-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Cư Trần Lạc Ðạo
-
(Trọn bộ 3 tập)
-
Toronto, Canada
1999 - PL 2543
-
-
Tập 2
-
- [01]
- Ăn mặn, ăn
chay
-
Trong cuộc sống hằng ngày
của chúng ta, vấn đề mọi người thường lưu tâm hàng đầu chính là
việc ăn uống. Nếu con người không cần phải ăn uống, chắc là trên
đời không có chuyện đấu tranh giành giựt, không có chiến tranh xâm
lăng, vì quyền lợi của dân tộc mạnh, cuộc sống của nhân loại sẽ
thái bình, an ninh, vui tươi, hạnh phúc. Ðó là phạm vi chung của
nhân loại. Riêng trong đạo Phật, cũng việc ăn uống, có một vấn đề,
nội dung phức tạp, thường gây thắc mắc, tranh luận đúng sai, nên
hay không nên, cho khá nhiều người. Ðó là: Ăn Mặn và Ăn Chay.
- Ăn mặn là từ
ngữ chỉ việc ăn uống thông thường, bình thường, thường nhựt của
bất cứ người nào trên thế gian, không quan hệ với bất cứ phong
tục, tập quán, hay tín ngưỡng nào. Nói một cách khác: Ăn mặn có
nghĩa là ăn tất cả các loại thực phẩm có thể ăn được, trên trái
đất này, bao gồm thịt động vật, trứng, sữa, và các loại thực vật,
rau cải trái cây.
- Ăn chay là từ
ngữ có nhiều nghĩa khác nhau, tùy theo phong tục, tập quán, hay
tín ngưỡng. Có nhiều nơi, ăn chay có nghĩa là: không ăn thịt heo,
hay cữ thịt bò. Có nhiều nơi, ăn chay có nghĩa là: không ăn các
loại thịt động vật, sống trên mặt đất, nhưng có thể ăn các loại
sinh vật, sống ở dưới nước. Ăn chay có hai lý do chính: Một là, vì
lý do phong tục, tập quán, hay tín ngưỡng; hai là, vì lý do sức
khỏe.
- Trong phạm vi đạo Phật, nói một
cách đơn giản, ăn chay có nghĩa là: ăn tất cả các thức ăn, thực
phẩm không có liên quan đến mạng sống của chúng sinh. Bài viết này
có mục đích tìm hiểu vấn đề ăn mặn và ăn chay, trong phạm vi đạo
Phật, mà thôi.
- * * *
- Theo các nhà
dinh dưỡng học, muốn có một cuộc sống đầy đủ sức khỏe, muốn có đủ
năng lực hoạt động trong cuộc đời, chúng ta phải lưu tâm đến việc
ăn uống điều độ, và đầy đủ chất dinh dưỡng. Sách có câu: "Tinh
thần minh mẩn trong thân thể tráng kiện". Chúng ta thường được
chỉ dẫn, nên theo một chế độ ăn uống thích hợp, với bao nhiêu phân
lượng chất đạm, chất xơ, chất bột, chất béo, chất ngọt, chất
khoáng, chất vôi, chất sắt, chất nước, và các loại sinh tố, trong
một ngày, để cơ thể có đủ năng lượng hoạt động, một cách tốt đẹp,
và sống lâu trăm tuổi, một cách khỏe mạnh.
- Theo các báo
cáo khoa học, rau cải, ngũ cốc, hoa quả, thực vật, cũng đầy đủ
chất dinh dưỡng cho sức khỏe, cho nhu cầu sinh hoạt hằng ngày,
trong đời sống của con người. Các người ăn chay vẫn sống khỏe sống
thọ, không khác những người ăn mặn. Trong số các thú vật, như con
voi, con tê giác, con trâu, con bò, con ngựa, là những con thú ăn
thực vật, thảo mộc, nhưng rất khỏe mạnh, không khác các loài thú
ăn thịt sống, như sư tử, cọp, gấu, beo. Ăn chay còn có ích lợi cho
sức khỏe, như dễ tiêu hóa hơn, ít gây bệnh tật hơn. Trên thế giới
ngày nay, tây phương cũng như đông phương, số người ăn chay, vì lý
do sức khỏe, ngày càng nhiều hơn, theo khuyến khích của giới y sĩ,
và số người ăn chay, vì lý do tín ngưỡng, cũng gia tăng nhiều hơn.
- Những người
phát tâm ăn chay, vì lòng từ bi, không cứ phải là người theo đạo
Phật, thường cảm thấy an vui lợi lạc, và nhẹ nhàng hơn, dễ cảm
thông với các loài sinh vật khác, và yêu mến thiên nhiên hơn, cảm
nhận được vũ trụ vạn vật đều đồng nhứt thể. Những người ăn chay,
vì lý do sức khỏe, cũng như lý do tâm linh, thường hiền lành hơn,
ít náo động hơn, tâm tánh dễ dãi hơn, nhưng vẫn sinh hoạt bình
thường, như bao nhiêu người khác. Những người chung quanh thường
cảm thấy an tâm hơn, khi sống gần gũi người ăn chay. Những con thú
chỉ ăn thực vật thảo mộc, không bao giờ sát hại các sinh vật khác,
không gây sợ hãi cho các loài vật sống gần bên.
- Tại sao
chúng ta nên ăn chay?
- Như trên chúng ta đã biết, ngoài
những ích lợi về phương diện sức khỏe thể chất, ăn chay trong đạo
Phật có mục đích cốt yếu là: "Tránh nghiệp sát sinh và trưởng
dưỡng tâm từ bi". Chứ không phải ăn chay để được thành Phật,
để đạt Niết bàn, rước lên thiên đàng, chết về tây phương! Càng
không phải ăn chay để đem khoe khoang, khắp cả xóm làng, rằng mình
từ bi không ai bằng, rủa xả dè bỉu, phỉ báng tàn mạt những người
chưa biết tại sao nên ăn chay, hoặc những người chưa thể ăn chay
vì nhiều lý do khác nhau. Con người có trí tuệ đến với đạo Phật vì
Chánh Pháp vi diệu thậm thâm, có thể giúp đỡ con người giác ngộ,
thoát ly sanh tử luân hồi, thanh tịnh hóa tâm trí, thân an tâm
lạc, đạt được cuộc sống an lạc và hạnh phúc hiện đời, chứ không
phải đạo Phật đơn thuần chỉ là đạo ăn chay.
- Thực vậy, vì
con người không có tâm từ bi thực sự, con người còn ám hại con
người, con người còn ganh tỵ đố kị con người, con người còn muốn
thấy người khác đọa địa ngục vì không theo tôn giáo mình, không
cùng môn phái, không cùng pháp tu, không đồng quan điểm với mình
về một vấn đề nào đó, làm sao có thể biết nghĩ đến việc ban vui
cứu khổ muôn loài. Thói thường, kẻ mạnh hiếp đáp kẻ yếu, người có
thế lực chèn ép người cô thế, kẻ giàu tiền lắm của đàn áp người
nghèo khó khốn cùng, cá lớn nuốt cá bé, lấy thịt đè người, khinh
người sơ cơ, nằm mơ cực lạc, xuyên tạc người hiền, làm tiền đồng
đạo, làm sao thế gian này có hòa bình, an vui, lợi lạc cho được.
- Người tự nguyện
phát tâm ăn chay là người có tâm từ bi vô lượng, coi muôn loài như
bản thân mình, không thích giết hại một sinh vật nào, không muốn
nhìn thấy một sinh vật nào đau khổ, để thỏa mãn dục vọng của con
người. Ăn chay còn giúp cho các sinh vật, thoát khỏi cảnh cá chậu
chim lồng, sống bị giam cầm khốn khổ, đầy đọa trong địa ngục trần
gian, chờ ngày giờ chết đớn đau. Trong cuộc sống hằng ngày, người
Phật Tử phải căn cứ trên hạnh từ bi, bình đẳng và lợi tha, trong
mỗi hành động, lời nói và ý nghĩ. Cổ nhân có nói: "Nhứt thiết
chúng sinh vô sát nghiệp, hà sầu thế giới động đao binh".
Nghĩa là: Nếu tất cả chúng sinh không sát hại lẫn nhau, thì lo gì
thế giới có chiến tranh.
- Lòng từ bi của
những người ăn chay, biết thương yêu loài người, lan rộng đến các
loài sinh vật. Họ hiểu biết rằng các loài sinh vật đều ham sống sợ
chết, đều bình đẳng trước sự đau khổ, khi bị sát hại, cũng như
loài người, không khác. Chứ không phải, người ăn chay chỉ vì lý do
sức khỏe, không thể ăn thịt được, hoặc ăn chay với tâm mong cầu
được sống lâu hơn, được lên thiên đàng, được về cực lạc. Tại sao
vậy? Bởi vì, con trâu con bò, con lừa con ngựa, cũng là ăn chay,
chỉ biết ăn cỏ, không ăn thịt được, nhưng, đời sống của chúng,
khốn khổ khốn nạn, biết là bao nhiêu.
- Cũng không phải
ăn chay để thỏa mãn mục đích cầu danh: muốn được mọi người, tán
thưởng khen mình, như là một bậc, bồ tát tại thế, đã thọ bồ tát
giới, hành bồ tát đạo, bao nhiêu người khác, chỉ là kẻ xạo, vì
không ăn chay, hay cỡ như mình. Người ăn chay trường khinh khi
người ăn chay kỳ, người ăn chay kỳ khi dể người chưa biết ăn chay.
Tâm của những người như vậy chưa thanh tịnh, còn quá loạn động,
lăng xăng lộn xộn, còn thích hơn thua, mua danh kiếm tiếng, khiến
người không ưa, ngay trong đồng đạo, đồng môn đồng bào, cả với
đồng loại, làm sao người đó, có thể gặp Phật, có thể thành Phật?
- Trong Kinh Pháp
Bảo Ðàn, Lục Tổ Huệ Năng có dạy:
- "Muốn học
đạo Vô Thượng Bồ Ðề, chẳng nên khinh dể hàng sơ học. Có kẻ dưới
bực thấp mà thường phát sinh trí tuệ rất cao,cũng có người trên
bực cao mà thường chôn lấp lý trí của mình. Nếu khinh dể người, ắt
có tội vô lượng vô biên".
- Trên thế gian này, không ai hơn ai
cả! Tất cả mọi người với chư Phật bình đẳng, không khác, con người
chỉ khác ở chỗ mê ngộ không đồng, nghiệp báo khác nhau, cho nên
hình tướng bên ngoài của con người khác nhau. Ðây mới chính là ý
nghĩa của lời Ðức Phật dạy trong Kinh Hoa Nghiêm: "Nhứt thiết
chúng sanh giai hữu Phật Tánh". Nghĩa là: Tất cả chúng sanh
đều có tánh giác, còn gọi là Phật Tánh. Phật và chúng sanh tánh
thường rỗng lặng, chính là nghĩa như vậy. Người nào có tâm cố
chấp, bất cứ thứ gì xảy đến, đều gây phiền não khổ đau, đến khi họ
thức tỉnh, xả bỏ tâm cố chấp, tức nhiên họ được giác ngộ, giải
thoát khỏi những phiền não khổ đau, sống được trong cảnh giới an
lạc và hạnh phúc, mặc dù cảnh đời vẫn tiếp tục còn nhiều bất trắc,
sóng gió, và thăng trầm.
- * * *
- Có những người
đem tâm từ bi chan rải cho những loài vật nhỏ nhít, như côn trùng
gián kiến ruồi muỗi, không dám sát hại chúng, hoặc những loài vật
lớn hơn, như gà vịt heo bò, không dám ăn thịt chúng, cho nên họ ăn
chay trường và sống chung với gián kiến ruồi muỗi, hoặc xua đuổi
chúng sang nhà kế bên! Thế nhưng đối với, những người chung quanh,
gần như vợ chồng, ông bà cha mẹ, anh em con cháu, xa hơn một chút,
hàng xóm láng giềng, đồng nghiệp đồng môn, nói chung đồng loại,
nhân loại loài người, một câu lỡ lời, thì họ nhứt định, không chịu
bỏ qua, thứ tha lỗi người. Họ rất sẵn sàng, thưa gửi kiện tụng, vu
khống cáo gian, đặt điều thêm bớt, bới bèo ra bọ, vạch lá tìm sâu,
làm cho người khác, te tua tơi tả, tan tành hoa lá, khốn khổ khốn
nạn, họ mới thỏa mãn, hả dạ hài lòng, mới thiệt vừa ý! Một câu nói
của họ đủ khiến cho người khác chóng mặt nhức đầu, xức dầu cù là,
hoặc là cạo gió, ngất xỉu hụt hơi, có người hết thở!
- Cũng có những
người, tại gia tại chùa, sợ tội sát sinh, những khi có bệnh, không
dám uống thuốc, không dùng thuốc thoa, dù ở ngoài da, sợ diệt vi
trùng, bởi vì quan niệm, bệnh là quả báo, tất cả mọi người, phải
trả cho xong, cầu mong cực lạc. Thậm chí phản đối, đủ thứ các
việc, phá rừng làm rẫy, làm ruộng trừ sâu, phá hoại mùa màng, họ
liền kết án, hủy hoại môi sinh, chiếm đoạt môi trường, côn trùng
thú dữ, không chỗ nương thân! Họ đâu biết rằng: chính ngay trong
miệng, biết bao vi trùng, ngay trong ly nước, bao nhiêu vi khuẩn!
Chính bởi vì thế, có những tà giáo, không cho sang máu, khi nằm
trị bệnh, đành để bệnh nhân, chịu chết chứ sao!
- Cũng có những
người, tại gia tại chùa, không dám trừ khử, gián kiến bọ chuột,
còn đem thêm đồ, để cho chúng ăn, sợ chúng đói chết, kẻo mà tội
nghiệp, nhưng họ không hề, giúp bất cứ ai, dù rằng người đó, đang
gặp khốn khó, khốn khổ khốn nạn, dù là người thân, hoặc là kẻ sơ,
dù là người thương, hoặc là kẻ thù! Có rất nhiều người, ở nhà ở
chùa, không dám trừ khử, gián kiến ruồi muỗi, sợ bị mang tội,
nhưng rất sẵn sàng, loại bỏ đồng môn, khai trừ đồng đạo, ám hại
đồng bào, cào nhà đồng nghiệp, chỉ vì đồng tiền, hoặc vì họ không,
hài lòng vừa ý, về một vấn đề, dù lớn dù nhỏ, một cách tàn nhẫn,
không biết tiếc thương, hoặc chỉ vì tâm, ganh tị đố kỵ, mà thôi.
- Một ngọn đèn
bình thường, được gọi là hữu dụng, khi tỏa ánh sáng ở gần trước,
sau đó lan ra xa mới phải. Cũng vậy, tấm lòng từ bi thực sự phải
được những người ở gần chung quanh cảm nhận trước, sau mới đến
những người ở xa, còn dư nữa mới chan rãi đến những loài chúng
sinh khác. Tuy nhiên, có những người tỏ vẻ bác ái, tự xưng vì lòng
từ bi, tự nhận bạn của thú vật, cổ động khuyến khích người khác ăn
chay, để tránh sát sinh hại vật, những con vật vô tội đáng thương,
một cách thiết tha cảm động, nhưng cũng đồng thời, rủa xả thậm tệ,
dai dẳng dằng dai, những người ăn mặn, chưa ăn chay được, bất kể
lý do. Những con người đó, vẫn biết vẫn nhớ, lời Ðức Phật dạy:
"Tất cả chúng sanh đều có Phật Tánh", nhưng chỉ tôn trọng,
Phật Tánh của các con vật, còn con người nào làm mích lòng, không
đồng quan điểm, không cùng pháp tu, họ rất sẵn sàng, mạt sát miệt
thị, lên án phỉ báng, không tiếc lời nào. Tấm lòng từ bi của những
người như vậy, chắc cần phải được xét lại!
- Ngày xưa, khi
Ðức Phật còn tại thế, có một người đến dâng bát cơm cúng dường,
bởi vì nghe nói, cúng dường một bậc đạo sư như Ðức Phật, được vô
lượng phước báu. Ðức Phật bèn hỏi: Mẹ của ngươi ăn cơm chưa? Người
đó đáp: Dạ chưa. Ðức Phật dạy người đó mang bát cơm về, dâng cho
mẹ ăn no lòng trước đã, mới đúng đạo làm người. Ở các nước tây
phương, văn minh tiến bộ, có những hội bảo vệ súc vật, sẵn sàng
đòi hỏi luật pháp phạt tù thật nặng một con người, nếu người đó
đánh đập một con vật, như chó mèo chẳng hạn. Có người ăn xin,
nghèo khổ rách rưới, ngồi ở vỉa hè, suốt cả ngày trời, thời tiết
giá băng, có ông đi qua, có bà đi lại, nhưng chẳng một ai, cho một
đồng xu. Ngay ngày hôm sau, người ăn xin đó, dẫn con chó nhỏ, để
nằm bên cạnh, liền nhận được ngay, nhiều tiền bố thí, từ nơi những
người, mến thương súc vật, kiểu Y2K, thế kỷ 21!
- * * *
- Trong đạo Phật,
nói chung, có hai hệ phái: hệ phái nguyên thủy và hệ phái phát
triển. Hệ phái nguyên thủy, còn gọi là Nam tông, chủ trương giữ y
nguyên truyền thống Phật giáo, từ thời nguyên thủy, cho nên quý sư
là các vị khất sĩ, mang bình bát đi khất thực, thiên hạ bố thí
cúng dường vật thực gì, các ngài dùng như vậy, không chọn lựa. Các
ngài vẫn khỏe mạnh, tinh tấn tu hành, và đạt đạo chứng đạo. Ðó là
hệ phái truyền từ miền nam nước Ấn Ðộ, sang Tích Lan, Thái Lan,
Miến Ðiện, Ai Lao, Cao Miên. Phật giáo ở các quốc gia này đều là
quốc giáo.
- Còn hệ phái
phát triển, còn gọi là Bắc tông, truyền từ miền bắc nước Ấn Ðộ,
sang Tây Tạng, Trung Hoa, Việt Nam, Triều Tiên và Nhựt Bổn. Khi
Phật giáo du nhập vào các quốc gia này, tùy thuận văn hóa sở tại,
nên dễ dàng hội nhập một cách hòa bình, và phát triển một cách
nhanh chóng trong lòng các dân tộc đó, biến thành Phật giáo địa
phương, đem lại an lạc và hạnh phúc cho người dân bản xứ. Chẳng
hạn như: Phật giáo Trung Hoa, Phật giáo Việt Nam, Phật giáo Tây
Tạng, Phật giáo Triều Tiên, Phật giáo Nhựt Bổn, đều có những nét
đặc thù, riêng của từng nơi. Ở các quốc gia này, chỉ trừ Việt Nam
có cả hai hệ phái cùng du nhập vào, chư Tăng Ni không đi khất
thực, trụ xứ tại một tu viện, hay một ngôi chùa, tự lo việc ăn
uống. Cho nên các ngài ăn chay, chỉ nhận cúng dường và dùng các
thức ăn, không có liên quan đến mạng sống của các sinh vật. Các
ngài vẫn khỏe mạnh, tinh tấn tu hành, và đạt đạo chứng đạo.
- Ðiều đó chứng tỏ rằng, vấn đề ăn
uống nói chung, ăn chay hay ăn mặn nói riêng, không phải thực sự
là vấn đề tối quan trọng trong đạo Phật, cũng không phải là vấn đề
trực tiếp liên quan đến sự tinh tấn tu hành, và đạt đạo chứng đạo.
- Ðiều quan
trọng trong đạo Phật chính là:
- Tâm trí có
dính mắc hay không dính mắc cảnh trần.
Nếu tâm dính mắc, gọi là tâm phan duyên, tâm loạn động.
Nếu tâm không dính mắc, chính là tâm thanh tịnh vậy.
- Chư Tổ có dạy:
- "Ðối cảnh vô tâm, mạc vấn thiền".
- Nghĩa là: Con
người sống trên đời, mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý, thường xuyên
tiếp xúc với các hình ảnh, âm thinh, mùi hương, mùi vị, xúc chạm
và ký ức. Khi con người tiếp xúc với các trần cảnh như vậy, dính
mắc tức là: khởi tâm niệm thương hay ghét, khởi tâm niệm ưa thích
hay tức giận, khởi tâm niệm khen hay chê, đều gọi là loạn tâm, là
vọng tâm. Không khởi các tâm niệm phân biệt như vậy, gọi là định
tâm, hay tâm thiền định. Tức là: Khi đối trước các cảnh trên trần
đời, người nào không khởi tâm niệm lăng xăng lộn xộn, gọi là vô
tâm, thì chính người đó sống trong cảnh giới thiền định. Ðây là
cốt tủy, là mục đích cứu kính của đạo Phật vậy.
- Là những người
hướng dẫn hàng Phật Tử tại gia, chư vị Tôn Ðức Tăng Ni giữ gìn
giới luật một cách nghiêm ngặt, tránh phạm sát giới, không muốn
sát sinh, nên phải ăn chay, tuyệt đối không dùng các thức ăn có
liên quan đến mạng sống của các sinh vật, để trưởng dưỡng tâm từ
bi. Tâm từ bi là điều kiện hàng đầu của người tiến tu theo đạo
Phật.
- Còn đối với hàng Phật Tử tại gia,
người nào phát tâm ăn chay trường được, thì thực là đáng quý, đáng
trân trọng. Ðó là nhân duyên tốt để tiến tu trên đường đạo, rất
đáng khuyến khích. Tuy nhiên, đối với những người, không ăn chay
trường, lý do hoàn cảnh, vì lý do sức khỏe, cũng đừng cố chấp, gây
thêm rắc rối, ở trong gia đạo, có thể ăn chay, vài ngày trong
tháng, mục đích, nhắc nhở chính mình, phải luôn luôn nhớ, những
lời Phật dạy, áp dụng hằng ngày, tu tâm dưỡng tánh, cũng thực rất
tốt. Tự nhắc nhở mình: tu là phải hiền, phải có lòng từ bi, đối
với tất cả mọi loài chúng sinh, bắt đầu từ loài người cho đến loài
vật, bắt đầu từ người thân cận, cho đến người ở phương xa, mới là
phải đạo vậy.
- Người nào chưa thể ăn chay được
theo nghĩa đen, vì lý do sức khỏe, vì lý do hoàn cảnh, hay vì bất
cứ lý do nào, có thể "ăn chay" qua ba nghiệp thân khẩu ý. Nghĩa
là: thân không sát sinh, không trộm cướp, không tà dâm, miệng
không nói dối, không nói lời dua nịnh, không đâm bị thóc thọc bị
gạo, không nói lời thô tục độc ác, ý không nghĩ cách vu oan giá
họa, không lập mưu thưa gửi kiện tụng người, để kiếm tiền bồi
thường, không tham tiền bất chánh bất nhân, không tức giận thù oán
người, không chứa chấp lòng ganh tị đố kỵ người khác. Nói chung,
không ăn chay được bằng phương tiện vật chất, người Phật Tử tại
gia nên cố gắng, giữ gìn thân khẩu ý, cho được thanh tịnh, trong
bất cứ thời điểm nào, tại bất cứ nơi đâu. Ðó chính là tu tâm dưỡng
tánh vậy.
- * * *
- Giữ giới không
sát sinh, trong ngũ giới của người Phật Tử tại gia, trước tiên và
trên hết, có nghĩa là: không làm tổn hại mạng sống của con người.
Ðối với người Phật Tử xuất gia, thọ nhiều giới luật hơn, dĩ nhiên
giới không sát sinh có nhiều điều kiện nghiêm ngặt hơn. Sau đó,
đối với các sinh vật khác, người Phật Tử tại gia giữ được bao
nhiêu, tốt bấy nhiêu, trong hoàn cảnh thực tế của cuộc sống văn
minh tiến bộ. Vì phép vệ sinh chung, chúng ta không nên ích kỷ, sợ
mang tội cho riêng mình, không dám trừ khử gián kiến ruồi muỗi
chuột sâu bọ, để chúng sống chung, gây thành bệnh dịch cho cộng
đồng, cho xã hội, cho nhân loại, tổn hại nhiều nhân mạng, còn đáng
tội nghiệp hơn. Giết hại con người, gây khổ đau cho người khác,
lợi mình hại người, là điều quan trọng nhứt, cần phải nên tránh,
để khỏi tạo tội tạo nghiệp.
- Giữ giới không
sát sinh còn có nghĩa là không làm tổn hại đến thanh danh, đời
sống và hạnh phúc gia đình của người khác. Chẳng hạn như có, người
vì tâm tham, sai khiến thúc đẩy, âm mưu kiện tụng, người khác ra
tòa, bằng những thủ đoạn, sâu hiểm ác độc, đặt điều thêm bớt, vu
khống cáo gian, giả tạo thương tật, làm bộ khùng điên, liên miên
thưa kiện, gây cảnh tù tội, cho bao người khác, tan nát gia cang,
mục đích đòi tiền, bồi thường thiệt hại, có khi đòi tới, vài ba
triệu bạc. Những việc như vậy, làm hại cuộc đời, bao nhiêu người
khác, gây nên biết bao, khổ đau phiền não, suốt cả cuộc đời, còn
lại của họ, tội nghiệp này còn nặng hơn là sát sinh hại vật. Ðó
chính là tội sát sinh: những người bị mưu hại, không chết liền tại
chỗ, mà chết cả cuộc đời!
- Khi dám ra tay
lấy mạng người khác, chắc chắn con người có tâm tham lam tiền bạc
của cải quá lớn, hoặc có tâm sân hận tức giận quá độ, hoặc có tâm
si mê quá sâu dầy, cho nên con người tạo nên tội nghiệp hết sức
lớn lao, nặng nề. Khi nỡ ra tay sát hại một con vật lớn cũng vậy,
như giết trâu bò heo chó làm thịt, hay săn bắn thú rừng, giết voi
cọp beo gấu nai, để tiêu khiển, để lột da, để lấy ngà, con người
tạo thêm nghiệp báo hết sức lớn lao, nặng nề, không khác. Tại sao
vậy? Bởi vì muốn giết người, hay sát hại con thú lớn, người đó đã
có chủ ý, đã có kế hoạch, đã chuẩn bị kỹ lưỡng, đã dự mưu tính
toán, cho nên tâm của người đó bị vẩn đục nặng nề, con người lún
sâu trong vòng tội lỗi. Tôn trọng và bảo vệ đời sống của con
người, của mọi loài chúng sanh, là nguyên tắc thực tế nhứt, là
động cơ hữu hiệu nhứt, để tôn trọng và bảo vệ đời sống của chính
mình.
- Làm tổn hại
mạng sống của người khác, làm tổn hại an ninh hạnh phúc của người
khác, làm tổn hại thanh danh của người khác, tức là tổn hại tâm từ
bi của chính mình. Làm tổn hại sinh mạng của chúng sinh, tội
nghiệp nặng nhẹ, tùy theo tâm của con người lúc đó. Thí dụ như vì
phép vệ sinh, hay vì vô tình, hoặc vì bị cắn đau bất ngờ, con
người đập chết con muỗi, tội nghiệp không nặng bằng những người đi
câu cá để tiêu khiển, vứt cá lên bờ, chết ngộp đầy dẫy, hoặc những
người vừa giết côn trùng, vừa nguyền rủa chúng, trên vỉa hè, ngoài
đường phố. Thí dụ như vô ý đạp chết một con trùng, tội nghiệp
không nặng bằng một đứa bé cầm roi, đánh cho đến chết một con gà
bị đem treo ngược, một cách nhanh nhứt, để lãnh giải thưởng, trong
một cuộc thi đua giết gà, do người lớn tổ chức để mua vui!
- Hơn thế nữa,
người biết tu tâm dưỡng tánh, không bao giờ gây đau khổ cho bất cứ
ai, dù là người thân hay kẻ thù, qua các hành động đánh đập, hãm
hại, hoặc không bao giờ gây não loạn cho người khác, qua việc thưa
gửi kiện tụng, vu khống cáo gian, hoặc không bao giờ gây tổn hại
thanh danh và hạnh phúc gia đình người khác, qua những lời nói ác
độc có chủ ý, đặt điều thêm bớt, có nói không, không nói có, ngậm
máu phun người, kết án bừa bải, bóp méo sự thực, xuyên tạc ngụy
biện, xiên xỏ xỏ xiên, tranh cãi liên miên, lợi mình hại người,
khen mình khinh người, người khác sống chết, đau khổ thế nào, thì
cũng mặc kệ!
- Những người
có bàn thờ Phật, dù tại chùa hay tại gia, dù có ăn chay trường hay
ăn chay kỳ, dù có thọ bồ tát giới hay tu bát quan trai giới, tu
thập thiện giới, nhưng tâm không thanh tịnh: vẫn còn tiếp tục
những hành động, những lời nói, và những ý nghĩ, lợi mình hại
người, vẫn muốn người khác chết để mình sống, vẫn muốn người khác
nhục để mình vinh, vẫn muốn người khác thua để mình thắng, vẫn
muốn xài tiền của người khác, qua các thủ đoạn, như thưa gửi kiện
tụng, sang đoạt phần hùn, tiếm dụng tác quyền, giựt hụi quịt nợ,
vẫn muốn lợi dụng lòng tốt của mọi người, để sung sướng tấm thân,
không cần làm lụng vất vả, kẻ hầu người hạ, thì thực là uổng công
vô ích, chẳng ích lợi gì cho việc trở về nguồn cội, cho việc thoát
ly sanh tử luân hồi, cho việc dứt trừ phiền não khổ đau!
- Trong kinh sách
có câu:
- Sân si nghiệp
chướng không chừa.
Bo bo mà giữ tương dưa làm gì?
- Nghĩa là: Người
nào vẫn tiếp tục tạo nghiệp chướng, tâm tham lam, tâm sân hận, tâm
si mê, vẫn còn y nguyên, như vậy, thờ Phật tại chùa hay tại gia,
ăn chay lễ lạy, tụng kinh bái sám, phỏng có ích lợi gì đâu chứ?
Thậm chí, có người còn vào chùa lạy Phật, van vái ăn chay ba
tháng, cúng chút tiền lẻ, hùn chút phước làm việc phước thiện, với
tâm cầu xin thắng một vụ kiện, cầu xin trúng mối lợi to lớn, phen
này kiếm được vài ba triệu đô la, tạ ơn tượng Phật chút đỉnh sau!
- Trong sách cũng
có câu:
-
Ăn mặn nói ngay. Ăn chay nói dối.
- Câu này có thể
giải thích nhiều nghĩa khác nhau. Trước hết, câu này ngụ ý: trong
trường hợp người ăn chay mà còn phạm lỗi nói dối, tức là giới thứ
tư trong ngũ giới của người Phật Tử tại gia, thì không bằng người
ăn mặn. Người ăn mặn chẳng hề khoe mình biết tu hành gì hết, nhưng
họ nghĩ sao nói vậy, tâm khẩu nhứt như, nói ngay thẳng, không xiên
xỏ, không móc họng, không mỉa mai, không đãi bôi, không màu mè,
không nịnh bợ, không có chuyện:
- Miệng thì nói
tiếng nam mô.
Trong lòng chứa cả một bồ dao găm.
- Nhẹ nhàng hơn,
câu này có nghĩa là: người ăn mặn khi ăn thịt cá, thì họ nói là ăn
thịt cá, một cách ngay thẳng rõ ràng. Còn người ăn chay thường
thích trổ tài nấu nướng, bằng cách làm các món ăn bằng vật liệu
chay, nhưng tên gọi và hình thức giống y như món mặn. Chẳng hạn
như người ăn chay nói: tôi ăn thịt quay bánh hỏi, nhưng thực ra,
món thịt quay chay đó được làm bằng bột mì với tàu hủ ky, ăn với
bánh hỏi. Những món chay nhưng có tên món mặn cũng là đề tài thảo
luận, từ xưa đến nay, trong vấn đề ăn mặn và ăn chay, nhiều khi
quá đáng đến chỗ hý luận.
- Tuy nhiên, câu
này không có nghĩa xác định rằng: người ăn mặn luôn luôn nói ngay,
còn người ăn chay luôn luôn nói dối. Tại sao vậy? Bởi vì chuyện
nói ngay hay nói dối, tùy theo người, tùy theo cảnh, tùy theo tâm
trạng, chứ không tùy theo chuyện ăn mặn hay ăn chay.
- * * *
- Trong kinh
sách, Ðức Phật dạy, có ba trường hợp phạm tội tạo nghiệp như nhau.
Ðó là: "tự tác, giáo tha tác, kiến tác tùy hỷ". Nghĩa là:
tự tay mình làm thịt sinh vật sống, để ăn cho hạp khẩu vị, hoặc mở
miệng sai bảo, chỉ vẻ cách làm thịt sinh vật sống, để người khác
làm, cho mình ăn được ngon miệng, hoặc thấy biết người khác làm
thịt sinh vật sống, để đãi mình ăn, mà mình vẫn thấy khoái khẩu,
vui vẻ, tất cả đều tội nghiệp như nhau, không khác. Tại sao vậy?
Bởi vì trong ba trường hợp trên, tâm của con người loạn động như
nhau.
- Trong Kinh A Di
Ðà, Ðức Phật có dạy:
- "Mục đích
cứu kính của người tu theo đạo Phật, muốn được giác ngộ và giải
thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi, muốn được vãng sinh tây phương
cực lạc, chính là phải đạt được: cảnh giới nhứt tâm bất loạn".
- Trong Kinh Ðịa
Tạng, và Kinh Thủy Sám, các hình ảnh chúng sinh bị đọa cảnh giới
địa ngục thường được nhắc đến: nào là nằm giường sắt nóng, nào là
bỏ vào chảo dầu sôi, nào là nhốt trong phòng bốn vách đều bằng sắt
có lửa nóng, nào là xe bằng sắt cán dẹp nát thây, nào là bị đâm,
bị cắt da, bị xẻo thịt, bị cắt lưỡi, bị chặt đầu, bị moi óc, bị
uống dầu sôi, nuốt hòn sắt nóng.
- Ngày nay, chúng
ta có thể thấy những hình ảnh đó hiện tiền, trên truyền hình, qua
các chương trình dạy nấu ăn, hay qua các màn ăn uống, trong nhà
bếp tại gia, hay bếp của các nhà hàng, trong khi các con vật vẫn
còn sống nhăn: như cá bị bỏ nằm trên chảo chiên, hoặc bị bỏ vào
chảo dầu sôi, như cua bị đâm vào bụng, rồi bị bỏ vào nồi nước
luộc, như tôm sống bị dao cắt làm hai, như sò ốc bị nướng trên lò,
như khỉ bị mổ óc ăn sống. Những con vật đó ngo ngoe giẫy giụa trên
tấm thớt, dưới con dao phay, hoặc bò lăn bò càng trên chảo nóng,
hoặc vùng vẫy trong nồi nước sôi, hoặc bị cột trói cứng ngắc, chịu
đớn đau vô cùng tận! Thực là cảnh tượng địa ngục ở trần gian, vô
cùng khủng khiếp, mà những người có tâm từ bi không thể nào đành
chứng kiến!
- Dĩ nhiên, người
Phật Tử chân chánh tuyệt đối không bao giờ nên bày đặt cách ăn
uống cầu kỳ quái dị, vui thú trên sự đau đớn rên la của các sinh
vật còn sống, ngay tại bàn tiệc, như bậc vua chúa, trưởng giả giàu
sang, thường hay hưởng thụ. Chúng ta nên biết rằng những vị vua
chúa, hay các nhà giàu sang quyền quý, là những người có rất nhiều
phước báo, từ nhiều đời nhiều kiếp trước, nên đời này kiếp này mới
được như vậy. Phước báo ví như tiền tiết kiệm dành dụm từ trước,
không biết làm việc thiện tạo thêm phước, lại tiêu xài phung phí
nhiều quá, cũng có ngày cạn hết. Cho nên khi hưởng hết phước báo,
vì trong kiếp này, không biết tu tâm dưỡng tánh, lại còn tạo tội
nghiệp như vậy, cuộc đời của họ sẽ kết thúc hết sức bi thảm. Chúng
ta đọc sách báo xưa nay thường thấy các vị vua chúa, bị ám sát
chết, bị lật đổ không chỗ chôn thân, các nhà giàu sang quyền quý,
khánh tận tài sản, đến nỗi phải quyên sinh, kết thúc mạng sống của
chính mình, các vị hoàng gia hoàng tử, công chúa quận nương, bị
tai nạn thảm khốc, chết không toàn thây, ở trên xa lộ, hoặc dưới
biển sâu. Chúng ta là những người thực sự kém phước báo hơn các vị
đó nhiều lắm lắm, chớ nên tạo thêm tội nghiệp, bằng cách này hay
cách khác.
- * * *
- Chư Tổ có dạy:
- "Tu mà không
học là tu mù.
Học mà không tu là đãy sách".
- Nghĩa là người
phát tâm tu mà không chịu tìm học kinh điển, và không thấu hiểu
lời Ðức Phật dạy trong các kinh điển đó, chỉ biết đem kinh điển ra
tụng, rồi lạy từng chữ, và đếm bao nhiêu lần, để dâng sớ kể công
với Ðức Phật, và van xin Ðức Phật từ bi rước về cực lạc, cho được
sung sướng hơn, hoặc chỉ biết lo chuyện hình thức, chuyện vật
chất, chẳng hạn như là chuyện ăn uống, ăn mặn hay ăn chay, rồi
tranh chấp đúng sai, rồi cãi cọ hơn thua, rồi tự hào tự mãn, như
vậy gọi là tu mù. Tại sao vậy? Bởi vì càng tu kiểu đó, tâm của
những người như vậy càng loạn động, càng mù tịt, càng u tối, càng
thêm phiền não mà thôi, chẳng tiến bộ gì, chẳng ích lợi gì.
- Những người tu
mù, thường hay hảnh diện, về chuyện ăn chay, khi dể ăn mặn, cho
rằng ăn mặn, mang nghiệp rất nặng, phải đọa địa ngục, còn mình
Niết bàn, thiên đàng cực lạc! Những người tu mù, hiểu rằng chúng
sanh, ở trong sáu cõi, cùng khắp pháp giới, đều là bình đẳng,
nhưng lại rủa xả, một cách tàn mạt, những người không cùng, quan
điểm với mình! Những người tu mù, tỏ ra thương xót, con bò con
heo, nhưng, có người ví von, như heo như bò, họ nhẫn không nổi,
tam bành lục tặc, như hỏa diệm sơn, bởi vì, họ không hề biết: "y
nghĩa bất y ngữ", nghĩa là làm sao!
- Trái lại, những
người chỉ thích tìm hiểu kinh điển, đọc thực nhiều sách đủ loại,
nội điển ngoại điển: Thế học Triết học, Phật học Thiền học, Thần
học Tâm lý học, cho thỏa mãn lòng tò mò, tăng thêm kiến thức, để
đem tranh cãi, lý luận đôi co, bắt khoan bắt nhặt, bắt bẻ vặn vẹo,
mà lại không chịu, tu tâm dưỡng tánh, phản quan tự kỷ, không xét
lỗi mình, chỉ thấy lỗi người, không chịu thực hành, lời Ðức Phật
dạy, hằng ngày hằng giờ, trọn không lợi gì. Cũng ví dụ như, nhân
viên đếm tiền, ở tại ngân hàng, hay chú mục đồng, đếm trâu cho
chủ, quanh đi quẩn lại, quanh năm suốt tháng, tiền cũng chẳng có,
trâu cũng chẳng được. Như vậy, có khác nào cái đãy hay cái tủ đựng
sách, hoặc cái tàng kinh các mà thôi.
- Dù cho có
người, ăn chay từ nhỏ, ở luôn trong chùa, nhưng không biết tu,
theo pháp môn nào, chỉ biết tụng kinh, như thợ tụng đám, rầm rầm
rào rào, gõ mõ lóc cóc, cầu an cầu siêu, ê a lên xuống, như hát
cải lương, nhưng chẳng hiểu gì, hoặc hiểu một phần, nương theo văn
tự, hiểu theo nghĩa đen, đọc đâu hiểu đó, chẳng chịu suy tư, tự
cho là đủ, tăng thêm ngã mạn, khinh khi mọi người, trọn chẳng công
đức, đôi khi còn khiến, người mới phát tâm, đâm ra chán nản. Tại
sao vậy? Bởi vì, họ chỉ thích lập chùa to, tạo pho tượng lớn,
nhưng không Chánh Pháp, giảng dạy cho người, như vậy khác chi,
người đời ham thích, nhà cao cửa rộng, chẳng đem lợi gì, đến cho
bá tánh, chỉ tạo thêm tội, thêm nghiệp mà thôi.
- Thí dụ như là:
con bò ăn cỏ, không thể ăn thịt, dù sống hay chín, con cọp ăn
thịt, không thể ăn cỏ. Những người ăn chay từ nhỏ, không ngửi được
mùi thịt cá, đành tiếp tục ăn chay, như vậy có gì hay đâu? Ðó chỉ
là nghiệp báo mà thôi. Những người có thể, chọn lựa mặn chay, phát
tâm ăn chay, tu tâm dưỡng tánh, mới là đáng quí. Nếu những vị có
duyên lành ăn chay từ nhỏ, lại biết tu tâm dưỡng tánh, biết cầu
học Chánh Pháp, biết tự lợi lợi tha, biết tự giác giác tha, vì
mình vì người, với tâm khiêm tốn, thương xót chúng sanh, đang bị
trầm luân, sanh tử luân hồi, gắng công tu tập, công phu thiền
định, bản tâm thanh tịnh, có ngày đại ngộ, hoằng dương Chánh Pháp,
cứu khổ chúng sanh, muôn loài ích lợi. Ðó chính là những bậc chân
tu thực học, những bậc cao tăng thạc đức, là cây to bóng mát trong
chốn thiền lâm, là nơi nương tựa cho hàng tứ chúng vậy.
- Trong Kinh Tăng
Nhất A Hàm, Ðức Phật có dạy:
- Tuy tụng ngàn
chương cú. Không hiểu nghĩa ích gì.
Ðâu bằng hiểu một câu. Nghe xong liền ngộ đạo.
- Dù tụng ngàn
muôn câu. Không rõ nghĩa ích gì.
Chỉ thông suốt một nghĩa. Nghe qua liền đạt đạo.
- Thực vậy, mục
đích cứu kính của đạo Phật, không phải chỉ là những buổi lễ cầu
an, cầu siêu, cầu đoàn tụ, cầu đủ thứ chuyện trên trần đời, xong
rồi tính lời tính lỗ. Cũng không phải chỉ là những hình thức bên
ngoài như: đi chùa lễ Phật, hái lộc đầu xuân, mỗi năm một lần, ăn
chay thọ giới, tụng kinh bái sám, mỗi tháng hai lần, lập chùa
thiệt to, tạo tượng thiệt lớn, cho có vẻ linh thiêng huyền bí, mà
chẳng hiểu làm như vậy có ý nghĩa gì, bởi không chịu tìm học Chánh
Pháp, chỉ tăng thêm chấp ngã và chấp pháp mà thôi.
- Tất cả những sự
tướng kể trên, không phải là không cần thiết, không phải là không
nên làm, không phải là vô bổ vô ích, một cách hoàn toàn. Nhưng,
như vậy vẫn chưa phải là đủ, chưa phải là cứu kính, chưa phải là
cốt tủy của đạo Phật. Ðó chỉ là cái vỏ bên ngoài, là vòng rào bên
ngoài, dành cho những người mới bắt đầu đến với đạo Phật. Những
người thờ Phật nhiều đời, hoặc phát tâm tu theo đạo Phật lâu rồi,
làm việc chùa nhiều năm rồi, mà vẫn dừng lại ở những hình thức bên
ngoài như vậy, và chịu thỏa mãn, thì chẳng ích lợi gì, chẳng tiến
bộ gì.
- Mục đích cứu
kính của đạo Phật là giúp đỡ con người đạt được giác ngộ và giải
thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi, chứ không phải chỉ có những lễ
nghi này và những nghi lễ kia như vậy mà thôi.
- Nhưng con người
cần giác ngộ điều gì? Theo đạo Phật, con người cần giác ngộ: cuộc
đời là vô thường, biến đổi luôn luôn, tâm tánh là vô thường, nay
vầy mai khác, tấm thân là giả tạm, nay còn mai mất, chỉ tồn tại
hơn kém một trăm năm mà thôi. Cho nên phải hiểu biết sâu luật nhân
quả, mới có thể gìn giữ bản tâm thanh tịnh, chuyên làm các việc
thiện, chuyên nói các việc hiền, chuyên nghĩ các việc lành, tránh
làm các điều ác, tránh nói các điều dữ, tránh nghĩ các điều bất
thiện, tránh gây phiền não khổ đau cho người khác, chẳng hạn như:
sát sinh hại vật, lường gạt trộm cắp, phá hoại gia cang, nói lời
độc ác, chia rẽ người khác, vu khống cáo gian, thưa gửi kiện tụng,
ăn gian nói dối, lợi mình hại người, đòi tiền bồi thường, vài ba
triệu bạc, lòng tham không đáy, có ngày trở lại, hại chính nơi
mình. Hiểu biết sâu luật nhân quả, con người cố gắng làm bất cứ
điều thiện nào, dù nhỏ dù lớn, để tạo thêm phước báu, hầu giảm bớt
nghiệp báo, đã tạo trước đây, qua các dạng như: được nhiều may
mắn, quới nhơn giúp đỡ, gặp người tốt bụng, tai qua nạn khỏi,
chuyện lớn hóa nhỏ, chuyện nhỏ hóa không. Chứ khấn vái, van xin,
cầu nguyện, thực ra chẳng có ích gì, có được gì đâu?
- Tại sao như
vậy? Bởi vì, chư Phật hay các vị thánh thần thiêng liêng, đâu có
làm chuyện bất công, thỏa mãn lời van xin cầu khẩn của những kẻ
còn gây tội tạo nghiệp, còn gây đau khổ cho người khác, dù bằng
hành động, lời nói hay ý nghĩ, chưa chịu tu tâm dưỡng tánh, làm
sao xứng đáng được hưởng những điều cầu khẩn van xin đó. Hơn nữa,
cứu kính của đạo Phật là chỉ dạy con người giác ngộ "bản tâm thanh
tịnh" của chính mình, sẵn có xưa nay.
- Trong Kinh Ðại
Bát Niết Bàn, Ðức Phật có dạy:
- Tất cả chúng
sinh đều có bản tâm thanh tịnh.
Chúng sinh chẳng nhận thấy được, vì bị vô minh che lấp.
- Nghĩa là: Con
người ai ai cũng có bản tâm thanh tịnh. Chỉ vì lòng tham lam của
cải tiền bạc, tham đến bạc triệu đô la, chứ chẳng phải ít ỏi gì,
hoặc chỉ vì lòng sân hận tự ái cao độ, hoặc chỉ vì lòng si mê cố
chấp, cho nên con người mới tạo tội tạo nghiệp, làm cho tâm trí
loạn động, thường xuyên bất an, điên đảo loạn cuồng, để rồi trôi
lăn vào vòng sanh tử luân hồi, đã muôn kiếp trước, và sẽ tiếp tục
trôi lăn, muôn kiếp về sau, nếu như không biết, nếu như không
chịu, dừng nghiệp và chuyển nghiệp. Với số tiền nho nhỏ, quyền lợi
không đáng kể, con người còn có thể tỉnh thức, có thể dừng được
nghiệp, có thể dẹp lòng tham, không thưa kiện người khác, không
gây não loạn người, và gia đình của họ. Nhưng khi kiện thưa, đòi
tiền bồi thường, vài triệu đô la, con người thành ma, tối tăm mặt
mũi, liều mạng đưa chân, hết biết lẽ phải, nhắm mắt làm càng, tới
đâu cũng được, địa ngục chẳng ngán, súc sinh chẳng sợ, ngạ quỉ
chẳng sao, miễn là thu vào, một số tiền to, cho sướng cái đã, bất
cứ chuyện gì, hạ hồi phân giải. Mãnh lực của đồng đô la quả thực
là vạn năng, thượng đế chẳng bằng, đã lôi kéo không biết bao nhiêu
chúng sinh u mê, vào vòng tội nghiệp, từ xưa đến nay!
- Chúng ta là
người tỉnh thức, đang tu học Chánh Pháp, đang muốn trở về nguồn
cội, đang muốn chuyển hóa cuộc đời của mình, đang muốn thoát ly
sanh tử luân hồi, càng phải nên hết sức cẩn trọng, cẩn trọng và
cẩn trọng!
- Muốn được
gặp Phật, phải bỏ tâm ma. Thực là đơn giản, không tìm đâu xa,
nhưng không dễ làm. Khi con người biết dừng nghiệp và chuyển
nghiệp, tức là con người được giải thoát khỏi sự trói buộc của
nghiệp chướng. Ðó mới chính là mục đích cứu kính của đạo Phật. Khi
đã hiểu biết được chân lý đó rồi, con người thấy được hướng đi của
người Phật Tử chân chánh, biết tu tâm dưỡng tánh, ăn chay hay ăn
mặn, không còn là vấn đề nữa!
- thịt, nên hay
không nên? Ngài Mã Tổ đáp: Uống rượu ăn thịt, là "lộc" của ngài.
Không uống rượu ăn thịt là "phước" của ngài! Có phước mới hưởng
lộc. Có phước mới trường thọ. Ðó là: "Phước, Lộc, Thọ".
Không có phước, sao được hưởng lộc, sao được trường thọ?
- Ngày xưa, vào
đời nhà Trần, khi Hoàng Thái Hậu Nguyên Thánh Thiên Cảm mời vào
cung điện dự tiệc thịnh soạn, Ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ ngồi vào
bàn tiệc, vừa ăn món chay vừa ăn món mặn, không quan tâm lựa chọn.
Hoàng Thái Hậu thấy vậy, ngạc nhiên hỏi: Hoàng huynh thiền định,
mà ăn cá thịt, thành Phật sao được? Tuệ Trung Thượng Sĩ cười đáp:
"Phật là Phật, huynh là huynh. Huynh chẳng cần làm Phật, Phật
chẳng cần làm huynh. Thái Hậu há chẳng nghe cổ đức nói: Văn Thù là
Văn Thù, Giải Thoát là Giải Thoát, đó sao?". Hoàng Thái Hậu nghe
qua liền giác ngộ.
- Theo sử sách
ghi, chúng ta được biết, Tuệ Trung Thượng Sĩ là một vị Cư Sĩ, vào
đời nhà Trần, ở nước ta. Ngài vốn là một vị tướng lãnh, một quan
đại thần trong triều, sau khi ngộ đạo, Ngài liền từ quan, tỉnh tu
tại gia, giảng dạy đạo lý cho những người hữu duyên, tầm sư học
đạo, từ hàng vua chúa, quan quyền trưởng giả, cho đến thứ dân.
Ngài là con cả của Khâm Minh Từ Thiện An Sinh Vương Trần Liễu, và
là thầy dạy đạo của Hoàng Ðế Trần Nhân Tôn. Hoàng Ðế Trần Nhân Tôn
hai lần đại thắng quân Mông Cổ, giữ yên bờ cõi, sau này nhường
ngôi, đi tu trên núi Yên Tử, đạt đạo trở thành Sơ Tổ Trúc Lâm, tức
là Ðiều Ngự Giác Hoàng. Những điều luận bàn đạo lý huyền diệu của
Ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ được các bậc thạc đức thiền môn rất kính
trọng. Ðiều chúng ta cần lưu ý nơi đây là: trình độ tu tập giác
ngộ của Ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ đã vượt khỏi tam giới, đã thoát
khỏi thế giới hiện tượng tương đối, chúng ta không thể so sánh
được!
- Câu chuyện này
ngụ ý: Việc tu tâm dưỡng tánh mới thực sự là điều quan trọng,
và nhằm mục đích đả phá quan niệm sai lầm cho rằng: ăn chay sẽ
thành Phật, ăn chay sẽ lên thiên đàng, ăn chay sẽ về Niết bàn, còn
ăn mặn sẽ đọa địa ngục!
- * * *
- Tóm lại, vấn đề
ăn mặn và ăn chay còn khá nhiều khía cạnh tế nhị khác, trong phạm
vi hạn hẹp và nông cạn, bài viết này không thể bao gồm hết tất cả
các phương diện, một cách hoàn toàn được. Tuy nhiên, chúng ta cũng
đã có một khái niệm khá rõ ràng về vấn đề này, có thể áp dụng vào
trong đời sống thực tế hằng ngày. Cổ nhân có dạy: "Ăn để mà
sống chứ không phải sống để mà ăn". Nghĩa là: Con người sanh
ra, trên trái đất này, ngoài chuyện ăn uống, để giữ mạng sống, bồi
dưỡng sức khỏe, chúng ta còn nhiều, chuyện khác để làm, đem lại
ích lợi, cho người cho đời, và chính bản thân.
- Trong đạo Phật,
vấn đề ăn uống không phải là chuyện quan trọng hàng đầu. Dù ăn mặn
hay ăn chay, cần nên giản dị, không nên cầu kỳ, dành nhiều thời
giờ, cho những việc làm, ích lợi bản thân, đối với tâm linh, đời
sống tinh thần. Chính chuyện tu tâm dưỡng tánh mới đáng làm chúng
ta bận tâm thực hành hằng ngày. Chuyện ăn uống thuộc về phạm vi
thể chất, bồi bổ cho tấm thâm tứ đại giả tạm này, để làm phương
tiện cho việc tinh tấn tu tâm dưỡng tánh, cho đến ngày giác ngộ và
giải thoát.
- Chư Tổ có dạy:
"Cơ tắc xan hề, khốn tắc miên". Hoặc: "Cơ lai khiết
phạn, khốn lai thùy". Nghĩa là: "Ðói đến thì ăn, mệt ngủ
khò".
- Lúc mình đói
bụng, một củ khoai nhỏ, cũng tạm ấm lòng. Khi ăn quá no, căng bụng
tràn họng, lúc đó món nào, dù mặn hay chay, cũng chẳng còn ngon.
- Sách có câu:
"No mất ngon, giận mất khôn". Con người muốn sống một cuộc đời
an nhàn tự tại, không nên chú tâm, không nên lệ thuộc quá nhiều về
sự ăn uống. Một người chỉ biết ăn chay, tụng niệm suốt đời, không
tìm biết mục đích cứu kính của đạo Phật, quả thực là phí phạm cả
kiếp sống này. Việc học hiểu để phát triển trí tuệ, và thực hành
Chánh Pháp, ngay trên cuộc đời, tại thế gian này, cho đến khi được
viên mãn, mới thực sự là việc quan trọng của người Phật Tử, tại
gia và xuất gia. Ðó mới là mục đích cứu kính của đạo Phật, ăn uống
chỉ là một phương tiện, trong bao nhiêu phương tiện khác, mà thôi.
- Một thực tế
khác về vấn đề ăn mặn và ăn chay chúng ta cần nên hiểu biết. Ðó là
các thứ nông phẩm dùng để ăn chay như: cơm gạo, rau cải, hoa quả,
trái cây, thu hoạch được sau khi trải qua quá trình: trồng trọt,
tưới nước, bón phân và trừ khử các loại sâu rầy phá hoại mùa màng.
Nghĩa là các nông gia phải lao động khổ nhọc và phải sát trùng, để
mùa màng được tươi tốt, thu hoạch được cao, tăng gia sản xuất. Khi
dùng các nông phẩm đó, để gọi là ăn chay, tránh nghiệp sát sinh,
trưởng dưỡng tâm từ bi, tu tâm dưỡng tánh, chúng ta đã không tránh
được sát giới, một cách hoàn toàn, dù không trực tiếp, cũng là
gián tiếp, cũng chịu cộng nghiệp, với các nông gia. Cho nên, người
Phật Tử tại gia hay xuất gia, mỗi khi thọ thực, cần phát tâm từ
bi, thương xót những người chưa thể ăn chay được, vì bất cứ lý do
gì, hoặc là các nông gia phải phạm sát giới, để làm nên các nông
phẩm chúng ta đang dùng, bằng cách tự đọc lời cầu nguyện trước khi
ăn, để hồi hướng phước báu ăn chay, hay công đức trì giới của
mình, đến tất cả chúng sinh, trong khắp pháp giới. Hoặc chúng ta
chắp tay cầu nguyện cho tất cả chúng sinh, ít ra cũng đều có những
bữa cơm đạm bạc như mình vậy.
- Bài viết này
tìm hiểu vấn đề ăn mặn và ăn chay, trong phạm vi đạo Phật, nhằm
mục đích khuyến khích, tán thán việc ăn chay đúng Chánh Pháp,
trưởng dưỡng tâm từ bi, chú trọng việc tu tâm dưỡng tánh, để đạt
được giác ngộ và giải thoát, mà thôi.
- Ðể kết thúc bài viết này, có bài
kệ như sau:
- Như ăn chay
suốt đời
Nhưng tâm không thanh tịnh
Không hiểu biết Chánh Pháp
Khác chi bò ăn cỏ.
--o0o--
|
|