệu của tự tâm gọi là Pháp, hướng về bản thể thanh tịnh của tự
tâm gọi là Tăng. Do đó Ngài được chấp nhận, bởi vì đạo Phật là đạo
giác ngộ và giải thoát, con người đến với đạo Phật bằng cửa trí
tuệ, chứ không phải bằng niềm tin như các tôn giáo khác. Trong
Kinh A Hàm, Ðức Phật có dạy: "Tin tưởng Như Lai mà không hiểu Như
Lai, tức là phỉ báng Như Lai". Ðó chính là chánh tư duy vậy.
-
B. - Thế nào là tư duy bất chánh?
- Ngược lại, sự suy nghĩ ích kỷ, lợi mình hại người gọi là tư duy
bất chánh. Người nào suy nghĩ đến chuyện tà thuật để mê hoặc lòng
người, suy nghĩ đến những phương cách sâu độc để hại người hại
vật, suy nghĩ đến mưu cơ để trả thù báo oán, suy nghĩ đến tài sắc
danh vọng, đều gọi là tư duy bất chánh. Người nào luôn luôn suy
nghĩ đến chuyện lợi mình hại người như vậy, chắc chắn cuộc sống
không bình an, luôn luôn bất ổn, hại người nên sợ người hại, gạt
người nên sợ người gạt.
-
3. - Chánh Ngữ :
- Trong Kinh Hoa
Nghiêm, Ðức Phật có dạy: "Không nên nói lời vô nghĩa. Phải giữ
gìn lời nói. Lời nói phải chân thật, đúng lúc, hợp Chánh Pháp, ích
lợi cho mình cho người". Trong Kinh Pháp Cú, Ðức Phật có dạy:
"Dù nói hàng ngàn lời vô ích, không bằng chỉ nói một lời đúng
Chánh Pháp, có ích lợi làm cho tâm người nghe được an tịnh".
-
A . - Thế nào là chánh ngữ?
- Chánh ngữ là lời nói chân chánh. Nghĩa là con người nên nói lời
thật thà lương thiện, công bình ngay thẳng, có ích lợi chánh đáng.
Chánh ngữ là lời nói thành thật và sáng suốt; lời nói ngay thẳng
hợp lý, hòa nhã, rõ ràng và giản dị; lời nói ích lợi, dung hòa,
khuyến tấn và duy nhất. Chánh ngữ là lời nói hợp Chánh Pháp, có
ích lợi, đem lại hòa bình, yên vui cho mọi người mọi nơi. Người
giữ gìn chánh ngữ là người dè dặt khẩu nghiệp, cẩn trọng lời nói,
không bao giờ nói sai sự thực, không thiên vị, không xuyên tạc,
không vu oan giá họa, không hăm he hù dọa.
- Cổ nhân có dạy:
"Hãy uốn lưỡi bảy lần truớc khi nói". Uốn lưỡi đến bảy lần thì
khỏi nói luôn. Lúc đó gọi là ngộ đạo, bởi vì: "Ðạo bổn vô ngôn
thuyết", bởi vì: "Ngữ ngôn đạo đoạn". Nghĩa là đạo lý cao siêu,
vốn không thể nói, không có lời nào diễn đạt được. Khi còn nói lên
được, đó chỉ là phương tiện hướng dẫn mà thôi. Cho nên muốn kiến
đạo, đừng chấp lời nói, đừng chấp văn tự. Thí dụ như có người dùng
ngón tay để chỉ mặt trăng cho người khác thấy. Ngón tay chỉ là
phương tiện. Mặt trăng mới là mục đích cứu kính. Thấy được mặt
trăng gọi là thấy đạo, kiến đạo. Cho nên muốn thấy mặt trăng, đừng
chấp ngón tay thế này thế nọ.
- Tục ngữ có câu:
"Lời nói không mất tiền mua. Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau".
Trong xã hội hay gia đình, nếu mọi người đều thực hành hai câu
trên, xã hội sẽ an vui, gia đình sẽ hạnh phúc. Vợ chồng con cái
trên thuận dưới hòa, cộng đồng trên kính dưới nhường, cuộc đời
tươi đẹp biết là bao nhiêu. Một lời nói nói ra làm cho người nghe
hoan hỷ, nụ cười tươi tắn, tâm trí khinh an, đó gọi là chánh ngữ
vậy.
-
B. - Thế nào là tà ngữ? -
Ngược lại, lời nói bất chánh hay tà ngữ là lời nói không chánh
đáng, phi lý, tổn hại đến đời sống cùng danh dự của người. Một lời
nói ra có khi làm người nghe phải xức dầu cù là, nhức óc nhói tim,
có khi ngất xỉu tắt thở luôn, đó là lời nói sâu độc, hiểm ác, đay
nghiến, nguyền rủa, nhiếc mắng, thô tục. Một lời nói ra có khi làm
tan vỡ hạnh phúc gia đình người khác, đó là lời nói đặt điều thêm
bớt, thay trắng đổi đen, nước lã khuấy nên hồ, lộng giả thành
chơn, có nói không, không nói có.
- Một lời nói ra
có khi làm người khác mang họa vào thân, đó là lời nói vu khống
cáo gian, vu oan giá họa cho người. Một lời nói ra có khi làm
người khác lầm lẫn, đó là lời nói không đúng sự thực, không ngay
thẳng, thiên vị, dua nịnh, xuyên tạc, ngụy biện, trau chuốt, với
mục đích thủ lợi. Một lời nói ra có khi làm người khác xung đột
oán thù, thưa gởi kiện tụng, đó là lời nói dối trá, gây chia rẽ,
đâm bị thóc thọc bị gạo, có di hại cho mọi người và muôn vật.
Những người có nhiều tự ái, thường khó lòng nhịn được khi nghe
những lời nói trái ý, không thuận theo ý mình, thường hay tranh
cãi bằng mồm hoặc bằng thư rơi.
- Có những lời
nói vô nghĩa, nhưng cũng có thể làm cho người khác bực mình, tức
giận, bất an. Chẳng hạn như có người nói mình ngu như con bò mà
bày đặt dạy đời. Lời nói đó thực ra vô nghĩa lý, bởi vì mình không
ngu, mình không phải là con bò, cho nên không cần phải quan tâm
đến những lời nói như vậy. Trong Pháp Tứ Y, Ðức Phật có dạy: "Y
nghĩa bất y ngữ". Nghĩa là chúng ta chỉ nên quan tâm đến ý nghĩa,
không nên chấp vào lời nói. Ðược như vậy, chúng ta bớt nhiều phiền
não trên thế gian này.
-
4. - Chánh Nghiệp :
- Con người
thường có ba nghiệp, đó là: thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp.
Ở đây, chúng ta chỉ bàn về thân nghiệp. Còn khẩu nghiệp thuộc phần
chánh ngữ và ý nghiệp thuộc phần chánh niệm.
-
A. - Thế nào là chánh nghiệp?
- Chánh nghiệp là nghề nghiệp và hành động chân chánh. Nghĩa là
con người nên chọn nghề nghiệp chân chánh, hành động một cách ngay
thật, có ích lợi chánh đáng cho mình và cho người. Chánh nghiệp có
ích lợi giúp con người mang lại bình an, hạnh phúc cho chính mình
và cho mọi người xung quanh.
- Người giữ gìn
chánh nghiệp là người dè dặt thân nghiệp, luôn luôn thận trọng,
giữ gìn mọi hành động, cử chỉ, cách cư xử của mình, để không làm
thương tổn đến quyền lợi, nghề nghiệp, địa vị, danh giá, hạnh phúc
và tánh mạng của mọi người. Người giữ gìn chánh nghiệp là người
hành động theo lẽ phải, biết tôn trọng quyền sống và hạnh phúc của
mọi người và muôn vật, tôn trọng nghề nghiệp, không xâm phạm tài
sản của mọi người, không trác táng, tận tâm với chức nghiệp, biết
hy sinh để giải thoát khổ đau cho mọi người.
- Người giữ gìn
chánh nghiệp là người giữ gìn tam nghiệp được thanh tịnh. Kinh
sách có câu: "Tam nghiệp hằng thanh tịnh. Ðồng Phật vãng tây
phương". Nghĩa là nếu biết giữ gìn tam nghiệp luôn luôn được
thanh tịnh, chúng ta cùng với chư Phật, hiện đời sống trong cảnh
giới niết bàn, tự tại giải thoát, không phiền não, chẳng khổ đau,
không sợ địa ngục, chẳng cầu niết bàn.
-
B. - Thế nào là tà nghiệp? -
Ngược lại, tà nghiệp tức là hành vi hay động tác không chánh đáng,
phi lý bất lương, tổn hại mọi người. Ðó là các hành vi sát hại bạo
tàn, giết người hại vật coi như trò giải trí, thú vui tiêu khiển,
vui thích trên sự đau đớn của con người và của con thú, trộm cắp
của cải, chiếm đoạt tài sản, xúi giục kiện thưa, thưa kiện kiếm
tiền, ăn chơi trụy lạc, xa hoa trác táng, khuyến khích người khác
xa hoa trác táng, thượng đội hạ đạp, giẫm lên người khác để tiến
thân, bất chấp thủ đoạn, sáng tác thư rơi, đe dọa mạng sống, nặc
danh khủng bố, tinh thần người khác.
-
5. - Chánh Mạng:
- Có một vị thiền
sư khi tuổi đã cao, vẫn cứ ngày ngày làm lụng như mọi người khác,
các đệ tử thấy vậy bèn đem giấu các dụng cụ làm việc của thầy.
Ngày đó, vị thiền sư không làm việc được, nên chẳng chịu ăn uống,
và dạy rằng: "Một ngày không làm là một ngày không ăn".
-
A. - Thế nào là chánh mạng?
- Chánh mạng là mạng sống chân chánh. Nghĩa là con người cần sinh
sống một cách chánh đáng, có đời sống lương thiện, ngay thật,
trong sạch, không bạo tàn, không hèn mạt. Chánh mạng có ích lợi
giúp con người có cuộc sống bình đẳng, tương kính, không bị rẻ
khinh. Người giữ gìn chánh mạng là người sống một cuộc đời có ý
nghĩa, lợi mình, lợi người, không ăn bám ai, cũng chẳng ăn không
ngồi rồi. Người theo đúng chánh mạng là người sinh sống theo lẽ
phải, biết tôn trọng quyền sống và hạnh phúc của mọi người, tôn
trọng nghề nghiệp, không xâm phạm tài sản, tận lực làm việc, không
tổn hại mọi người và muôn vật, sinh sống với tài năng chân chánh,
không giả dối lừa gạt mọi người, sinh sống thanh cao không luồn
cúi, không thượng đội hạ đạp, sinh sống theo chánh giáo, không mê
tín dị đoan.
-
B.- Thế nào là tà mạng? -
Ngược lại, tà mạng là sinh sống bất lương, gian tham, không chánh
đáng, phi lý, phạm pháp, có tổn hại trực tiếp hay gián tiếp đến
mọi người, làm tổn hại chúng sanh, giết thú lột da, cưa ngà xẻ
thịt, moi óc bẻ sừng, vặt lông làm đồ trang sức, may áo may quần,
cúng trăng cúng sao, tiên đoán vận mệnh, xem quẻ bói xăm, coi tuổi
tình duyên, tương lai gia đạo, ăn gian nói dối, lường gạt mọi
người, giao dịch gạt gẫm, sáng chế vũ khí, giết người hại vật, chế
đồ giả mạo. Quan niệm một ngày ăn cướp bằng ba năm làm, sống theo
lối nước đục thả câu, ngư ông hưởng lợi, đó là tà mạng.
-
6. - Chánh Tinh Tấn:
- Trong Kinh Di
Giáo, Ðức Phật có dạy: "Nếu chuyên cần tinh tấn thì không có
việc gì khó. Ví như nước chảy mãi, đá cũng phải mòn". Trong
Kinh Tứ Thập Nhị Chương, Ðức Phật có dạy: "Người học đạo phải
nên kiên tâm, trì chí, tinh tấn, dũng mãnh, không sợ cảnh khổ
trước mắt, phá diệt tà tâm, đạt thành đạo quả".
-
A.- Thế nào là chánh tinh tấn?
- Chánh tinh tấn là sự siêng năng chân chánh. Nghĩa là con người
siêng năng làm những việc có ích lợi cho mình và cho người. Chánh
tinh tấn có ích lợi giúp con người cải tạo thân tâm ngày một thanh
tịnh, tốt đẹp hơn, cuộc đời có ý nghĩa hơn. Người theo đúng chánh
tinh tấn bao giờ cũng phản quan tự kỷ, quay lại xét mình, siêng
năng chuyển hóa tâm trí, cải đổi tánh tình.
- Trong Kinh Ðại
Bát Niết Bàn, Ðức Phật có dạy: "Chư ác mạc tác. Chúng thiện
phụng hành. Tự tịnh kỳ ý. Thị chư Phật giáo". Nghĩa là: Không
bao giờ nên làm các điều ác, các điều bất thiện, dù là nhỏ nhặt.
Luôn luôn tinh tấn làm tất cả các điều thiện, dù là điều thiện rất
nhỏ. Tự thanh tịnh tâm ý của chính mình. Ðó là lời dạy của thập
phương tam thế chư Phật. Người theo đúng chánh tinh tấn bao giờ
cũng siêng năng sám hối, trừ bỏ những lỗi lầm tội ác đã sinh,
siêng năng tu tập các pháp lành, ngăn ngừa tội ác chưa sinh, siêng
năng làm việc thiện để tạo thêm phước, phát triển việc lành, siêng
năng tu tâm dưỡng tánh, việc thiện chưa sinh làm cho phát sinh, dù
trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng vậy, không hề đổi thay, không chút
chán chường.
- Sách có câu:
"Có công mài sắt có ngày nên kim", nói lên sự kiên tâm bền chí,
nhẫn nại phi thường, trải qua thời gian năm tháng, không sờn lòng,
không khuất phục, để đạt cho bằng được mục đích cao cả của mình.
Người tu theo hạnh tinh tấn của Bồ Tát Ðại Thế Chí, làm các việc
thiện, cứu người giúp đời, không biết mệt mỏi, không hề nản lòng,
không màng tính toán, không chút so đo, không chịu ngừng nghỉ, mặc
dù đang gặp nghịch cảnh, đang mắc khổ nạn, đang gặp oán thù, mặc
dù có gặp người lấy oán báo ân, cũng vẫn bình thản. Ðó là chánh
tinh tấn vậy.
-
B.- Thế nào là tinh tấn bất chánh?
- Ngược lại, có rất nhiều người siêng năng làm những việc bất
chánh. Ðó là những người chuyên sát nhơn hại vật, gian xảo trộm
cắp. Có những người siêng năng trong các việc dối trá hiểm độc,
sáng tác thư rơi, dua nịnh xuyên tạc, rượu chè cờ bạc, xa hoa
phung phí, phỉ báng mọi người. Cũng có những người siêng năng bới
lông tìm vết, vạch lá tìm sâu, soi mói đời tư, viết thư nặc danh,
ngụy tạo chứng cớ, thưa gởi kiện tụng, làm khổ chúng sanh.
-
7. - Chánh Niệm:
- Trong Kinh Ðại
Tập, Ðức Phật có dạy: "Nếu thường xuyên giữ được chánh niệm,
tâm không loạn động, dứt trừ được phiền não, thì chẳng bao lâu đắc
thành quả vô thượng bồ đề". Trong Kinh A Hàm, Ðức Phật có dạy:
"Không hạnh phúc nào có thể so sánh với sự yên tĩnh của tâm
trí".
-
A. - Thế nào là chánh niệm?
- Chánh niệm là sự nhớ nghĩ chân chánh. Nghĩa là con người có
những ý niệm chánh đáng, những đạo lý giác ngộ và giải thoát.
Chánh niệm có ích lợi giúp con người sống trong an ổn, yên vui,
không tạp niệm, ngày ăn ngon, tối ngủ yên. Người giữ gìn chánh
niệm là người dè dặt với ý nghiệp, luôn luôn nhớ nghĩ tứ trọng ân:
ân cha mẹ, ân thầy tổ, ân đất nước, ân mọi người, nhớ nghĩ lỗi lầm
để sửa đổi. Người giữ gìn chánh niệm là người sống trong cảnh giới
an lạc và hạnh phúc. Ðể giúp giữ gìn chánh niệm, Ðức Phật có dạy
bốn phương pháp tập trung tư tưởng như sau: quán thân bất tịnh,
quán thọ thị khổ, quán tâm vô thường, quán pháp vô ngã. Các pháp
quán tưởng này được gọi là "Tứ niệm xứ". Tứ nghĩa là bốn. Niệm
nghĩa là thường nhớ nghĩ. Xứ nghĩa là nơi chốn.
- a)
Quán thân bất tịnh: Nghĩa là quán tưởng thân mình là
tập hợp những thứ bất tịnh, không trong sạch, nhơ nhớp, được bọc
ngoài bởi lớp da cũng chẳng mấy gì sạch sẽ cho lắm. Khi mạnh khỏe
thì còn tạm tạm. Khi ốm đau, tai nạn, bệnh hoạn, già nua, thân
mình nhơ nhớp, máu mủ tanh hôi, ghẻ chốc gớm ghiếc, da dẻ nhăn
nhúm, đến lúc tắt thở, sình chương hôi thúi, không ai chịu nổi!
Món ăn dù ngon, đưa vô miệng rồi, lỡ rớt ra ngoài, không dám ăn
lại!
- b)
Quán thọ thị khổ: Nghĩa là quán tưởng sự cảm thọ, thọ
nhận là khổ. Do tâm tham lam, con người thọ nhận đủ thứ vật chất
của cải để vinh thân phì gia, không cần biết của thọ nhận chính
hay tà, bo bo giữ gìn, đến lúc chết, sinh lòng tiếc của, nhắm mắt
không yên. Do tâm sân hận, con người thọ nhận đủ thứ lời nói khó
nghe, dù vô nghĩa, để bực dọc, tức tối, bất an, sinh lòng thù oán.
Do tâm si mê, con người thọ nhận những tư tưởng mười năm báo thù
không muộn, do điều gì bất như ý, chạm chút tự ái, cũng hăm he
thưa kiện, nhứt định trả thù, để rồi gây ra biết bao nhiêu đau khổ
cho người, dù thân hay thù. Nói vắn tắt là: Thọ nhiều thì khổ
nhiều, chấp nhiều thì mệt nhiều. Buông xả thì thanh thản, tha thứ
thì thư thái. Chuyện rất đơn giản, thực hành không dễ dàng, nhưng
không phải bất khả.
- c)
Quán tâm vô thường: Nghĩa là quán tưởng cái tâm nhỏ
hẹp của mình luôn luôn thay đổi, mới nghĩ thế này liền nghĩ thế
khác, lúc thương yêu đắm đuối lúc thù hận ngập tràn, lúc thân lúc
thù, lúc vui lúc buồn, lúc thương lúc ghét, lúc hiền thiện lúc
gian tà. Tâm của chúng ta luôn luôn dính với cảnh trần bên ngoài,
kinh sách gọi là tâm phan duyên. Cảnh trần bên ngoài thuận ý, vừa
tai thì vui thích. Cảnh trần bên ngoài nghịch ý, chói tai thì tức
tối. Nếu chỉ chạy theo sự sai khiến của cái tâm vô thường như vậy,
con người tạo tác không biết bao nhiêu nghiệp chướng, cho nên trôi
lăn, trầm luân trong sinh tử không biết bao nhiêu đời, bao nhiêu
kiếp!
- Trong kinh sách
có câu: "Ðối cảnh vô tâm mạc vấn thiền". Nghĩa là khi nào tâm của
chúng ta không còn dính với cảnh trần nữa, thản nhiên trước sự
thịnh suy, thăng trầm của đời sống, bình thản trước những lời khen
tiếng chê, vượt qua được sóng gió của cuộc đời, tức nhiên tâm của
chúng ta sẽ được khinh an, tự tại, niết bàn và thiền định rồi đó
vậy.
- d) Quán pháp vô ngã:
Nghĩa là quán tưởng các pháp trên thế gian này đều không có bản
thể nhứt định, gọi là vô ngã. Các pháp, là tất cả sự sự vật vật
trên cuộc đời, không có cái gì cố định. Tất cả chỉ là một dòng
chuyển biến không ngừng. Con người thấy đó mất đó. Chuyện gì rồi
cũng đổi thay, rồi cũng qua mau. Ðừng phí sức, đừng bận tâm với
các pháp của thế gian. Chẳng hạn như có câu: "Hết cơn bỉ cực tới
hồi thới lai", hoặc "Sau cơn mưa trời lại sáng".
- Trong Kinh A
Hàm, Ðức Phật có dạy: "Chư pháp tùng nhân duyên sanh. Chư pháp
tùng nhân duyên diệt". Nghĩa là muôn sự muôn vật trên đời tùy
theo nhân duyên mà sinh ra, cũng tùy theo nhân duyên mà diệt đi.
Không có cái gì, vật gì có thực tướng, không có cái gì, vật gì tồn
tại vĩnh viễn. Người ta chửi mình do mình gây nghiệp bất thiện cảm
với người. Người ta chửi mãi mõi miệng thì cũng ngưng thôi, tức
giận làm chi cho mệt! Ðừng đưa cái bản ngã của mình, tức là cái
tôi, cái ta, tây phương gọi là "EGO", ra hứng những ngọn lửa của
thế gian, thì mình đâu có bị đốt cháy, đâu có bị nhiệt não, đâu có
bị khổ tâm, đâu có bị ngày ăn không ngon, tối ngủ chẳng yên. Ngọn
lửa không thể đốt hư không được, sẽ tự dập tắt thôi. Vô ngã đơn
giản là như vậy đó!
-
B. - Thế nào là tà niệm, tạp niệm, vọng
niệm? - Ngược lại, tà niệm là những ý niệm không chánh
đáng, vọng niệm là những ý niệm hư dối, tạp niệm là những ý niệm
lung tung linh tinh lang tang. Những người luôn luôn nhớ nghĩ lỗi
người để phê bình chỉ trích, nhớ nghĩ oán thù để phục hận trả thù,
nhớ nghĩ ngũ dục: tiền tài, nhan sắc, danh vọng, ẩm thực, thùy
miên, luôn nhớ nghĩ đến những thành tích xấu xa, gian giảo, để tự
hào tự đắc, đó gọi là tà niệm, tạp niệm hay vọng niệm.
- Chư Tổ có dạy:
"Nội cần khắc niệm chi công. Ngoại hoằng bất tranh chi đức".
Nghĩa là: Bên trong, chúng ta cố gắng khắc phục tâm niệm lăng xăng
lộn xộn, giữ gìn chánh niệm, chăn giữ ý nghiệp, đó mới là công phu
tu tập đúng Chánh Pháp. Bên ngoài, chúng ta giữ gìn chánh ngữ,
canh chừng khẩu nghiệp, không tranh cãi, không hơn thua, đó là đức
độ của người tu theo đạo Phật. Cho dù có bị phỉ báng, có gặp
nghịch cảnh, cũng vẫn bình tĩnh thản nhiên, ngoài mặt cũng như
trong lòng, không khởi lên bất cứ tâm niệm gì cả.
-
8. - Chánh Ðịnh:
- Muốn được cuộc
sống an lạc và hạnh phúc, chúng ta phải khắc phục tâm ý của chính
mình. Khắc phục tâm ý và an trụ tâm ý là mục đích chính yếu của
người tu theo đạo Phật. Chế ngự được, khắc phục được tâm viên ý
mã, tức là tâm như con vượn, ý như con ngựa nhảy nhót lung tung,
chúng ta mới đạt được chánh định, đó là cảnh giới niết bàn, an
nhiên tự tại, không khổ đau, chẳng phiền não.
-
A. - Thế nào là chánh định?
- Chánh định là sự thiền định chân chánh. Nghĩa là con người tập
trung tư tưởng vào một vấn đề chánh đáng, đúng với chân lý, hợp lẽ
phải. Người đạt được chánh định là người bình tĩnh, thản nhiên
trước bát phong của cuộc đời. Chánh định có ích lợi giúp con người
phát triển trí tuệ, mau tiến đến giác ngộ và giải thoát. Tâm trí
của con người thường xuyên lăng xăng lộn xộn, nhớ nghĩ lung tung,
linh tinh lang tang, không có dừng nghỉ, từ đông sang tây, từ cổ
chí kim, từ chuyện lớn đến chuyện nhỏ, từ thế giới năm châu đến
phụ nữ nhi đồng, từ quốc gia đại sự đến hang cùng ngõ hẹp, hết
chuyện gia đình đến chuyện hàng xóm, chuyện xưa chuyện nay, thương
ghét tốt xấu, thị phi phải quấy. Tất cả những chuyện như vậy làm
cho tâm của chúng ta luôn luôn loạn động. Tâm loạn động thì trí
bất an. Ngày ăn không ngon, tối ngủ chẳng yên. Ðể giúp con người
đạt được chánh định, Ðức Phật dạy các pháp quán tưởng sau đây:
- a)
Quán sổ tức: Nghĩa là quán tưởng bằng cách đếm hơi
thở ra hơi thở vào, để đối trị tâm loạn động. Ðến khi thuần thục,
chỉ cần theo dõi hơi thở, không cần đếm số như lúc mới bắt đầu, đó
gọi là tùy tức quán. Sách có câu: "Thở vào tâm tĩnh lặng. Thở ra
miệng mỉm cười".
- b)
Quán bất tịnh: Nghĩa là quán tưởng thân mình là một
tập hợp những thứ bất tịnh, không có gì đáng quan trọng, khi chết
thân mình chỉ còn là một cái thây ma không ai dám đến gần, kể cả
những người thân thiết nhất trên đời, để đối trị tâm tham dục.
- c)
Quán từ bi: Nghĩa là quán tưởng mọi người đều bình
đẳng, đều có Phật Tánh như nhau, đều đáng thương như nhau, thương
người như thể thương thân, để diệt trừ tâm sân hận, thù hằn, oán
hờn, ganh ghét, ích kỷ, đố kỵ. Không thể chỉ vì một chút tự ái nhỏ
nhặt, một chút mặt mũi, danh dự nào đó, có thể tạo nghiệp oán thù,
kiện tụng thưa gởi. Cổ nhân có dạy: "Chuyện gì mình không muốn
người khác làm cho mình, thì mình đừng làm cho người khác", cho dù
với mục đích trả thù, trừng trị kẻ khác, vì bất cứ lý do gì!
- d)
Quán nhân duyên: Nghĩa là quán tưởng tất cả muôn pháp
đều do nhân duyên sinh ra, cho nên giả hợp, không bền vững, không
tồn tại vĩnh viễn, để đoạn trừ si mê, chấp ngã và chấp pháp. Muốn
thực hành pháp quán này, cần thấu triệt và tin sâu "Lý Nhân Quả"
hay "Lý Nhân Duyên".
- e)
Quán giới phân biệt: Nghĩa là quán tưởng lục căn tiếp
xúc với lục trần sinh ra lục thức, tất cả đều giả tạm, không thực.
Lục căn, là sáu cơ quan của thân, đó là: mắt, tai, mũi, lưỡi,
thân, ý, tiếp xúc với lục trần, là sáu cảnh trên trần đời, bao
gồm: sắc tướng, âm thinh, mùi hương, mùi vị, cảm xúc, ký ức. Sự
tiếp xúc đó gây nên những cảm giác, những ấn tượng, gọi là lục
thức. Trong kinh sách, lục căn, lục thức và lục trần gọi chung là
thập bát giới.
- Thí dụ như mắt
trông thấy sắc là viên kim cương, bèn sinh lòng ham thích. Sự ham
thích đó chỉ giả tạm, không nên theo. Bây giờ thấy thích, về sau
có thể không còn thích nữa. Nhưng nếu theo nó, thì chúng ta phải
lo tranh giành, lo kiếm tiền, làm việc quần quật, đầu tắt mặt tối,
từ sáng sớm đến khuya lơ, để mua sắm cho bằng được, cho nên cực
khổ tấm thân, mệt nhọc trí óc. Thí dụ như tai nghe thấy tiếng khen
thì khoái chí, thích ý, tối ngủ không được, cứ nhớ tới hoài. Nếu
tai nghe thấy tiếng chê tiếng chửi, thì đâm ra bực dọc tức tối,
càng khó ngủ hơn, cho nên tấm thân cực khổ trăm bề. Trong kinh
sách, có bài kệ như sau:
- Mắt trông thấy sắc rồi thôi,
(không dính, thôi được thì tốt)
Tai nghe thấy tiếng nghe rồi thì không. (không mắc, lơ được thì
hay)
Trơ trơ lẳng lặng cõi lòng, (bình thản, tâm được khinh an)
Nhẹ nhàng ta bước khỏi vòng trầm luân. (giải thoát, khỏi phiền não
và khổ đau)
-
B. - Thế nào là tà định hay tà thiền?
- Ngược lại, tà định hay tà thiền là sự bình tĩnh trong việc làm
tổn hại đến mọi người, lạnh lùng tàn nhẫn khi thấy người khốn khổ
đớn đau, không chút xót thương, không hề tình cảm. Những người tu
tập thiền định để luyện trường sanh bất tử, thiền định để dối gạt
người, đều không phải là chánh định.
- * * *
- Tóm lại, Bát
Chánh Ðạo là pháp môn rất thiết yếu, rất thực tế, rất thông dụng
cho bất cứ ai, không cứ phải là Phật Tử, trên thế gian này, muốn
xây dựng một cuộc sống có ý nghĩa, muốn sống trong an lạc và hạnh
phúc. Bát chánh đạo giúp con người cải thiện tự thân. Con người do
mê mờ nên hành vi bất chánh, ngôn ngữ đảo điên, ý niệm tà vạy,
chạy theo dục vọng, sống theo tà đạo, làm việc bất lương. Trái
lại, nếu con người biết tu theo bát chánh đạo thì sẽ chuyển hóa
được những sự bất chánh nói trên, kiến tạo được một đời sống chân
chánh, ích lợi, an lạc và hạnh phúc.
- Bát chánh đạo
giúp con người cải tạo hoàn cảnh. Hoàn cảnh là phản ánh của tự
tâm. Tự tâm bình thản thì hoàn cảnh an vui. Tự tâm rối loạn thì
hoàn cảnh bất an. Trong kinh sách, tự tâm gọi là chánh báo, hoàn
cảnh gọi là y báo. Chánh báo thế nào thì y báo thế ấy.
Người có tâm lương thiện thì sống trong cảnh hiền lành. Người có
tâm gian ác thì luôn luôn sống trong cảnh âu lo căng thẳng, thấp
thỏm phập phồng. Trên thế gian này, sở dĩ có những hoàn cảnh khổ
đau, bởi vì con người không biết sống theo bát chánh đạo. Nếu mọi
người đều biết sống theo bát chánh đạo, thì thế gian này chính là
thiên đàng, là cực lạc. Ðừng đứng núi này trông qua núi nọ. Như
vậy chỉ khổ thân và khổ tâm mà thôi. Tùy theo chỗ ở thường an lạc.
- Sách có câu:
- Tâm buồn cảnh được vui sao
Tâm an dù cảnh ngộ nào cũng an.
- Chư Tổ có dạy:
"Tu mà không học là tu mù. Học mà không tu là đãy sách". Nghĩa là
người phát tâm thực hành việc tu sửa thân tâm mình, mà không chịu
học giáo lý, không tìm hiểu Chánh Pháp, ai nói gì cũng nghe, ai
bảo gì cũng tin, đúng là mù quáng. Còn người chỉ biết lo nghiên
cứu, học rộng hiểu nhiều, không lo tu tâm dưỡng tánh, không chịu
quán sát tự tâm, chỉ lo phê bình chỉ trích người khác, đúng là cái
tủ, cái đãy, hay cái bị đựng sách mà thôi, chẳng ích lợi gì cả.
Thí dụ như có người suốt ngày đếm tiền ở nhà băng của chủ, có
người suốt ngày chăn trâu ngoài đồng cho chủ, chiều về đến nhà,
tiền không có, trâu cũng không!
- Trong Kinh Thủ
Lăng Nghiêm, Ðức Phật có dạy: "Tuy có học rộng hiểu nhiều mà
không tu hành, cũng đồng như người không học không hiểu. Chẳng
khác nào người nói ăn mà không ăn, trọn không thể nào no được".
Theo quan điểm của Phật giáo, không cần phải thờ phượng Ðức Phật
Thích Ca, hay bất cứ vị Phật nào, vị Bồ Tát nào, chỉ cần sống đúng
theo tinh thần bát chánh đạo, bất cứ người nào cũng đều được an
lạc và hạnh phúc, cao hơn nữa, đều được giác ngộ và giải thoát.
Bằng như ngược lại, lập bàn thờ Phật tại gia, đi chùa lễ lạy, mà
không sống đúng theo tinh thần bát chánh đạo, dù là Phật tử tại
gia hay xuất gia, cũng chẳng có ích lợi gì! Ðó mới thực là chí
công vô tư, mới thực là chánh đạo vậy.
--o0o--
|
|