-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Cư Trần Lạc Ðạo
-
(Trọn
bộ 3 tập)
-
Toronto, Canada
1999 - PL 2543
- ---
o0o ---
-
-
Tập 2
-
- [03]
- Bát nhã tâm
kinh
- Nương theo giáo pháp Phật Ðà
Tâm Kinh Bát Nhã giúp ta độ đời.
Ðến bờ giác ngộ thảnh thơi
Thoát ly phiền não cuộc đời an vui.
- Lời
mở đầu: Bát Nhã Tâm Kinh là bài kinh nhựt tụng của
tất cả các tông phái Phật giáo. Nếu đọc tụng, hiểu rõ và đem áp
dụng những điều Ðức Phật dạy trong Bát Nhã Tâm Kinh vào đời sống
hằng ngày của người Phật Tử, dù tại gia hay xuất gia, ích lợi
không thể nghĩ bàn, phước đức và công đức vẹn toàn.
- -oOo-
- Trên cuộc đời
này, dù giàu sang hay nghèo khó, dù trí thức hay bình dân, dù nam
phụ lão ấu, dù da trắng da đen hay da màu, dù vua chúa hay dân
chúng, nói chung, bất cứ người nào cũng có hai thứ bệnh: thân bệnh
và tâm bệnh. Ðối với thân bệnh, chẳng hạn như đau răng, nhức đầu,
sổ mũi, cảm cúm, ho hen, trặc xương, hoặc đau tim gan tì phế thận,
chúng ta cần tới tài năng, khả năng trị bệnh của các vị thầy
thuốc, dù đông y hay tây y. Ðể phòng ngừa thân bệnh, có những
phương pháp tập thể dục, những cách dưỡng sinh khoa học, những chế
độ ăn uống thích ứng với từng lứa tuổi, và tình trạng sức khỏe cá
nhân. Những người nghĩ rằng: nhờ theo môn phái này, theo tôn giáo
kia, theo giáo chủ nọ, sẽ khỏe mạnh sống lâu, sẽ vô bệnh vô tật,
hoặc tu thiền trị dứt bệnh ung thư, uống nước thánh trị được bá
bệnh, đó chỉ là: những người đang sống trong cơn mê. Ðạo Phật gọi
đó là: vô minh. Tại sao vậy?
- Bởi vì ngay đến
Ðức Phật, là bậc toàn giác, vẫn Có thân bệnh, nhưng Không phiền
não và khổ đau, tâm trí vẫn an nhiên tự tại, trong mọi hoàn cảnh.
Nói một cách khác: Ðức Phật không có tâm bệnh. Bất cứ ai sống trên
đời này, còn mang thân xác con người, là còn khổ vì thân bệnh, nếu
không giác ngộ được chân lý vi diệu nhiệm mầu. Các vị giáo chủ của
các tôn giáo cũng có thân bệnh và rồi cũng chết như mọi người mà
thôi.
- Trong thời buổi
khoa học tiến bộ ngày nay, ngay tại những quốc gia văn minh tiến
bộ tây phương, vẫn còn một số người, bình dân cũng như trí thức
khoa bảng, khi có thân bệnh, lại đi tìm uống, nước suối nước sông,
cầu mong phép lạ, với cả niềm tin, thượng đế gia trì, hay ban phép
lành, hoặc được ân điển, từ đấng bề trên, nào đó chẳng biết, trị
dứt bá bệnh, cả bệnh nan y, thậm chí cứu được, người chết sống
lại!
- Chúng ta thử
suy nghĩ xem: những vị tự xưng là thượng đế, là thánh thần thiên
địa, tu hành chứng đắc gì đó, cứu người chết được sống lại, để làm
gì, để được người đời tôn thờ nể sợ hay chăng? Tại sao chỉ cứu
người này, không cứu những người khác? Dù có cứu được bao nhiêu
người, để rồi sau đó, những người này cũng lại chết một lần nữa,
lần này chết thiệt đó, như bất cứ mọi người nào khác, trên thế
gian này. Nhứt là những vị tự xưng là thượng đế, là thánh thần
thiên địa kia, rồi cũng chết như ai, và lại còn chết thảm, không
chỗ chôn thây, nữa là khác!
- Nếu như các
phép lạ, các điều linh thiêng huyền bí đó có thực, các bệnh viện,
các cơ quan y tế nên đóng cửa, các bác sĩ, dược sĩ, y tá, điều
dưỡng viên, chuyên viên y tế, nên giải nghệ, và chức sắc các tôn
giáo đó không cần có y sĩ riêng, không cần nằm điều trị ở bệnh
viện.
- Nhiều người mê
tín dị đoan hơn nữa, khi có thân bệnh, lại chạy đi tìm, thầy bùa
thầy ngải, tìm sư tìm sãi, thuốc tiên linh thiêng, chỉ một viên
thôi, trị dứt bá bệnh, thiệt là tội nghiệp, thực đáng thương xót,
chỉ khổ bị gạt, tiền mất tật mang. Những người như vậy là những
người không có trí tuệ bát nhã, không nhận được thực tướng của các
pháp thế gian, rất dễ bị lung lạc bởi bất cứ luận điệu thuyết
giảng, hay tuyên truyền nào, có vẻ mơ mơ hồ hồ, có vẻ linh thiêng
huyền bí, có vẻ như điển nhập, từ thế giới vô hình nào đó, không
giải thích được, thực ra không làm sao giải thích được, cho dù họ
là tiến sĩ kỹ sư, bác sĩ nha sĩ, văn sĩ thi sĩ, học sĩ học giả,
chuyên viên, chuyên gia, hay bất cứ ai. Tại sao vậy? Bởi vì mọi
người đều sợ chết, càng giàu càng giỏi càng sợ nhiều hơn, sợ mất
cái thân mạng này, mà thôi!
- Còn đối với tâm
bệnh thì sao? Tâm bệnh có thể chia làm hai loại: các bệnh tâm thần
và những khổ đau về mặt tinh thần. Ðối với các thứ bệnh tâm thần,
cũng đã có những bệnh viện thần kinh, các dưỡng trí viện, với các
chuyên viên tâm lý, bác sĩ tâm thần, chăm sóc và điều trị. Ðối với
những khổ đau về mặt tinh thần, con người mới cần tới sự giúp đỡ
của các tôn giáo. Sự giúp đỡ của các tôn giáo có nhiều hình thức
khác nhau, tùy theo căn cơ, tùy theo hoàn cảnh, tùy theo địa
phương, tùy theo phong tục và tập quán của mỗi dân tộc. Nhiều khổ
đau phiền não của con người không thể điều trị dứt hẳn tận gốc,
bằng thuốc men, hay các phương pháp tâm lý học, mà phải được điều
trị bằng đời sống nội tâm, bằng sức mạnh tâm linh, bằng trí tuệ
bát nhã. Trong phạm vi bài này, chúng ta đề cập đến vấn đề đời
sống nội tâm, hay sức mạnh tâm linh, hay trí tuệ bát nhã trong đạo
Phật, mà thôi.
- Ðạo Phật là đạo
cứu khổ nhân loại, cho nên mạnh mẽ nhận định: cuộc đời là bể khổ.
Chúng ta ai ai cũng đồng ý với nhau rằng: cuộc đời khổ nhiều hơn
vui. Nhưng không phải vì vậy mà chúng ta bi quan yếm thế, chán đời
thụ động, chấp nhận định mệnh sẵn có, chấp nhận số phận đã an bài,
chấp nhận các cảnh khổ đau của cuộc đời. Ðạo Phật không dừng lại ở
nhận định như vậy. Ðạo Phật dạy chúng ta nhiều phương pháp:
"Làm sao cho đời bớt khổ. Làm sao cho đời hết khổ".
- Trong tất cả
các kinh điển của đạo Phật, ghi lại lời chỉ dạy của Ðức Phật, đều
nêu rõ các pháp môn tu tập, nhằm mục đích giúp đỡ chúng sinh, giải
thoát khỏi phiền não và khổ đau, một cách tích cực, một cách hiệu
quả. Thực ra, đó mới chính là mục đích cứu kính của đạo Phật vậy.
- Tuy nhiên, Ðức
Phật là một bậc đạo sư giác ngộ, đem chân lý giác ngộ chúng sinh,
chứ không phải là thần linh, hay thượng đế, chuyên ban phước giáng
họa, cho nên không có thể cứu giúp con người thoát khổ, qua các
lời khẩn cầu van xin, cầu nguyện khấn vái, mỗi khi con người gặp
phiền não và khổ đau. Trong kinh sách, có câu: "Chúng con khổ
nguyện xin tự độ". Con người phải biết tự độ mình, tự cứu
chính mình, nhưng bằng cách nào?
- Trong Kinh Pháp
Cú, Ðức Phật có dạy:
- "Hãy tự thắp
đuốc lên mà đi.
Thắp lên với Chánh Pháp"
- Nghĩa là: con
người muốn tự cứu chính mình, thoát ly mọi khổ ách, cần phải thắp
sáng ngọn đuốc trí tuệ, phải sáng suốt học hiểu và nương theo
Chánh Pháp, tức là các pháp môn tu tập, Ðức Phật dạy trong các
kinh điển, chẳng hạn như "Bát Nhã Tâm Kinh", và luôn luôn thực
hành trong cuộc sống hằng ngày, chứ không phải chỉ cầu nguyện
suông.
- "Bát Nhã Tâm
Kinh" là bài kinh chỉ dạy phương pháp tu tâm dưỡng tánh, dẹp trừ
tâm loạn động bất an, cấu nhiễm uế trược, phát hiện chân tâm, bất
cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm, để giúp cho chúng sanh sống được
an lạc hạnh phúc, không còn phiền não khổ đau, giác ngộ được con
người chân thật, để giải thoát khỏi sanh tử luân hồi.
- Chân tâm đó mới
thực là mình, còn cái xác thân và cái tâm bất an loạn động không
phải là mình, sẽ bị bỏ lại thế gian, khi chúng ta ra đi sang kiếp
khác. Như vậy, chúng ta học Bát Nhã Tâm Kinh là để nhận được bản
tâm bản tánh thực sự của mình. Khi học xong kinh này, nếu chúng ta
trực nhận được bản tâm thanh tịnh hay chân tâm, tức là trí tuệ bát
nhã bừng sáng, con đường vào đạo đã khai mở. Thực ra, đó mới chính
là mục đích cứu kính của đạo Phật vậy.
- Người Phật Tử
sinh hoạt trong chùa, hay đi chùa lễ Phật tụng kinh, thường thuộc
lòng Bát Nhã Tâm Kinh. Bởi vì Bát Nhã Tâm Kinh rất quan trọng
trong Phật giáo, là cứu kính tối thượng của đạo Phật, cho nên bất
cứ khóa tụng kinh nào, bất cứ khóa hành thiền nào, bất cứ khóa tu
học nào, thuộc bất cứ tông phái nào của Phật giáo, cũng đều có Bát
Nhã Tâm Kinh, dù bằng tiếng Việt, tiếng Hán Việt, hay tiếng Pali.
Thêm một bước nữa, nếu như chúng ta cùng nhau tìm hiểu những điều
Ðức Phật dạy trong Bát Nhã Tâm Kinh, rồi đem áp dụng vào đời sống
hằng ngày, thì ích lợi vô lượng vô biên, công đức và phước đức
viên mãn, không thể nghĩ bàn.
- * * *
- Theo kinh điển
của đạo Phật, con người có tám muôn bốn ngàn thứ tâm bệnh. Nào là
bệnh tham lam, bệnh sân hận, bệnh si mê, bệnh cố chấp, bệnh nghi
ngờ, bệnh cao ngạo, bệnh thành kiến, bệnh tà kiến, bệnh biên kiến,
bệnh thiên kiến, bệnh định kiến, bệnh thường kiến, bệnh đoạn kiến,
bệnh kiến thủ, bệnh giới cấm thủ, bệnh tưởng tượng, bệnh cảm thọ,
bệnh trạo cử, bệnh hôn trầm, bệnh giải đãi. Bởi vậy cho nên, Ðức
Phật chỉ dạy tám muôn bốn ngàn pháp môn tu tập, để đối trị và diệt
trừ từng thứ tâm bệnh.
- Chẳng hạn như
để diệt trừ tâm tham lam, bỏn sẻn, Ðức Phật dạy giữ giới và thực
hành pháp môn bố thí. Người nào hiểu được hạnh bố thí đem lại vô
lượng vô biên phước báu, và thực hành được hạnh bố thí hằng ngày,
thì tâm tham lam, bỏn sẻn sẽ giảm đi nhiều. Người nào biết cho ra,
biết cứu người giúp đời, cuộc sống được an vui. Người nào chỉ biết
tìm mọi cách hốt vô, mưu mô hại người hại đời, bất chấp thủ đoạn,
bất kể tha nhân, cuộc sống chắc chắn bất an. Muốn giảm bớt tâm
tham lam, chúng ta phải bớt ham muốn, bớt ham thích, bớt nhu cầu,
và nên biết thế nào là đủ. Người không biết thế nào là đủ, ví như
người khát nước, lại uống nước biển mặn, càng lúc càng thêm khát,
không bao giờ thỏa mãn! Nếu không có những gì mình thích, thì hãy
thích những gì mình có. Thế là yên chuyện! Khỏi tạo tội tạo nghiệp
thêm nữa!
- Trong Kinh Di
Giáo, Ðức Phật có dạy:
- "Tri túc chi
nhơn tuy ngọa địa thượng du vi an lạc.
Bất tri túc giả thân xử thiên đường diệc bất xứng ý".
- Nghĩa là: Người
biết thế nào là đủ, tuy nằm trên đất, cũng thấy an vui lợi lạc.
Người không biết thế nào là đủ, tuy thân ở trên cảnh giới thiên
đường, tâm ý vẫn không thỏa mãn! Chẳng hạn như để diệt trừ tâm sân
hận, hay nóng giận, Ðức Phật dạy thiền định và thực hành pháp quán
từ bi. Con người tăng trưởng tâm từ bi được thì những cơn nóng
giận sẽ giảm đi rất nhiều. Cặp mắt của người có tâm từ bi, luôn
luôn cảm thông, thương nhìn cuộc đời, cư xử nhẹ nhàng, dễ dãi
khoan dung, với mọi người chung quanh, khó nổi cơn sân đối với
những lỗi lầm, những sai trái của người khác, dù là người thân hay
kẻ thù cũng vậy, và không lợi dụng lòng từ bi của người khác.
- Các bậc phụ
huynh cần có tâm từ bi quảng đại, mới có thể giữ gìn được hạnh
phúc trong gia đình. Các nhà giáo cần có tâm từ bi quảng đại, mới
có thể thương yêu, dạy dỗ học sinh, như con ruột của chính mình.
Các nhà tu cần có tâm từ bi quảng đại, mới có thể thương xót chúng
sanh đang trầm luân đau khổ, phát nguyện tu hành tinh tấn, để tự
độ và độ tha, sẵn sàng hy sinh, phục vụ nhơn loại.
- Chẳng hạn như
để diệt trừ tâm si mê, Ðức Phật chỉ dạy trí tuệ bát nhã. Ðó chính
là tam vô lậu học của Phật giáo: Giới-Ðịnh-Tuệ, là phương tiện
giúp đỡ chúng sinh giải thoát, không còn lọt vào vòng sanh tử luân
hồi, phiền não và khổ đau nữa. Chẳng hạn như để diệt trừ tâm hay
cố chấp, sống để dạ chết mang theo những lời người khác nói mích
lòng, Ðức Phật chỉ dạy pháp đối trị là tâm hỷ xả. Người nào hiểu
được rằng chứa chấp càng nhiều thứ trong tâm thức của mình, đầu óc
càng nặng nề nhức nhối, càng bị trầm luân trong sanh tử luân hồi,
trong phiền não và khổ đau, chẳng ích lợi gì, bèn cố gắng phát
triển tâm hỷ xả, tự khắc sẽ cảm thấy khinh an nhẹ nhàng, mắt sẽ
nhìn cuộc đời một cách lạc quan hơn, cuộc sống sẽ an vui lợi lạc
hơn.
- Trí tuệ bát nhã
trong đạo Phật, được giảng giải trong Bát Nhã Tâm Kinh, cũng như
được đề cập đến trong tam tạng kinh điển, khác với trí tuệ của thế
gian. Ở thế gian, người có trí tuệ là người học cao hiểu rộng, có
bằng cấp đủ các ngành nghề, hoặc là người thông minh lanh lợi,
khôn ngoan sáng suốt, biết cách đối phó, ứng xử nhanh chóng, đối
đáp mạch lạc, nói năng lưu loát, thuộc nhiều vấn đề, qua nhiều
phương diện, trong mọi hoàn cảnh. Nhưng, người có trí tuệ trên thế
gian vẫn sống trong điên đảo mộng tưởng, vẫn sống trong phiền não
khổ đau, vẫn bị cảnh trần lôi cuốn đắm nhiễm, cũng như bao nhiêu
người khác. Khi đắc thời được thế, vinh quang thắng lợi, họ hả hê
hỉ hạ, hân hoan hớn hở, vui vẻ rỡ ràng. Khi thời thế xoay trở, mất
mát thất thu, cơ nghiệp suy tàn, gia cảnh lầm than, họ ưu tư sầu
muộn, phiền não khổ đau, có khi không còn muốn sống nữa.
- Còn trí tuệ bát
nhã trong đạo Phật là phương tiện giúp đỡ tất cả chúng sinh, hiểu
biết muôn sự mọi việc trên đời, một cách "đúng như thực", không
điên đảo mộng tưởng, không nhận giả làm chân, để đạt được giác ngộ
và giải thoát khỏi sanh tử luân hồi, thoát ly phiền não khổ đau,
để kiến tạo một cuộc sống an lạc và hạnh phúc, ngay trên thế gian
này.
- * * *
- Mở đầu Bát Nhã
Tâm Kinh, Ðức Phật dạy:
- "Quán Tự Tại
Bồ Tát hành thâm bát nhã ba la mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn
giai không, độ nhứt thiết khổ ách. Xá Lợi Tử! Sắc bất dị không,
không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ,
tưởng, hành, thức, diệc phục như thị".
- Nghĩa là: Muốn
quán chiếu cuộc sống một cách tự tại, như các bực Bồ Tát, cần phải
thực hành trí tuệ bát nhã một cách thâm sâu, đến mức tột cùng ba
la mật, khi đó xét thấy năm uẩn đều không, con người sẽ vượt qua
được tất cả mọi khổ ách. Ở trên đời này, sắc chẳng khác không,
không chẳng khác sắc, sắc tức là không, không tức là sắc, các uẩn
khác: thọ, tưởng, hành, thức, cũng đều như vậy.
- * Thế nào
là: "Xét thấy năm uẩn đều không?". Năm uẩn gồm có: sắc, thọ,
tưởng, hành, thức. Sắc là phần thân xác, có hình tướng, có sắc
tướng, nhận thấy được bằng mắt thường. Thọ, tưởng, hành, thức, là
phần tinh thần, hay tâm linh, không hình tướng, không nhận thấy
được bằng mắt thường.
- * Chúng ta
nên biết rằng: nguồn gốc của mọi sự đau khổ trên thế gian này đều
do "tâm cố chấp" mà ra. Chúng ta cố chấp điều gì? Chúng ta cố
chấp rất nhiều thứ. Chẳng hạn như chúng ta không nhận thấy được
"con người chân thật", cho nên chấp rằng: ngũ uẩn là thực, tức là
chấp thân này và tâm này là thực, trong kinh sách gọi như vậy là
"chấp ngã". Chẳng hạn như chúng ta không nhận định được toàn bộ sự
thực, nguyên vẹn chân lý, cho nên chấp rằng: việc này đúng, việc
kia sai, thế này là phải, thế kia là quấy, suốt ngày thích tranh
cãi chuyện thị phi, trong kinh sách gọi như vậy là "chấp pháp".
- Trong Kinh Viên
Giác, Ðức Phật có dạy:
-
"Con người vì vô minh cho nên có hai thứ chấp: chấp ngã và chấp
pháp.
Ðó là hai nguyên nhân chính gây ra phiền não và khổ đau của cuộc
đời".
- Khi nào hiểu
được một cách rõ ràng và phá trừ được hai nguyên nhân chính gây ra
khổ đau về mặt tinh thần này, chúng ta sẽ tìm được an lạc và hạnh
phúc thực sự, ngay trong cuộc sống hiện tại.
- Trước hết,
chúng ta cần tìm hiểu về chấp ngã. Chấp ngã có nghĩa là: chúng
ta chấp cái thân giả tạm và cái tâm vô thường, lại cho là "thực",
lại tưởng chính là "mình", cho nên mới phiền não và khổ đau.
- 1) Trước hết,
nói về cái sắc thân giả tạm, tức là cái thân xác của chúng ta, lúc
mới sanh ra đời, chỉ có vài ký lô thôi, bây giờ thì cân nặng đến
mấy chục ký lô. Ở đâu ra mấy chục ký lô đó, nếu không do các chất:
đất, nước, gió, lửa, tạo nên mà thôi. Ðất là những chất cứng trong
thân người như: tóc, lông, răng, móng, xương, thịt. Khi còn sống,
chúng ta mượn những chất từ đất mà ra, để bồi bổ cái thân này hằng
ngày như: cơm gạo, bánh mì, trái cây. Ðến khi chết, những thứ này
trở về với đất. Nước là những chất lỏng trong thân người như: máu,
mủ, nước miếng. Khi còn sống, chúng ta mượn những chất từ nước mà
ra, để bồi bổ cái thân này hằng ngày như: canh, sữa, nước giải
khát. Ðến khi chết, những thứ này trở về với nước. Gió là những
chất hơi trong thân người. Khi còn sống, chúng ta mượn những chất
từ không khí, hít vô thở ra, để bồi bổ cái thân này hằng ngày. Ðến
khi chết, những thứ này trở về với không khí. Lửa là những chất ấm
trong thân người. Khi còn sống, chúng ta mượn những chất sanh
nhiệt, để bồi bổ cái thân này hằng ngày như: gừng, chất đạm. Ðến
khi chết, những thứ này trở về với hư không.
- Cái sắc thân
giả tạm nặng mấy chục ký lô này của chúng ta bao gồm bốn thứ nói
trên, trong kinh sách gọi đó là thân tứ đại - không phải là
"thực". Tại sao vậy? Bởi vì nếu cái thân tứ đại này thực là của
chúng ta, thì nó phải tuân lệnh và tùy thuộc quyền xử dụng của
chúng ta. Chúng ta ai ai cũng muốn cái thân tứ đại này trẻ mãi
không già, khỏe mãi không đau, còn mãi không hoại. Nhưng, từ xưa
đến nay, từ đông sang tây, từ hoàng gia đến dân chúng, từ giàu
sang đến nghèo hèn, từ học thức đến bình dân, có ai được toại
nguyện như vậy đâu? Vậy mà ai động đến "nó", chúng ta liền nổi
xung, nhứt định ăn thua đủ, nhứt định vác đơn kiện, nhứt định đòi
bồi thường, nhứt định làm tới luôn, cho hả giận cho đã nư, không
thể nhịn nổi, chỉ nhằm bảo vệ cái thân tứ đại vốn giả tạm, vốn
không thực này, để rồi một ngày kia, dù-muốn-hay-không, mọi
người đều phải bỏ lại, để đi sang thế giới khác, để tái sinh kiếp
khác, với cả một đống nghiệp báo bất thiện chẳng lành chồng chất!
- Ðời người chẳng
qua chỉ là hơi thở, khi thở hơi ra mà chẳng hít vào được nữa, thì
ô hô tử vong! Ðời người chỉ là tạm vay mượn đất, nước, gió, lửa,
từ bên ngoài, để bồi bổ cho đất, nước, gió, lửa, bên trong thân,
từng ngày từng giờ, từng phút từng giây. Khi không vay mượn nữa,
con người không tồn tại được. Chỉ vì con người, cuộc sống quay
cuồng, mãi lo kiếm tiền, mãi lo hưởng thụ, mãi lo giữ gìn, mặt mũi
hão huyền, lúc nào cũng tưởng: "đời còn dài mà", cho nên hơn thua,
từng câu từng lời, kiếm chuyện đấu tranh, chiếm đoạt tài sản, danh
lợi phù du, giành giựt miếng ăn, dựng chuyện thưa kiện, đòi hỏi
bồi thường, tiền bạc phi nhân, chỉ biết lợi mình, bất kể hại
người, đem lại khổ đau, cho bao người khác. Bởi vậy chính mình
cũng chịu đau khổ phiền não, tâm trí luôn luôn bất an.
- Con người quên
rằng: Ở ngoài nghĩa trang, đâu phải chỉ có, mộ phần các cụ, trăm
tuổi mà thôi! Hiểu được như vậy, chúng ta không còn chấp cái thân
tứ đại mấy chục ký lô này là thực nữa, thì sự đau khổ, cho mình và
cho người, chắc chắn sẽ giảm bớt. Cái thân tứ đại không còn là
thực nữa, thì những thứ phụ thuộc như: nhà cửa, tiền bạc, danh
vọng, địa vị, còn có ý nghĩa gì nữa đâu, mà ham muốn tranh chấp,
đấu đá sát phạt, hơn thua được mất, cho đời thêm đau khổ? Cái thân
tứ đại, còn phải bỏ lại, thì có thứ gì, đem theo được chứ? Có đem
theo chăng, chẳng qua là tội, là nghiệp là báo, đã tạo trong đời,
mà thôi.
- Trong Kinh Pháp
Cú, Ðức Phật có dạy:
- "Người hơn thì
thêm oán. Kẻ thua ngủ chẳng yên.
Hơn thua đều xả hết. Giấc ngủ được an lành".
- Làm được như
vậy, chúng ta khỏe re! Bằng không như vậy, đừng than khổ nhọc, như
bò kéo xe, te tua tơi tả! Chuốc khổ vào thân là tự chúng ta mà
thôi. Ðừng than trời trách đất. Không ai làm cho chúng ta đau khổ
và phiền não được, nếu chúng ta không muốn tiếp nhận sự phiền não
và khổ đau đó. Ví như người ta đưa lửa phiền não đến, nếu chúng ta
không đưa thân tâm mình ra đón nhận, thì lửa đó chẳng có tác dụng
phiền não gì cả! Chẳng hạn như là: có người tới nói, mình là người
xấu, mình có thực xấu, hay không phải xấu, tự xét tự biết, tự sửa
tự đổi, tự mình chuyển hoá, tự nguyện sám hối, giận dữ làm chi,
cho chúng khinh khi, xá gì lời nói! Không tức không giận, thì sẽ
không hận, ngủ khò ngủ khì! Khỏe quá khỏe quá!
- 2) Cái thân tứ
đại, mấy chục ký lô, tất cả mọi người, là như vậy đó. Còn cái
"tâm" thì sao? Con người chúng ta là một, còn cái tâm thì lăng
xăng lộn xộn, thay đổi liên miên. Tại sao chúng ta bị khổ đau
nhiều đời nhiều kiếp như vậy? Bởi vì chúng ta, chấp lầm "vọng
tâm", lăng xăng lộn xộn, thay đổi liên miên, cho đó là "mình", rồi
nương theo đó, chợt vui chợt buồn, chợt cười chợt khóc, suốt ngày
suốt đêm, suốt tháng suốt năm, suốt cả đời này, và những đời sau!
- *Vọng tâm
gồm có: tâm thọ, tâm tưởng, tâm hành, tâm thức.
- Do tâm tham
lam, con người thọ nhận, đủ thứ vật chất, của cải tiền bạc, vinh
thân phì gia, không cần biết đến, của đó chính tà, bo bo giữ gìn,
cho đến lúc chết, sinh lòng tiếc của, nhắm mắt không yên. Do tâm
sân hận, con người thọ nhận, đủ thứ lời nói, thiệt là khó nghe, dù
vô nghĩa lý, sinh lòng thù oán, bực dọc tức tối, khó chịu bất an.
Do tâm si mê, con người thọ nhận, những chuyện thị phi, phải quấy
đúng sai, hơn thua tốt xấu, những chuyện thương ghét, trả thù báo
oán, gặp điều bất bình, chạm chút tự ái, hăm he thưa kiện, gây bao
đau khổ, phiền lụy người khác, dù thân hay thù. Nói vắn tắt là:
thọ nhiều khổ nhiều, chấp nhiều mệt nhiều. Buông xả thì thanh
thản, tha thứ thì thư thái. Chuyện hiểu rất đơn giản, thực hành
không dễ dàng, nhưng không phải bất khả.
- Trong Kinh Pháp
Cú, Ðức Phật có dạy:
- "Thắng lợi
sinh thù oán. Thất bại chịu khổ đau.
Không quan tâm thắng bại. Sống an lạc hạnh phúc".
- Cái tâm nghĩ
suy, tính toán hơn thua, lăng xăng lộn xộn, suốt ngày suốt đêm, có
phải "thực" là chúng ta hay chăng? Trong sách có câu:
- Người vui cảnh
đẹp bao lâu.
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.
- Nghĩa là cùng
một cảnh, nếu chúng ta có tâm sự buồn phiền áo não, không thấy
cảnh vui chút nào. Còn nếu như chúng ta có tâm trạng hân hoan vui
vẻ, dù cây khô trụi lá, cảnh vẫn đẹp vui như thường. Cái tâm hân
hoan vui vẻ là của chúng ta, hay cái tâm buồn thảm lê thê là của
chúng ta?
- Sách cũng có
câu:
- Tâm buồn cảnh
được vui sao.
Tâm an dù cảnh ngộ nào cũng an.
- Cùng một câu
nói, nếu tâm an ổn, vui vẻ mát mẻ, chúng ta cho là: nói đúng nói
phải, nói sao cũng được, nói ngược cũng xong. Trái lại, tâm đang
bực bội, ai nói câu nào, chúng ta cho là: nói sai nói bậy, nói
xiên nói xỏ, nói bóng nói gió, nói hành nói tỏi, nói quấy nói quá.
Ðối với người thân, thương yêu trìu mến, tâm chúng ta tốt, mặc dù
chưa chắc, lúc nào cũng tốt, được y như vậy. Còn như đối với, kẻ
thù người oán, tâm mình không tốt, sẵn sàng gây nên, phiền não khổ
đau, cho cả nhà họ. Họ càng khổ đau, nhiều đến chừng nào, mình
khoái chừng đó!
- * Vậy, thực
sự nghĩ xem, chúng ta là người: có tâm thực tốt, hay tâm
không tốt? Chẳng hạn như là: chúng ta đang cần, giúp đỡ khẩn
cấp, khi gặp tai biến, thì viên cảnh sát, chính là ân nhân. Còn
nếu chúng ta, vi phạm luật pháp, làm chuyện mờ ám, làm ăn phi
pháp, bóng dáng cảnh sát, thực chẳng đáng ưa, chút xíu nào cả.
Cùng một câu chuyện, chúng ta ưa thích, thì cho là đúng, ngược lại
không ưa, liền cho là sai. Cái tâm thay đổi, bất thường như vậy,
"thực" là chúng ta, như vậy hay sao?
- Bởi vậy, trong
kinh Thủ Lăng Nghiêm, Ðức Phật có dạy: "Tùy tâm biến hiện".
- Nghĩa là mọi sự việc trên thế gian
này biến hiện như thế nào, tốt hay xấu, lành hay dữ, đúng hay sai,
phải hay quấy, được hay không, đều do tâm của chúng ta biến hiện
ra cả. Cái sự cảm thọ, tùy theo tâm trạng, tùy theo cá nhân, không
ai giống ai, không có lúc nào, giống với lúc nào, không có nơi
nào, giống với nơi nào, không thời đại nào, giống thời đại nào. Do
đó cho nên, "tâm thọ" thực sự, hết sức nguy hại, không đáng tin
cậy, một chút nào cả.
- 3) Lại thêm
nữa, tâm của chúng ta luôn luôn giàu sự tưởng tượng nên mới gây ra
đau khổ. Có người nói ra, một câu thực là: vô thưởng vô phạt,
chúng ta tưởng tượng, suy diễn thêm ra, vẽ rắn thêm chân, để rồi
chuốc lấy, giận dỗi bực bội, phiền não khổ đau. Chuyện này xảy ra,
trong mọi cuộc sống, của mọi gia đình, ở khắp mọi nơi, rất là
thường xuyên. Trong cuộc nói chuyện, thảo luận đông người, thường
dễ xảy ra, những chuyện mích lòng, chỉ vì câu nói, hiểu lầm nào
đó, từ miệng một người, được cộng thêm với, tâm trí tưởng tượng,
của các người khác.
- Tâm trí tưởng
tượng, của vợ hay chồng, cũng thường dẫn tới, những chuyện ghen
tuông, tạo nên sóng gió, làm giảm rất nhiều, hạnh phúc gia đình.
Có một đám mây, ở trên không trung, lơ lửng bay qua, ánh sáng thái
dương, hiện ra ngũ sắc, rực rỡ huy hoàng, con người tưởng tượng,
đó là thần linh, thượng đế giáng trần, ban phước phép lành, giáng
điển ứng nghiệm. Thực là quá sức, mê tín dị đoan! Do đó cho nên,
"tâm tưởng" thực sự, hết sức nguy hại, không đáng tin cậy, một
chút nào cả.
- 4) Tâm trí suy
nghĩ, luôn luôn tiếp nối, không ngừng không nghỉ, từ chuyện này
đến chuyện khác, từ việc này đến việc khác, từ người này đến người
khác, từ nơi này đến nơi khác, từ xứ này đến xứ khác, từ đời này
đến đời khác, tạo thành một dòng tư tưởng, kéo dài vô cùng vô tận,
gọi là tâm hành. Trong những lúc đó, tâm chúng ta có, những dòng
tư tưởng, tiếp nối liên tục, chúng ta hãy thử, tìm cách dừng lại,
không suy nghĩ tiếp, xem được hay không? Chắc chắn là không!
- Lúc đó, dừng nó
không dễ, thì mới biết rằng: chúng ta không làm chủ được tâm hành
của chính chúng ta vậy. Lúc thân khỏe mạnh như vậy, tâm trí minh
mẫn như vậy, chúng ta còn không kiểm soát, không điều khiển, không
làm chủ được tâm hành của chính mình. Lúc sắp lìa đời, thân thể rã
rời, tứ chi đau đớn, thần kinh suy nhược, chắc chắn chúng ta, sẽ
bị tâm hành, dẫn dắt đi đâu, thì đến đó vậy. Thí dụ như lúc, lên
giường muốn ngủ, nhưng cái tâm hành, cứ suy nghĩ hoài, lo lo lắng
lắng, vớ vẩn vẩn vơ, muốn dừng không được, tiếp nối liên tục, trằn
trọc suốt đêm, không thể chợp mắt! Do đó, chúng ta nên biết: "tâm
hành" chính là động cơ, dẫn dắt con người vào vòng sanh tử luân
hồi, nên trong kinh sách, còn gọi là "hành nghiệp".
- 5) Chúng ta
luôn luôn khởi vọng niệm đẹp hay xấu, khi mắt trông thấy một hình
sắc nào đó, gọi là nhãn thức. Chúng ta luôn luôn khởi vọng niệm dễ
nghe hay khó nghe, khi tai nghe thấy một âm thinh nào đó, gọi là
nhĩ thức. Chúng ta luôn luôn khởi vọng niệm dễ chịu hay khó chịu,
khi mũi ngửi thấy một mùi nào đó, gọi là tĩ thức. Chúng ta luôn
luôn khởi vọng niệm ngon hay dở, khi lưỡi nếm thấy một vị nào đó,
gọi là thiệt thức. Chúng ta luôn luôn khởi vọng niệm thích hay
không thích, khi thân xúc chạm một vật nào đó, gọi là thân thức.
Chúng ta luôn luôn khởi vọng niệm luyến thương hay tức giận, khi ý
nghĩ nhớ tới một chuyện nào đó, gọi là ý thức.
- Ðể rồi những
vọng niệm như vậy, gọi chung là lục thức, được đưa đến kho tàng
tâm thức, trong kinh sách còn gọi là tàng thức, là nơi chứa đựng
những chuyện vui hay buồn, thương hay ghét, suốt cả cuộc đời của
mình. Chính những vọng niệm, vọng thức này là nguồn gốc của khổ
đau. Tại sao vậy? Bởi vì, những vọng niệm như: đẹp hay xấu, dễ
nghe hay khó nghe, dễ chịu hay khó chịu, ngon hay dở, thích hay
không thích, đâu có phải lúc nào cũng tuyệt đối đúng hết đâu.
- Thí dụ như là:
cùng một con người, chúng ta khen đẹp, người khác chê xấu, sanh ra
mích lòng, đưa đến đấu tranh, cãi cọ cãi vã, cuối cùng đánh nhau,
tức nhiên khổ đau. Thí dụ như là: cùng một món ăn, lúc mới bắt
đầu, vì quá đói bụng, chính mình khen ngon, ngon đáo ngon để, đến
lúc no rồi, thì lại thấy dở, hết còn ngon miệng. Cùng một món trái
cây như sầu riêng, một món ăn như khô mắm chẳng hạn, người khen
ngon thơm quá xá, thấy là phát thèm, người chê hôi thúi, khó nuốt
khó ngửi, tức nhiên sanh ra, tranh cãi với nhau, đưa đến khổ đau,
tạo ra phiền não. Như vậy, "tâm thức" gồm các vọng niệm, vọng thức
đó chính là nguồn gốc của sự khổ đau vậy.
- Cái thân tứ đại
gọi là hình sắc, và các vọng tâm gồm có: tâm thọ, tâm tưởng, tâm
hành, tâm thức, nói chung gọi là "ngũ uẩn". Nếu chúng ta
biết "chiếu kiến ngũ uẩn giai không", quán sát, chiếu soi,
xem xét, thấu hiểu "ngũ uẩn" giai không, nghĩa là không thực,
không thường còn, không vĩnh viễn, không cố định, không đáng để
chúng ta quan tâm, thì chắc chắn chúng ta sẽ "độ nhất thiết khổ
ách", tức là độ được, qua được hết thảy mọi khổ ách trên đời.
Chúng ta sẽ sống một cuộc đời an lạc và hạnh phúc, không nghi ngờ
gì cả. Lúc đó, lòng tự ái của chúng ta, tức là sự chấp ngã - giảm
bớt được bao nhiêu, chúng ta được an vui lợi lạc trong cuộc sống
được bấy nhiêu.
- Khi chúng ta
thực sự "xét thấy năm uẩn đều không", khổ nạn nào cũng qua
khỏi, tức là chúng ta đã "hành thâm bát nhã". Chứ không phải mỗi
ngày đọc tụng Bát Nhã Tâm Kinh đều đều, lưu loát, trơn tru, rào
rào, rầm rầm, gọi là hành thâm bát nhã đâu, đó chỉ là trả bài
thuộc lòng mà thôi. Hỏi rằng đọc tụng như vậy có ích lợi gì không?
Câu trả lời: Tùy! Tùy người! Tùy hoàn cảnh! Tùy nhiều yếu tố khác
nữa. Tại sao vậy? Bởi vì như vậy con người vẫn chưa qua khỏi được
các khổ nạn!
- * * *
- Chúng ta đã
hiểu qua: thế nào là chấp thân và chấp tâm, nói chung là "chấp
ngã".
- Bây giờ, chúng
ta thử tìm hiểu: Thế nào là "chấp pháp"?
- Chấp pháp nghĩa
là: đối với tất cả, các pháp trên đời, bao gồm mọi sự, mọi việc
thế gian, con người chấp chặt, ý kiến cá nhân, thành tích khả
năng, suy nghĩ hiểu biết, kiến thức sở học, kinh nghiệm bản thân,
không muốn thay đổi, không muốn cải thiện, không muốn sửa chữa,
không muốn chuyển hóa, không muốn nghe ai, bịt cả hai tai, chỉ mở
cái miệng. Thậm chí biết rằng, mình đã nghĩ sai, làm sai nói sai,
tin sai hiểu sai, cũng vẫn chấp chặt!
- Có câu chuyện
hai anh chàng vào rừng kiếm củi. Ngày kia, cả hai mỗi người bó
được một gánh củi đem về. Trên đường về, hai anh chàng gặp được
quế. Anh thứ nhứt bỏ củi, gánh quế đem về vì biết quế có giá trị
hơn, bán được nhiều tiền hơn. Anh thứ hai tuy cũng biết như vậy,
nhưng chấp chặt cái công phu gánh củi từ sớm đến giờ, không chịu
thay đổi. Ở trên thực tế, lắm khi con người, biết là sai đường,
biết làm sai việc, biết nói lỡ lời, suy nghĩ tầm bậy, nhưng đã lỡ
rồi, cho nó lỡ luôn, sửa lại quê quá, xin lỗi mất mặt, chạm tự ái
quá, nhứt định không được, tới đâu thì tới, đâu ngán ai chứ!
- Trong lòng cố
chấp, nặng nề như vậy, thường dẫn chúng ta, đến chỗ đấu tranh, bắt
đầu bằng lời, rồi tới võ lực, tức nhiên dẫn đến, phiền não khổ
đau. Những người có thêm, một chút học thức, trong lòng cố chấp,
tăng thêm một chút, họ ít khi chịu, nhìn thấy sự thực, ít khi chịu
nhận, lỗi lầm của mình, ít khi chịu nhịn, nhường bước người khác.
Trong kinh sách gọi đó là "sở tri chướng". Nghĩa là cái sở tri,
cái kiến thức, sự hiểu biết, đã có từ bấy lâu nay, thường làm
chướng ngại, ngăn đường cản lối, không cho chúng ta, nhận ra lẽ
phải, thấu suốt chân lý.
- Chân lý
không lệ thuộc tôn giáo nào, giai cấp nào, dân tộc nào, quốc gia
nào, thế lực nào, thời đại nào, không gian nào.
- Chân lý bất biến, bất tùy phân
biệt, chính là nghĩa đó vậy.
- Có câu chuyện
một học giả đến xin hỏi đạo với một thiền sư. Thiền sư mời học giả
ngồi, rồi mang trà ra tiếp đãi. Thiền sư chậm rãi, rót trà ra
tách, để trước mặt khách, tiếp tục rót trà, đến khi tràn ra, vẫn
không chịu dừng. Học giả thấy vậy, không còn chịu được, bèn lên
tiếng hỏi, lý do tại sao. Thiền sư từ tốn đáp rằng: Ngài đến đây
với đầy ắp kiến thức trong tâm trí, đâu còn chỗ để thu nhận lý
thiền, lẽ đạo. Cũng như tách trà đã đầy, không còn chỗ nhận thêm
nữa vậy.
- Trong cuộc
sống, chúng ta chứa đầy ắp những thành kiến, định kiến, thiên
kiến, biên kiến, tà kiến, ác kiến, thường kiến, đoạn kiến, trong
tâm trí, cho nên khó mà chấp nhận được bất cứ ý kiến nào của người
khác, khó mà nhận được thế nào là chánh kiến. Trong cuộc sống vợ
chồng, nếu ai cũng chấp chặt ý kiến của mình là đúng, không chịu
nghe giải thích, không chịu ngồi xuống bàn luận với nhau, làm sao
gia đình có được hạnh phúc! Lại đi nghe lời, ông bà thầy bói, bèn
đổi cái cửa, bèn sửa cái bếp, thêm xoay cái bàn, lại trở cái
giường, đi phá cái tường, xây thêm tấm vách, thực là lãng nhách,
tốn công phí sức, hao tiền tốn của, một cách vô ích. Ðiều cần phải
sửa, chính là cái "lòng cố chấp" của chúng ta, mà thôi.
- Trong Kinh A
Hàm, Ðức Phật có dạy câu chuyện năm người mù rờ voi, sau này
thường được viết trong sách giáo khoa, đem dạy ở trường học, đáng
để chúng ta suy gẫm như sau: Có năm người mù được dẫn tới rờ một
con voi và sau đó cho biết ý kiến của từng người. Người rờ được
cái vòi thì nhứt định cho là con voi giống như con trùng thật lớn.
Người rờ được cái chân thì nhứt định cho là con voi giống như cái
cột nhà thật lớn. Người rờ được cái tai thì nhứt định cho là con
voi giống như cái quạt thật lớn. Người rờ được cái bụng thì nhứt
định cho là con voi giống như cái trống thật lớn. Người rờ được
cái đuôi thì nhứt định cho là con voi giống như cái chổi. Thế là
cả năm người đều chấp chặt cái sở tri, cái hiểu biết của riêng
mình, có chứng nghiệm rõ ràng qua sự rờ rẫm hiện vật, cho nên cãi
vã nhau, chướng ngại nhau, không ai muốn nghe, muốn tin điều người
khác nói ra, nhứt định cho mình là đúng. Tức nhiên, câu chuyện
nhứt định dẫn đến chỗ tranh chấp, ấu đả và khổ đau.
- Chúng ta cũng
thường mắc phải những lỗi lầm như thế, trong cuộc sống, cho nên
phiền não khổ đau. Chúng ta thường nghe thoáng qua một câu chuyện
truyền miệng, không biết đâu là xuất xứ, rồi vội vàng kết luận là
người này tốt, người kia xấu, người này phải, người kia quấy, đưa
đến chỗ bất đồng ý kiến, tranh cãi, phiền não và khổ đau. Chúng ta
không có thời gian, không có khả năng, không có hoàn cảnh, không
có điều kiện, để tìm hiểu "nguyên hình" của con voi như thế nào,
mà đã vội vàng kết luận thì nhứt định không sai, nhưng cũng nhứt
định không đúng vậy. Chúng ta có thể chỉ "đúng một phần" thôi, hãy
lắng nghe ý kiến của người khác! Thực hiện được như vậy, có phải
chúng ta tránh được những cuộc tranh cãi vô ích, trong gia đình
cũng như ngoài xã hội. Thực hiện được như vậy, chắc chắn chúng ta
tránh được phiền não và khổ đau, chắc chắn chúng ta sống được an
lạc và hạnh phúc, không nghi ngờ gì nữa cả. Thực hiện được như
vậy, chúng ta mới là người thực sự biết tôn trọng chân lý.
- Sự khổ đau,
trong các gia đình, thường là do sự chấp chặt giữa cha mẹ và con
cái. Cha mẹ thì nhứt định phải như vầy và như vầy thì mới đúng,
khác đi là không được. Con cái thì nhứt định phải như vậy và như
vậy thì mới được, khác đi là không đúng. Những gia đình như thế và
như thế nhứt định không thể có hạnh phúc. Chúng ta đừng than phiền
con cái đời nay khó dạy.
- Thực ra, con
người đời nào cũng vậy, con cái đời nào cũng vậy thôi, chỉ có
chúng ta "biết" cách nào dạy con cái, và nhứt là "biết" cách nào
dạy chính mình hay không, mà thôi.
- Hai thế hệ khác
nhau tức nhiên có những khác biệt trong lề lối suy nghĩ và hành
động. Nếu biết thông cảm, dung hòa, tha thứ, hiểu biết, thì vui vẻ
hạnh phúc. Trái lại nếu cố chấp, bảo thủ ý kiến, thì khiến phiền
não và khổ đau. Rõ ràng là như vậy. Tệ hơn nữa là người lớn nghe
lời xúi dại của con cái, làm những chuyện lợi mình hại người, gây
nên tội báo nghiệp báo.
- * * *
- Trên đây, chúng
ta đã tìm hiểu qua thế nào là chấp ngã và chấp pháp. Vượt qua được
chấp ngã và chấp pháp, tức là chúng ta đã vượt qua được hết thảy
mọi khổ ách. Hiểu được tường tận như vậy, chúng ta dễ nhận định
rằng: "Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không,
không tức thị sắc, thọ, tưởng, hành, thức, diệc phục như thị".
Tại sao vậy?
- Bởi vì sắc và
không chẳng có gì khác nhau, còn và mất cũng vậy, tuy không đồng
nhau. Chẳng hạn như một cái đồng hồ do nhiều thứ ráp lại tạo
thành. Có người tò mò tháo rời từng bộ phận ra, rồi không biết ráp
lại thì cái đồng hồ không còn nữa. Hoặc giả đến một lúc nào đó,
lâu hay mau, sớm hay muộn, chúng ta cần tiền đem bán, hoặc đem cho
người khác, hoặc cái đồng hồ bị hư hoại, thì cũng không còn nữa.
Ngay khi cái đồng hồ còn hiện tiền, chúng ta đã hiểu biết bản chất
của nó là không, tức là không tồn tại vĩnh viễn. Cho nên mọi
chuyện biến đổi đối với cái đồng hồ không làm cho chúng ta ngạc
nhiên, không làm cho chúng ta phiền não và khổ đau, tức là chúng
ta được an nhiên tự tại, trước sự còn mất của cái đồng hồ, nói
riêng, trước sự còn mất của tất cả muôn pháp trên thế gian, kể cả
cái mạng sống của chúng ta, nói chung.
- Chẳng hạn như
có một căn nhà tiền chế, có thể tháo ráp được. Khi chưa được ráp
lại, đó chỉ là một đống vật liệu như là: cây, gổ, sắt, gạch, đá,
ngói, xi măng, khung cửa, máng xối, vân vân, chưa phải là căn nhà.
Khi ráp xong rồi, đó mới được gọi là căn nhà. Như vậy, bản chất
của căn nhà vốn là không. Do duyên hợp nên căn nhà tạm có. Khi hết
duyên, cái nhà rã ra, trở thành đống gạch vụn, không còn là căn
nhà nữa vậy.
- Trong Kinh Kim
Cang, Ðức Phật có dạy: "Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng".
- Nghĩa là: tất
cả mọi thứ trên thế gian có hình tướng, nhỏ như hạt cải, cái bàn
cái ghế, cái nhà cái xe, to lớn như dãy núi, hay quả địa cầu, tất
cả đều hư vọng, không tồn tại vĩnh viễn, có ngày cũng biến hoại,
sau vài chục năm, vài trăm năm, hoặc vài chục triệu năm. Cũng vậy,
cái thân tứ đại gồm có: đất, nước, gió, lửa, hay còn gọi là cái
thân ngũ uẩn gồm có: sắc, thọ, tưởng, hành, thức, của con
người cũng như vậy mà thôi. Còn đối với các pháp trên thế gian,
chuyện gì có cũng như không, không có chuyện gì tồn tại vĩnh viễn,
lâu dài. Cho nên khi đắc thời được thế, con người không nên kiêu
căng phách lối, ngạo mạn khinh người. Tại sao vậy? Bởi vì chuyện
đó không chắc tồn tại được lâu đâu!
- Hoặc khi gặp
chuyện bất bình bực bội, xui xẻo rắc rối, hư hại thất bại xảy ra,
con người cũng đừng để tâm trí rối loạn quá đáng. Tại sao vậy? Bởi
vì chúng ta biết ngay: chuyện gì rồi cũng qua đi, chỉ sớm hay
muộn, chóng hay chầy, mà thôi. Cố gắng giữ sự bình tĩnh thản
nhiên, được bao nhiêu tốt bấy nhiêu. Một cơn giận tới, do bị chửi
mắng sỉ nhục, do bị công kích khiêu khích, do bị phân biệt đối xử,
một cách bất công, do bị vu oan giá họa, nói chung, do bị ngoại
cảnh chi phối, do người đời chung quanh gây nên, không thể tránh
được.
- Chúng ta nên
quán chiếu: cơn giận đó không thiệt, không tồn tại lâu, chỉ quấy
động tâm sân của mình, không nhằm nhò gì đến con người chân thật
của mình, vốn bình tĩnh thản nhiên, vốn thanh tịnh từ ái. Chúng ta
không theo cơn giận đang khởi lên đó, cơn giận đó sẽ qua, sẽ tan
biến, sẽ lắng xuống. Mây đen tan biến, bầu trời quang đãng. Tuy
nhiên, cơn giận qua mau hay chậm, tùy theo năng lực tu tập, công
phu quán chiếu, khả năng hành trì của mỗi người. Chúng ta không
theo, cơn giận sẽ nguội dần. Mọi sự mọi việc sẽ bình yên.
- Ngược lại,
chúng ta theo cơn giận đó, đi gây sự, sinh sự thì sự sinh ra ngay.
Thí dụ như tức quá nhịn không nổi, phản ứng ngay tại chỗ: chửi cấp
trên thì bị mất việc, đánh người thì bị phạt, giết người thì ở tù.
Một chuỗi hậu quả liên tục sẽ đổ ập lên đầu chúng ta, tiếp theo
ngay sau cơn giận của mình, khó lường trước được. Khi gặp nghịch
cảnh, không chịu dùng trí tuệ bát nhã quán chiếu, càng cầu mong
chuyện qua mau, chuyện lại càng chẳng chịu qua. Cứ để tự nhiên,
đến đâu đối phó đến đó, lo lắng quá nhiều, buồn bực thái quá, sức
khỏe suy yếu, không ích lợi gì.
- "Sắc" và
"không" là hai từ ngữ chỉ sự đối đãi trong cảnh giới tương đối.
Khi còn ở trong cảnh giới tương đối, con người vẫn còn phiền não
và khổ đau, cho nên trong kinh sách gọi là còn trong vòng sanh tử
luân hồi. Chẳng hạn như còn thương thương ghét ghét, còn đúng sai
phải quấy, còn thị phi nhơn ngã, tức là còn khổ đau phiền não.
Chẳng hạn như còn chấp chặt sự quan trọng của mặt mũi, địa vị,
danh vọng, tiền bạc, của cải, sự nghiệp, tức là còn phiền não khổ
đau. Không có cái gì tồn tại vĩnh viễn. Bản chất của muôn pháp là
không. Hiểu biết được như vậy, chúng ta phá được chấp ngã và chấp
pháp, tâm của mình mới được thanh tịnh. Không bị cảnh trần chi
phối, lôi cuốn, tức là không còn phiền não khổ đau, thoát khỏi
vòng sanh tử luân hồi, chính là nghĩa đó vậy. Ðó là tinh thần bát
nhã, còn gọi là "pháp môn bất nhị". Bất nhị nghĩa là: không hai,
cũng không phải là một. Nói hai cũng trật, nói một cũng sai, cho
nên gọi là: "Không Hai".
- Chúng ta tạm
dùng thí dụ sau đây cho dễ hiểu. Người đời thường nói: "Tuy hai
mà một. Tuy một mà hai". Câu đó thường dùng để chỉ những cặp
vợ chồng hòa thuận đồng lòng, nhứt tâm nhứt trí, trong mọi vấn đề,
trong mọi hoàn cảnh, trong mọi trường hợp. Tuy là hai người khác
nhau, nhưng họ chỉ có một ý kiến, có một quyết định, khi cần chỉ
hỏi một người cũng đủ, cũng như hỏi người kia. Họ cũng như một
người về mặt tinh thần, nhưng thực tế họ là hai. Chúng ta thử xét
thí dụ khác: Mặt biển lúc nổi sóng và mặt biển lúc thanh bình, tuy
là hai trạng thái hoàn toàn khác nhau, nhưng không phải là hai
biển. Cũng vậy, tâm chúng ta lúc bình tĩnh thản nhiên và lúc nổi
cơn tức giận, không hai, nhưng cũng không phải một. Tuy hai mà
một, tuy một mà hai, chính là nghĩa đó vậy.
- Trong cảnh giới
tương đối, chúng ta thấy có cái này thì phải có cái kia. Chẳng hạn
như có sáng thì có tối, có đúng thì có sai, có thương thì có ghét,
có phải thì có quấy. Chấp một bên thì chúng ta khổ đau ngay, phiền
não ngay. Ðó còn gọi là cảnh giới nhị biên. Khi nào chúng ta phát
huy được trí tuệ bát nhã, vượt ra khỏi vòng tương đối, chúng ta sẽ
hết phiền não và khổ đau, sẽ được giác ngộ và giải thoát, sẽ được
an lạc và hạnh phúc, sẽ được an nhiên và tự tại. Chẳng hạn như khi
gặp một người, nếu không quan tâm chuyện thương ghét, tâm chúng ta
sẽ bình thản. Chẳng hạn như khi vào một căn phòng không có mùi
thơm, không có mùi hôi, tâm chúng ta sẽ bình thản.
- Ðây mới
chính là ý nghĩa thiết yếu của việc tu tâm dưỡng tánh theo đạo
Phật:
- Trong tâm
khởi niệm, nếu giác kịp thời, liền biết không theo, đó là chân
tâm.
- Trong tâm
khởi niệm, nếu còn mê muội, không giác kịp thời, liền theo niệm
đó, trở thành vọng tâm.
- Cũng ví như
là: Khi có gió thổi, mặt biển nổi sóng, gọi là biển động. Mặc dù
có gió thổi, mặt biển vẫn bình yên, đó là biển thái bình, ví như
bản tâm thanh tịnh.
- Tu theo đạo
Phật, không phải chỉ có: cúng kiến lễ lạy, van xin cầu nguyện,
không còn gì khác!
- Ðiều đáng quan
trọng không phải là "vọng tâm" thay đổi bất chợt, bất thường nói
trên, mà chính là cái "chân tâm" không sanh không diệt, không dơ
không sạch, không tăng không giảm của tất cả chúng ta vậy.
Hiểu được, nhận được: "thế nào là chân tâm", chính là mục đích cứu
kính của đạo Phật, được Ðức Phật giảng giải rõ ràng trong Kinh Thủ
Lăng Nghiêm, và đồng thời, trong Bát Nhã Tâm Kinh, phần tiếp theo
sau đây:
- "Xá Lợi Tử!
Thị chư pháp không tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh,
bất tăng, bất giảm. Thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng,
hành, thức; vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thinh,
hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới, nãi chí vô ý thức giới; vô vô
minh diệc, vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận;
vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí diệc vô đắc. Dĩ vô sở đắc cố, bồ đề
tát đỏa y bát nhã ba la mật đa cố, tâm vô quái ngại; vô quái ngại
cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh niết
bàn. Tam thế chư Phật y bát nhã ba la mật đa cố, đắc a nậu đa la
tam miệu tam bồ đề".
- Nghĩa là: Hãy
nhìn thấy các pháp không qua các hình tướng bên ngoài, chúng ta
mới có thể nhận thấy được bản thể chơn thực không sanh không diệt,
không dơ không sạch, không tăng không giảm. Hãy nhìn thấy trong
chơn không, không có ngũ uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức, không
có lục căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, không có lục trần: sắc,
thinh, hương, vị, xúc, pháp, không có lục thức: từ nhãn thức cho
đến ý thức, không có vô minh, không có hết vô minh, không có già
chết, không có hết già chết, không có tứ đế: khổ, tập, diệt, đạo,
không có trí tuệ, cũng không có chỗ chứng đắc. Vì không có chỗ
chứng đắc, tức là không bị dính mắc, dù là pháp thế gian, hay pháp
xuất thế gian, cho nên Bồ Tát nương theo trí tuệ bát nhã, tâm
không còn điều gì ngăn ngại, không có gì cản trở được, không có gì
làm cho sợ hãi, chính vì thế xa lìa hẳn những chuyện điên đảo mộng
tưởng, đạt tới cảnh giới cứu kính niết bàn. Chư Phật trong ba
thời: quá khứ, hiện tại và vị lai, đều nương theo trí tuệ bát nhã,
đạt được đạo quả vô thượng chánh đẳng chánh giác.
- Hình tướng của
các pháp ở thế gian đều do con người tạo ra. Chẳng hạn như chế tạo
ra kiểu xe này, kiểu xe khác, tùy theo sáng chế của viên kỷ sư,
tùy theo nhu cầu của người mua sắm, tùy theo mức tiêu thụ, trên
các thị trường khắp nơi. Chẳng hạn như xây cất nhà cửa, kiểu này
kiểu khác, tùy theo đồ án thiết kế của kiến trúc sư, tùy theo chức
năng xử dụng của công trình, nào là nhà ở đủ loại, nào là nhà
thương, trường học, nhà máy, phi trường, vân vân.
- Chẳng hạn như
hình tướng người hiền, hình tướng người dữ, tùy theo tâm tánh của
mỗi người, hiển lộ trên gương mặt, trên tướng mạo bên ngoài. Các
chuyên viên hóa trang trong ngành điện ảnh, trong nghệ thuật sân
khấu, kịch nghệ hay cải lương, có khả năng biến một người thành
dáng hiền nhân quân tử, hay đạo tặc tiểu nhân, thậm chí biến một
người thành dáng nam hoặc nữ, tùy theo yêu cầu của kịch bản. Chẳng
hạn như cùng một chất vàng, con người có thể làm ra đủ thứ loại nữ
trang, hình tướng khác nhau, nào là vòng, xuyến, cà rá, hoa tai,
dây chuyền đủ kiểu. Cho nên khi nhìn các món nữ trang, chúng ta
không nên chấp vào hình tướng khác nhau, hình thức bên ngoài,
chúng ta sẽ dễ dàng nhận biết: tất cả đều được làm bằng vàng, bản
thể là chất vàng.
- Cũng vậy,
khi chúng ta nhìn con người không qua các hình tướng khác nhau,
các hình thức bên ngoài, chẳng hạn như: nam phụ lão ấu, già trẻ
lớn bé, giàu nghèo, sang hèn, quan dân, đẹp xấu, mạnh yếu, cao
thấp, sắc tộc, màu da, xuất xứ, học thức, địa vị, lúc đó chúng ta
sẽ nhận ra được tất cả mọi người đều giống nhau ở chỗ: bất cứ
người nào cũng có "Bản Tâm Thanh Tịnh", còn gọi là "Chân Tâm".
- Bản tâm
thanh tịnh của tất cả mọi người đều giống nhau, không khác, đều
đồng nhứt thể. Chỉ vì mê ngộ không đồng, con người tạo tội tạo
nghiệp khác nhau, cho nên hình tướng bên ngoài khác nhau.
- Bất cứ người
nào trên đời, nếu không bị ai chửi mắng, không bị ai nguyền rủa,
không bị ai thưa kiện đòi tiền, không bị ai đánh đập, không bị ai
nói xấu, không bị ai lường gạt, không bị ai chọc ghẹo, không bị ai
vạch áo coi thẹo sau lưng, không bị ai cướp tác quyền, không bị ai
vu khống cáo gian, không bị ai đá giò lái, không bị ai thọc gậy
bánh xe, không bị ai vạch lá tìm sâu, không bị ai đem đuốc rê chân
mình, không bị ai đào mồ tổ tiên ba bảy đời, không có lòng tham,
không dễ nổi sân, không si mê ám chướng, tất cả những người như
vậy chắc chắn đều sống trong cảnh giới an nhàn, thanh tịnh, thanh
thản, thảnh thơi, thư thái, tự tại, giải thoát. Nói một cách khác,
khi con người không bị cảnh trần lôi cuốn, thì tâm trí chắc chắn
thanh tịnh. Bản tâm thanh tịnh không phân biệt hình tướng bên
ngoài của người đó như thế nào, dù người đó theo bất cứ tôn giáo
nào, dù người đó là tu sĩ hay tín đồ cũng vậy.
- Bất cứ người
nào cũng có bản tâm thanh tịnh, còn gọi là chân tâm. Ðó là điều
cứu kính Ðức Phật chỉ bày trong Bát Nhã Tâm Kinh. Mặc dù con người
sống ở trên thế gian, dĩ nhiên ai ai cũng có mắt, tai, mũi, lưỡi,
thân, ý; cũng đều phải tiếp xúc với trần cảnh gồm có: sắc, thanh,
hương, vị, xúc, pháp. Nhưng nếu mắt nhìn thấy sắc, tai nghe thấy
tiếng, mũi ngửi thấy mùi, lưỡi nếm thấy vị, thân thấy xúc chạm, mà
tâm trí vẫn không xao động, tâm tư vẫn bình tĩnh thản nhiên, tâm ý
không khởi lên bất cứ niệm nào, tâm trạng không đổi thay, tức là
người đó sống trong cảnh giới thiền định, cảnh giới thanh tịnh,
cảnh giới niết bàn. Nếu bản tâm thanh tịnh hiển lộ trong mọi
trường hợp, trong mọi khoảnh khắc, trong mọi hoàn cảnh, trong mọi
thời gian, trong mọi nơi chốn, lúc đó con người trở thành bậc
thánh hiền. Bản tâm thanh tịnh chỉ hiển lộ khi nào trong tâm trí
con người hoàn toàn trống rỗng và lặng lẽ, không có vọng thức hay
tạp niệm nào cả, trong kinh sách còn gọi đó là "Chân Không".
- Trong chân
không thanh tịnh đó, không lệ thuộc nơi sáu căn: mắt, tai, mũi,
lưỡi, thân, ý; cũng không lệ thuộc nơi sáu trần: sắc, thanh,
hương, vị, xúc, pháp. Nghĩa là dù sống ở giữa cảnh phồn hoa đô
hội, thị tứ náo nhiệt, nhưng nếu biết canh chừng tâm trí của mình,
không để bị cảnh trần lôi cuốn, con người cũng có thể sống trong
cảnh giới thiền định được, định trong cảnh động. Mặc dù sống trong
cảnh yên lặng của núi rừng thôn dã, hay cảnh tịch tịnh của tu
viện, nhưng tâm tư chưa dứt bụi trần, chưa dứt nghiệp duyên, còn
nhiều ham muốn, còn nhiều phiền lụy, không biết pháp môn chăn
trâu, không biết chăn giữ tâm trí của mình, tâm trí vẫn còn loạn
động, tạp niệm vẫn tiếp diễn không ngừng, chắc chắn người đó chưa
thể sống trong cảnh giới thiền định được vậy.
- Trong kinh
sách, những tạp niệm, khởi lên trong tâm trí, được ví như con
trâu. Con trâu tâm trí thường dẫn dắt con người đi từ hiện tại mơ
màng, trở về quá khứ xa xăm, có khi đi từ hiện tại phiền não khổ
đau, đến tương lai xa vời, mộng tưởng, có khi đi từ đông sang tây,
có khi đi từ chuyện quốc gia đại sự, đến chuyện nhỏ nhặt riêng tư,
có khi đi từ chuyện trong nhà, đến chuyện hàng xóm. Nếu không khéo
chăn dắt gìn giữ con trâu đó, một cách hết sức cẩn thận, từng giờ
từng phút từng giây, chắc chắn con người sẽ bị nó dẫn dắt đi, tạo
tội tạo nghiệp, suốt đời suốt kiếp, mà thôi. Ðến khi phải đền trả
nghiệp báo, hay đến giờ phải đền tội, con người hả họng cỡ nào,
kêu làm sao cho thấu trời cao? Cho nên đau khổ vẫn hoàn khổ đau,
dài dài!
- Sau khi chúng
ta đã thấu hiểu thân và tâm này đều là giả tạm không thực, chỉ là
hình tướng, không tồn tại vĩnh viễn, chúng ta sẽ không còn khổ
đau, khi đối diện với những bất trắc của cuộc đời. Thậm chí, chúng
ta sẽ không đau khổ, như người thế gian thường tình, khi người
thân hết duyên sống trên đời, hoặc chính mình đến lúc bỏ lại thân
ngũ uẩn để ra đi. Khi đó, dù còn mang thân xác tứ đại, nhưng tâm
thọ, tâm tưởng, tâm hành và tâm thức, không còn chao động, không
còn lăng xăng lộn xộn nữa, chúng ta sẽ nhận ra được bản tâm thanh
tịnh của chính mình. Cũng ví như khi mây đen tan biến hết, mặt
trời chiếu sáng, tỏ rạng như tự thuở nào. Lúc mặt trời bị mây đen
che khuất, chúng ta tưởng đâu không có mặt trời, chỉ thấy toàn mây
đen trên không trung.
- Cũng vậy, trong
cuộc sống, chúng ta mãi lo bon chen để kiếm sống, để sống còn, mãi
lo tranh giành danh và lợi, mãi lo chuyện hơn thua thị phi phải
quấy, mãi lo hàng trăm hàng ngàn thứ, hàng trăm hàng ngàn việc, từ
khi bước chân vào đời, cho đến khi nhắm mắt xuôi tay. Bởi vậy cho
nên, chúng ta luôn luôn để tâm trí dong ruỗi theo cảnh trần, tâm
trí luôn luôn bất an loạn động, tâm trí luôn luôn thay đổi trong
từng giây từng phút, tạo tác không biết bao nhiêu là tội nghiệp,
nghiệp chướng, nghiệp báo. Do đó chúng ta không nhận được bản tâm
thanh tịnh của chính mình, chỉ thấy tâm trí lúc buồn lúc vui, tùy
theo cảnh trần bên ngoài. Ví như những đám mây đen dầy đặc che
khuất mặt trời, hay che khuất mặt trăng, không còn chiếu sáng. Ví
như những cơn sóng to cơn sóng nhỏ che lấp mặt biển bao la. Khi
các vọng tâm vọng niệm vọng thức lắng xuống, ví như các ngọn sóng
to sóng nhỏ lặng xuống, mặt biển bản tâm thanh tịnh bao la không
ngằn mé hiển hiện rõ ràng.
- Bản tâm thanh
tịnh, hay chân tâm bất sanh bất diệt, không sanh không diệt,
thường hằng, vĩnh viễn, luôn luôn hiện hữu. Chỉ có tâm sân hận oán
thù, mới có sanh và diệt, mà thôi. Chẳng hạn như khi gặp chuyện
bất như ý, tâm con người khởi sanh bực tức oán giận. Lúc đó, con
người quên mất bản tâm thanh tịnh của mình, tức là quên mất mình
là ai. Lâu sau nguôi dần, tâm con người trở lại trạng thái bình
thường, tâm sân hận diệt đi, không còn nữa. Sanh diệt có nghĩa là
như vậy.
- Chân tâm bất
cấu bất tịnh, nghĩa là không dơ không sạch. Chỉ có tâm tham lam
tiền bạc của cải, tham lam danh hão, mới có sạch hay dơ, mà thôi.
Chân tâm bất tăng bất giảm, nghĩa là không thêm không bớt. Chỉ có
tâm ngu si mê muội, mới có tăng hay giảm, ngu nhiều hay ngu ít, mà
thôi. Khi đó trí tuệ bát nhã bừng sáng, chúng ta có thể hiểu thấu
mọi sự mọi việc trên thế gian này đúng như thực tướng.
- Trong Kinh Kim
Cang, Ðức Phật có dạy: "Ly nhứt thiết tướng thị danh thực
tướng".
- Nghĩa là: Khi
chúng ta lìa bỏ tất cả hình tướng bên ngoài, không cố chấp bất cứ
hình thức nào, thì chúng ta nhận thấy được thực tướng. Thực tướng
đó chính là bản tâm thanh tịnh, là chân tâm không có hình tướng,
mắt thường của người thế gian không có thể thấy được. Vì không có
hình tướng như vậy cho nên bản tâm thanh tịnh không tăng không
giảm. Trước đây chúng ta giác ngộ được, cũng như vậy. Bây giờ mới
giác ngộ, cũng như vậy, không khác, không hai. Ngàn kiếp sau mới
chịu tu, mới giác ngộ, bản tâm thanh tịnh cũng vẫn như vậy mà
thôi. Vì không có hình tướng, cho nên bản tâm thanh tịnh không nhơ
không sạch, không ai có thể ném bùn, không ai có thể bôi lọ, không
ai có thể đụng tới được.
- Nói một cách
khác: người đời chỉ có thể làm hại cái thân tứ đại của mình, có
thể làm hại cái danh hão của mình, có thể làm hại của cải, sự
nghiệp trên đời của mình, nói chung, người đời chỉ có thể làm hại
những thứ gì thấy được, sờ được của mình, chứ không ai có thể đụng
tới được bản tâm thanh tịnh của mình.
- Bởi thế cho
nên, ngộ được bản tâm thanh tịnh, tức là chúng ta vượt qua được
tất cả mọi khổ ách, bởi vì chúng ta đã vượt qua được những dính
mắc gây phiền não khổ đau của cuộc đời, chính là nghĩa đó vậy.
- Chẳng hạn như
mắt thấy sắc không còn sanh ra nhãn thức. Chẳng hạn như tai, mũi,
lưỡi, thân, ý, tiếp xúc với thanh, hương, vị, xúc, pháp, không còn
sanh ra các tâm thức, chất chứa trong kho thàng tâm thức nữa.
- Có câu chuyện
sau đây về một ông trưởng giả có bốn bà vợ. Ông trưởng giả thương
nhứt là cô vợ bé bự, nên đi đâu ông cũng mang theo, không bao giờ
thiếu vắng, nhứt định chặt không đứt, bứt không rời. Ông vẫn
thương bà vợ thứ ba nhiều lắm, nên đi đâu ông cũng thường mang
theo, tuy cũng có lúc quên. Ông vẫn còn thương bà vợ thứ hai, nên
thỉnh thoảng nếu nhớ, ông đem ra khoe cho vui. Ông dường như quên
lững bà vợ cả một thời đầu ấp tay gối, mặn nồng xưa kia. Suốt ngày
ông chỉ bận bịu với ba bà vợ kia mà thôi. Ðến lúc sắp phải đi theo
tổ tiên, ông bèn kêu các bà vợ đến bên giường bệnh, và hỏi xem có
bà vợ nào muốn đi theo ông hay không?
- Cô vợ bé bự trả
lời: Dù khi còn sống, ông cưng chiều, săn sóc tôi hết mức, chăm lo
ngày cũng như đêm, không thiếu thứ gì cả. Nhưng ông có ra đi thì
ra đi một mình. Khi ông hết thở, tôi sẽ bỏ ông tức khắc, không thể
theo ông được đâu! Bà vợ thứ ba trả lời: Khi ông hết thở, tôi sẽ
phải qua tay người khác, không thể nào tránh được đâu! Tôi không
muốn cũng không được. Bà vợ thứ hai trả lời: Tôi sẽ theo ông tới
nấm mồ thôi, không thể theo xa hơn được, không thể nào theo ông
mãi mãi được đâu! Ông đi một mình đi! Tới phiên bà vợ cả, bà từ
tốn trả lời: Ông đừng lo, dù ông có quan tâm đến tôi hay không, dù
ông có muốn hay không, đã là vợ chồng với nhau, lúc nào, đời nào,
kiếp nào, ông đi đến đâu, tôi sẽ theo ông tới đó, như bóng với
hình vậy!
- Câu chuyện trên
ngụ ý rằng: Khi ông trưởng giả hết thở ra đi, trước nhứt, ông bỏ
lại cô vợ bé bự, chính là cái thân tứ đại mấy chục người khiêng
của ông, mà lúc nào ông chẳng mang theo khi còn sống. Kế đó, ông
bỏ lại bà vợ thứ ba chính là tiền bạc, của cải, phải sang tay
người khác ngay. Bà vợ thứ hai chính là danh vọng, chức tước chỉ
có thể theo ông trưởng giả tới nấm mồ, được nhắc lại trong các
điếu văn của bằng hữu, và được ghi khắc trên mộ bia của ông mà
thôi.
- Còn bà vợ cả
chính là "nghiệp báo", do ông trưởng giả đã hành động, đã nói
năng, đã suy nghĩ, từ thân khẩu ý của chính ông, khi còn sanh
tiền, sẽ theo ông mãi mãi và dẫn dắt ông tái sanh vào cõi lành hay
cõi dữ, tùy theo ông trưởng giả đã làm lành hay dữ khi còn sanh
tiền. Chứ không có đấng nào, không có thần linh nào, không có bất
cứ ai, có thể cứu rỗi hay trừng phạt ông trưởng giả cả.
- * "Tự ông
làm, chính ông hưởng. Tự ông làm, chính ông chịu". Chỉ có vậy
mà thôi. Như vậy mới thực sự là chí công vô tư. Khi còn sanh tiền,
con người chỉ biết lo săn sóc, cưng chiều, cung phụng tấm thân tứ
đại cho đầy đủ, sung túc. Lo kiếm tiền bạc cho thiệt nhiều, có
tiền rồi thì dùng tiền kiếm tí danh, địa vị, dù chỉ là danh hão
cũng được, chứ ít có người biết quan tâm đến "nghiệp báo",
ít có người biết lo tu tâm dưỡng tánh, biết lo dừng nghiệp và
chuyển nghiệp, biết lo tu nhân tích phước, biết lo làm việc phước
thiện, để dành "phước báo" cho mai sau.
- * * *
- Phần cuối cùng
Bát Nhã Tâm Kinh:
- "Cố tri bát
nhã ba la mật đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô
thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhứt thiết khổ, chơn
thiệt bất hư. Cố thuyết bát nhã ba la mật đa chú, tức thuyết chú
viết: Yết đế yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà
ha".
- Nghĩa là: Nên
biết bát nhã ba la mật là đại thần chú, là đại minh chú, là vô
thượng chú, là vô đẳng đẳng chú, trừ được hết thảy khổ, chơn thực
không giả. Vì vậy, nói ra bài chú bát nhã ba la mật, liền nói bài
chú ấy rằng: Yết đế yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề
tát bà ha.
- Sau khi giảng
dạy tường tận, cặn kẽ chân lý của các pháp, chỉ dẫn những bước cần
thiết để khai mở trí tuệ bát nhã, Ðức Phật cho biết trí tuệ bát
nhã chính là những điều cao tột, cứu kính, quí báu, cũng như những
đại thần chú, đại minh chú, vô thượng chú, vô đẳng đẳng chú, có
năng lực trừ được hết thảy khổ ách trên thế gian. Khi bài chú ấy
nói ra, chúng ta chẳng hiểu gì cả. Chính cái chỗ không hiểu gì cả
đó đem lại sự không tịch, rỗng lặng, thuần khiết, thanh tịnh trong
nội tâm, sau thời gian náo động, vận dụng sự suy tư, quán chiếu,
để tìm hiểu chân lý, để tìm hiểu thực tướng. Bây giờ là lúc buông
xả hết. Buông xả hết thì chân tâm hiện tiền! Sanh diệt ký diệt,
tịch diệt hiện tiền!
-
* * *
- Tóm lại, chúng
ta biết rằng, khi đứng trong một căn phòng, cầm đèn rọi ra bên
ngoài, thì mình sẽ thấy rõ, biết rõ cảnh vật bên ngoài, còn bên
trong căn phòng thì tối thui. Ngược lại, khi xoay ngọn đèn vào bên
trong căn phòng, dĩ nhiên căn phòng sáng tỏ, một cách rõ ràng,
chúng ta có thể thấy mọi thứ đồ đạc và đi đứng không bị vấp ngã.
Cũng vậy, khi chúng ta phóng tâm quán sát bên ngoài, chúng ta có
thể phê phán người này đúng, người kia sai, chuyện này phải,
chuyện kia quấy, sách này tốt, sách kia tồi, món này ngon, món kia
dở, hội này hay, hội kia hỏng, vân vân và vân vân. Chúng ta có thể
biết chuyện khắp năm châu bốn biển, chuyện thời sự khắp thế giới,
chuyện văn chương kim cổ đông tây, muôn sự mọi việc bên ngoài đều
biết rõ ràng rành mạch. Trái lại, chuyện bên trong tâm trí của
chính mình thì mù tịt, chẳng biết tí gì cả! Mình thực sự là ai,
chẳng biết! Mình thực sự đang muốn gì, chẳng biết! Mình thực sự
đang làm thiện hay bất thiện, chẳng biết! Mình thực sự đang nghĩ
thiện hay bất thiện, chẳng biết! Mình thực sự sống trên đời để làm
gì, chẳng biết! Mình sau này sẽ đi về đâu, nếu vẫn cứ tạo tội tạo
nghiệp hằng ngày, chẳng biết! Chuyện gì thuộc về bên trong, thuộc
về nội tâm, chúng ta cũng đều chẳng biết!
- Tổ Sư Qui Sơn
Linh Hựu có dạy: "Tiền lộ mang mang, vị tri hà vãng".
- Nghĩa là ngay khi, còn sống trên
đời, lúc còn khỏe mạnh, tinh thần tỉnh táo, nhưng con người vẫn,
bị các cảnh trần, lôi cuốn quay cuồng, vẫn bị tâm tham, tâm sân
tâm si, sai xử liên miên, tâm trí bất định, đến khi sắp chết, dù
trẻ hay già, tâm thần hoảng hốt, nhớ lại tất cả, tội nghiệp đã
làm, đã nói đã nghĩ, trước đây trong đời, lo sợ nghiệp báo, con
đường trước mặt, mù mù mờ mờ, mang mang mịt mịt, thần thức rối
ren, không thể sáng suốt, không biết mình đi đâu, không biết mình
vào cảnh giới nào, lúc đó hối hận, cũng quá muộn màng!
- Có một người,
sau một thời gian vắng nhà, đi lang thang ngoài gió bụi, làm khách
phong trần lãng đãng đã nhiều năm tháng, cảm thấy mệt mỏi, giờ đây
muốn quay trở về quê hương, tìm về căn nhà xưa. Khi về đến nhà,
người đó nhận ra, tất cả đồ đạc, bên trong căn nhà, vương vãi tứ
tung, ngổn ngang trăm thứ, trên bàn trên ghế, trên cả sàn nhà,
giấy tờ rải rác, cùng khắp mọi nơi, bởi vì tất cả, cửa sổ cửa cái,
cả thảy là sáu, đều bị mở tung. Người đó bèn đi, đóng hết tất cả,
cửa sổ cửa cái, đốt ngọn đèn lên, cho sáng căn nhà, cho ấm căn
phòng, rồi ra công sức, quét dọn khắp nơi, sắp xếp đồ đạc, ngăn
nắp gọn gàng, trật tự mỹ quan. Xong xuôi tắm rửa, pha tách trà
nóng, ngồi xuống yên lặng, thưởng thức khung cảnh, ấm áp lạ
thường, từ trong ra ngoài, thực khó diễn đạt. Ngay lúc bấy giờ,
người đó cảm thấy, bình yên thanh thản, an lạc hạnh phúc.
- Cũng vậy từ
lâu, chúng ta vô minh, mở rộng sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân,
ý, đón nhận sáu trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, thường
xuyên mỗi ngày, bởi vậy cho nên, nội tâm xáo trộn, sanh ra sáu
thức: nhãn thức, nhĩ thức, tỹ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức.
Chúng ta đã từng nhận chịu quá nhiều phiền não khổ đau của cuộc
đời. Cho nên giờ đây, chúng ta muốn trở về với bản tâm thanh tịnh,
muốn nội tâm không còn xáo trộn, không còn náo động, không còn
phiền não, không còn khổ đau. Việc đầu tiên chúng ta phải làm là:
đóng bớt sáu căn, giảm bớt cơ hội tiếp xúc với sáu trần bên ngoài,
tự khắc sáu thức cũng theo đó giảm đi. Khi sáu thức giảm bớt, đến
lúc không còn nữa, tức là trong nội tâm không còn khởi bất cứ niệm
nào nữa cả, khi đó chúng ta đã trở về được căn nhà xưa, đã dọn dẹp
mọi sự mọi việc ngăn nắp, tìm được bản tâm thanh tịnh, đạt được
cảnh giới cứu kính niết bàn. Tức nhiên lúc đó, cuộc sống của chúng
ta được an lạc và hạnh phúc, bởi vì phiền não và khổ đau không còn
nữa. Ðây chính là pháp môn tu tập theo Bát Nhã Tâm Kinh.
- Sự mầu nhiệm vi
diệu của đạo Phật chính là sự áp dụng những lời dạy của Ðức Phật
vào đời sống hằng ngày của người Phật Tử, dù tại gia hay xuất gia,
để được an lạc hạnh phúc, để đạt giác ngộ giải thoát, chứ không
phải những chuyện mê tín dị đoan do những người tu mù, không học
hiểu kinh điển, giải thích giáo lý một cách mơ mơ màng màng, cho
có vẻ linh thiêng huyền bí, để lôi kéo tín đồ, mưu mô lợi dưỡng,
hưởng thụ cuộc đời, thêm danh thêm lợi, gọi là phương tiện, quên
mất cứu kính! Những việc như vậy, ngày nay tràn ngập, trong các
sinh hoạt, Phật giáo khắp nơi.
- Người Phật Tử
chân chánh, dù tại gia hay xuất gia, phát huy được trí tuệ bát
nhã, sẽ dễ dàng nhận ra, nơi nào hoằng dương Chánh Pháp. Ðó là các
nơi, giảng kinh thuyết pháp, mở lớp giáo lý, các khóa tu học, giúp
ích mọi người, hiểu rõ Phật Pháp, sống đời an lạc, tự tại giải
thoát. Còn những nơi nào, chỉ có cúng kiến, lễ lạy quanh năm, lễ
to lễ nhỏ, tụng kinh rầm rầm, bá tánh hiểu lầm, bày trò văn nghệ,
xổ số thu tiền, thi ca xướng hát, bói tướng cầu cơ, gieo quẻ xin
xăm, xem ngày tốt xấu, cưới gả ma chay, cho bùa buôn bán, trở lại
cúng chùa, đó là những nơi, không có Chánh Pháp.
Người có trí
tuệ bát nhã sẽ tự cứu cuộc đời chính mình, ra khỏi vòng vô minh từ
vô thủy, sẽ không còn bị các hình thức mê tín dị đoan thuyết phục,
không còn tin các lời tuyên truyền, đồn nhảm, có tính cách linh
thiêng huyền bí, không còn lẫn lộn Chánh Pháp của đạo Phật, với
những tà thuyết chỉ có cái vỏ, thoáng nhìn có vẻ giống như đạo
Phật, mượn giáo lý của đạo Phật, trộn lẫn với đủ loại giáo thuyết
khác, tạo thành các "quái thai" tín ngưỡng, dụ dẫn con
Cư Trần Lạc Ðạo
--o0o--
|
|