-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Cư Trần Lạc Ðạo
-
(Trọn bộ 3 tập)
-
Toronto, Canada
1999 - PL 2543
- ---
o0o ---
-
-
Tập 2
-
- [07]
- Giác Ngộ &
Giải Thoát
-
Trên thế gian này, đạo Phật
đã có mặt hơn hai ngàn năm trăm năm lịch sử, khởi thủy từ Á châu
truyền sang Âu châu và hiện nay đang phát triển mạnh mẽ tại Mỹ
châu và Úc châu. Song song với đà phát triển của khoa học hiện
nay, dân chúng ở các xứ văn minh và tiến bộ đang dần dần mất sự
tin tưởng nơi các tôn giáo chủ trương thần quyền, thiếu căn cứ
khoa học, giải thích mọi sự mọi việc qua đức tin nơi thượng đế mà
thôi. Cùng với sự phát triển của khoa học, dân chúng ở các quốc
gia Âu Mỹ Úc ngày càng đối diện với các khủng hoảng tinh thần, do
nhiều áp lực, nhiều khó khăn, dồn dập xảy ra trong cuộc sống hằng
ngày. Khoa học ngày càng đáp ứng tối đa các nhu cầu, những tiện
nghi vật chất của con người. Trong khi đó, các tôn giáo hiện diện
tại đây từ trước, không đáp ứng được những nhu cầu tinh thần,
những vấn đề tâm linh của con người.
- Cho nên, dân chúng ở các quốc gia
Âu Mỹ Úc đã và đang hướng về tìm hiểu giáo lý của đạo Phật và thực
hành những lời dạy của Ðức Phật trong đời sống hằng ngày. Từ đó,
họ tìm được sự an lạc và hạnh phúc, ngay trong đời sống đầy dẫy
những bất trắc và phiền não khổ đau. Họ phát tâm tu tập một cách
tích cực, dưới nhiều hình thức, tu sĩ hay cư sĩ tại gia, họ viết
sách, dịch kinh Phật Giáo để phổ biến cho mọi người cùng hiểu
biết, để được giác ngộ và giải thoát. Nghĩa là họ đến với đạo Phật
bằng trí tuệ, chứ không phải chỉ bằng niềm tin mà thôi.
- * * *
- Trong Kinh A
Hàm, Ðức Phật có dạy: "Tin tưởng Như Lai mà không hiểu Như Lai,
tức là phỉ báng Như Lai vậy".
- Nghĩa là nếu
chúng ta đến với Như Lai, tức là đến với Ðức Phật chỉ bằng niềm
tin, chỉ biết tin tưởng Ðức Phật như là một vị giáo chủ đầy quyền
năng, có thể ban phước như lời cầu nguyện của chúng ta, có thể ban
cho chúng ta và gia đình một cuộc sống bình an, như ý, mà không
chịu học hiểu giáo lý, tìm hiểu những lời dạy của Ðức Phật, để áp
dụng vào đời sống hằng ngày, tức là chúng ta phỉ báng Ðức Phật.
Tại sao vậy?
- Bởi vì, nếu cầu
nguyện, khấn vái, van xin, nhưng không toại nguyện, không công
hiệu, không hữu hiệu, không hiệu quả, không kết quả như ý hoặc
không có được đáp ứng gì cả, chúng ta sẽ nghĩ là Ðức Phật không
linh thiêng, niềm tin không còn, dễ theo ngoại đạo.
- Chắc chắn ai ai
cũng biết: cuộc đời của các vị giáo chủ của các tôn giáo trên thế
gian này đều không có bình an một cách tuyệt đối, theo cái nhìn
tầm thường của chúng ta, các vị vẫn gặp chuyện bất trắc, vẫn bị
người khác nhục mạ, vu cáo, ám sát, bỏ tù, xử án, kết tội, thậm
chí giết chết thê thảm như một tội phạm hình sự! Như vậy, các vị
giúp chúng ta được như ý, như lời cầu nguyện, khấn vái, van xin
của chúng ta bằng cách nào? Cuộc đời của Ðức Phật cũng gặp những
chuyện như vậy, cũng trải qua các giai đoạn của cuộc sống như mọi
người khác trên thế gian: sanh, già, bệnh, chết.
- Như vậy, Ðức
Phật cứu khổ thế gian này bằng cách nào? Bằng hình thức ban phước
theo lời cầu nguyện, van xin chăng? Bằng cách cứu độ cho những ai
thờ phượng chăng? Bằng cách cứu độ cho những ai tụng vài thời
kinh, niệm vài câu A Di Ðà Phật, hay đọc vài bài chú chăng?
- Trong Kinh Pháp
Cú, Ðức Phật có dạy:
- "Hãy tự thắp đuốc lên mà đi.
Thắp lên với Chánh Pháp".
- Nghĩa là tất cả
chúng ta hãy tìm hiểu giáo lý của Ðạo Phật một cách tường tận, rồi
áp dụng vào đời sống hằng ngày. Hãy đem ngọn đuốc trí tuệ của mình
mồi với ngọn đuốc Chánh Pháp, để được giác ngộ và giải thoát, để
được an lạc và hạnh phúc ngay hiện đời. Ðức Phật Thích Ca đã trải
qua những tháng năm tu tập và giác ngộ ngay dưới cội cây bồ đề,
trên thế gian này. Sau đó, Ðức Phật sống trọn cuộc đời, trong cảnh
giới an lạc và hạnh phúc, tự tại và giải thoát, dù cho cuộc đời
cũng gặp những sóng gió khó khăn, nhưng Ðức Phật không cảm nhận
phiền não và khổ đau như tất cả chúng sanh khác.
- Vì tâm đại từ
đại bi, thương tất cả chúng sanh trầm luân trong sanh tử, Ðức Phật
đem Chánh Pháp, là những điều Ngài đã giác ngộ được, giảng dạy
trong nửa thế kỷ, ví như để lại những bản đồ cho tất cả chúng sanh
biết con đường, biết phương pháp tu tập. Bất cứ ai áp dụng đúng
đắn, kiên trì, đều được giải thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi.
- Toàn bộ
Chánh Pháp của Ðạo Phật nhằm mục đích chỉ rõ cái khổ của cuộc đời,
nguyên nhân gây ra đau khổ, tiếp theo chỉ rõ cảnh giới niết bàn
tịch diệt và con đường dẫn chúng ta đến cảnh giới an lạc đó.
- Trong kinh
sách gọi đó là "Tứ Diệu Ðế", gồm có: khổ, tập, diệt, đạo.
- Ðó chính là
cách Ðức Phật cứu độ chúng sanh, ban phước cho chúng sanh vậy.
- Do đó, chúng ta
hãy tìm hiểu: Tứ Diệu Ðế là gì? Ðức Phật đã giác ngộ điều gì và
giải thoát như thế nào?
- * * *
- 1) Ðiều trước
tiên Ðức Phật giác ngộ: cuộc đời là khổ. Thực vậy, chúng ta ai ai
cũng đều công nhận cuộc đời "khổ nhiều vui ít". Những niềm vui
trong cuộc sống thực là hiếm hoi. Trái lại, những điều phiền não,
đau khổ, bất trắc, bất như ý, bất toại nguyện thì quá nhiều. Ngoài
cái khổ vì thiếu ăn, thiếu mặc của những người nghèo đói do thiếu
phước báo, cái khổ đến với mọi người trên khắp thế gian, không
phân biệt già, trẻ, lớn, bé, nam phụ lão ấu, địa vị, học thức,
giàu nghèo, địa phương, sắc tộc, tôn giáo, vua chúa hay thường
dân, đời này hay đời trước. Cái khổ chung của tất cả mọi người
trên thế gian đó là những gì?
- Ðó chính là
chúng ta khổ vì: sanh, già, bệnh, chết. Chúng ta khổ vì sanh ra
trong cuộc đời dẫy đầy những chuyện bất như ý, khó khăn, đấu
tranh, sóng gió và gian nan, vì tuổi già sức yếu, đi đứng khó
khăn, vì bệnh hoạn đau đớn triền miên, vì cái chết đến bất ngờ,
không như ý. Chúng ta muốn được luôn luôn bình an, trẻ mãi không
già, khỏe mãi không đau, sống mãi không chết, nhưng nào có ai được
như vậy đâu?
- Chẳng những
chúng ta khổ vì sanh, già, bệnh, chết, chúng ta còn khổ vì xa lìa
người thân thương, vì gặp những người không ưa, những kẻ oán thù,
vì cầu nguyện, van xin nhiều quá, mà chẳng được gì, vì ngũ ấm xí
thạnh, nghĩa là cái thân xác ngày một to béo nặng nề một cách khổ
sở, và quan trọng hơn, chúng ta khổ vì cái vọng tâm điên đảo đảo
điên, cái vọng tưởng lăng xăng lộn xộn, thay đổi từng giây từng
phút, không lúc nào ngừng nghỉ, ví như con vượn chuyền cây, như
con ngựa chạy rong, như con trâu giẫm đạp lúa mạ của người.
- Cái tâm ý
điên đảo đảo điên, cái vọng tưởng lăng xăng lộn xộn, tạo tội tạo
nghiệp này, là nguyên nhân chính dẫn chúng ta vào vòng sanh tử
luân hồi.
- Làm sao hàng phục và an trụ
được cái tâm ý này chính là trọng tâm của đạo Phật.
- Trong kinh A
Hàm, Ðức Phật có dạy:
- "Cuộc đời là biển khổ.
Nước mắt chúng sanh nhiều hơn bốn biển lớn".
- Cuộc đời đầy
dẫy những chuyện khổ đau, chúng sanh chìm đắm trong biển khổ,
khiến cho nước mắt trong nhiều đời nhiều kiếp có thể so sánh với
nước bốn biển lớn. Con người mãi mê đấu tranh, giành giựt, hận
thù, bon chen, hơn thua trong cuộc sống, do lòng tham lam, sân
hận, si mê, mà quên đi những khổ đau, cho đến khi nhắm mắt lìa
đời, cũng chưa giác ngộ được. Ðó là nguyên nhân dẫn dắt chúng ta
vào vòng sanh tử luân hồi.
- * * *
- 2) Ðạo Phật
nhận định cuộc đời là biển khổ, nhưng không đưa tới quan niệm tiêu
cực, bi quan, yếm thế, chán đời. Ðức Phật dạy chúng ta nhận định
như vậy để thức tỉnh, để tìm phương cách giải thoát, không còn
chìm đắm trong những cơn vui giả tạm, ngắn ngủi, những danh vọng,
quyền tước, vật chất của thế gian. Cũng như một vị thầy thuốc chẩn
bệnh, định bệnh để tìm ra nguyên nhân gây bệnh và tìm cách chữa
trị. Cho nên, ngay sau đó, Ðức Phật chỉ rõ nguyên nhân gây ra khổ
đau.
- Trong Kinh Viên
Giác, Ðức Phật có dạy:
- "Con người
vì vô minh cho nên có hai thứ chấp: chấp ngã và chấp pháp.
Ðó là hai nguyên nhân chính gây ra phiền não và khổ đau của cuộc
đời".
- Khi nào hiểu
được một cách rõ ràng và phá trừ được hai nguyên nhân chính gây ra
khổ đau, chúng ta sẽ tìm được an lạc hạnh phúc thực sự trong cuộc
sống hiện tại.
- Thế nào là
"chấp ngã"? Chấp ngã có hai phần: vật chất và tinh thần. Về
vật chất, chúng ta chấp cái thân xác tứ đại mấy chục ký lô này là
"mình". Về tinh thần, chúng ta chấp cái tâm suy nghĩ, tính toán,
suy lường là chính "mình". Nếu có người hỏi: chúng ta là ai? Chúng
ta liền chỉ vào thân mình và trả lời: Tôi đây nè! Thực ra, cái xác
thân tứ đại giả tạm này đâu phải là "mình". Cái xác thân tứ đại
bao gồm những chất: đất, nước, gió, lửa, tụ hội với nhau trong một
thời gian, từ khi cha mẹ sinh ra, cho đến khi chúng ta thở ra, mà
không muốn hít vào nữa, thì ô hô tử vong! Thời gian đó ít năm,
nhiều năm, ngắn dài tùy theo nghiệp duyên của mỗi người. Người đời
thường gọi đó là: số mạng, định mạng, hay số mệnh, định mệnh. Có
người được vài chục năm. Có người chỉ trong hơi thở! Lúc đó, hơi
thở trở về với gió, hơi ấm trở về với vũ trụ, các chất lỏng như
máu, mủ, nước tiểu trở về với nước, các chất cứng như thịt, xương
trở về với đất. Cái gì là "mình" đây? Còn lại chỉ là cái xác không
hồn, cái tử thi bất động. Cái xác thân tứ đại của chúng ta tan rã,
trở về với tứ đại của vũ trụ. Nói nôm na là: cát bụi trở về với
cát bụi.
- Thậm chí, ngay
khi còn sống hiện nay, nếu chúng ta không vay mượn tứ đại bên
ngoài để bồi bổ từng ngày, từng giờ, từng phút, từng giây, thì
chúng ta đâu tồn tại được. Luôn luôn mượn không khí thở ra hít
vào, lát lát mượn ly nước, ngày ngày mượn vài ba chén cơm. Cái
thân tứ đại muốn khỏe thì khỏe, muốn đau yếu thì đau yếu, chúng ta
không thể làm chủ nó như ý muốn của chúng ta được. Vậy mà chúng ta
cứ chấp chặt cái thân xác tứ đại là "mình", chúng ta dành trọn
cuộc đời để yêu mến, cung phụng, săn sóc nó, thì quả là chúng ta
quá mê muội, đang sống trong mộng tưởng, trong cơn mê, mà không
biết đó thôi.
- Chúng ta đã
hiểu cái thân xác tứ đại không phải là mình, vậy còn cái tâm suy
nghĩ, tính toán, suy lường có phải là mình chăng? Thực ra, cái tâm
đó cũng không phải là "mình". Tại sao vậy? Bởi vì, có lúc chúng ta
suy nghĩ rất hiền lành, thánh thiện, muốn giúp đỡ mọi người, muốn
bố thí cúng dường, muốn trở thành người hoàn toàn tốt. Nhưng cũng
có nhiều lúc, chúng ta tính toán, suy lường, muốn hơn người khác
cho thỏa lòng ganh tị, đố kỵ, muốn thấy người khác suy sụp, gặp
nạn cho thỏa lòng hơn thua, ganh ghét, tị hiềm. Vậy thử hỏi chúng
ta là người thiện hay bất thiện? Chúng ta là một hay là hai?
- Dù là khởi tâm
thiện, hay khởi tâm bất thiện, chúng ta cũng khổ đau. Lúc tâm
thiện khởi lên, muốn làm người tốt, muốn giúp đỡ người khác mà
không được, thí dụ chúng ta muốn cứu người thân bị bệnh nan y,
thầy thuốc đã bó tay, chúng ta sẽ đau khổ. Lúc tâm bất thiện khởi
lên, muốn thấy người khác khổ đau, nguy nan, khốn đốn, mà họ vẫn
cứ bình an, chúng ta sẽ đau khổ. Ðàng nào chúng ta cũng đau khổ
cả! Lòng tự ái cao là một dạng của tâm chấp ngã. Do tâm tham ái,
chấp ngã một cách mù quáng, chúng ta đã, đang và sẽ tạo tội tạo
nghiệp không biết bao nhiêu trong nhiều đời nhiều kiếp. Ðó là
nguyên nhân dẫn dắt chúng ta vào vòng sanh tử luân hồi.
- Thế nào là
"chấp pháp"? Chấp pháp cũng có hai phần: vật chất và tinh
thần. Về vật chất, chúng ta chấp mọi thứ có hình tướng như cái nhà
này, cái xe này là của mình. Về tinh thần, chúng ta chấp mọi thứ,
mọi việc, mình làm, mình nói, mình nghĩ, cái gì của mình cũng là
đúng, là nhất.
- Về phương diện
vật chất, chúng ta đang sống trong mộng tưởng, cho là cuộc đời này
sẽ vĩnh viễn trường tồn, cho là những người thân sẽ mãi mãi ở bên
mình, cho là những của cải vật chất như nhà cửa, xe cộ, vàng bạc,
cơ nghiệp luôn luôn thuộc về mình. Cho nên, nếu người thân có ra
đi, hoặc có mệnh hệ nào, nếu của cải vật chất có bị mất mát hư
hao, thì chúng ta sẽ đau khổ!
- Về phương diện
tinh thần, chúng ta thường chấp chặt ý kiến của mình là đúng, việc
mình làm là đúng, ai có ý kiến khác, ai làm khác là không đúng, là
sai. Chúng ta thường cho là người khác lúc nào cũng phải suy nghĩ
giống như mình, nên khi có người phát biểu khác đi, chúng ta khó
chấp nhận được. Chúng ta không thấy những lỗi lầm, sai trái của
mình, cho nên đau khổ, bực bội, vì chỉ thấy lỗi lầm của người.
- Thí dụ trong
gia đình, nếu người cha không nhận thấy lỗi của mình, chỉ biết la
mắng con cái vì chúng không theo ý muốn của mình, bất chấp ý kiến
của chúng, thì người cha đó chắc chắn sẽ phiền não đau khổ và làm
cho mọi người trong gia đình cũng phiền não đau khổ theo. Chúng ta
nên biết hai thế hệ khác nhau thì ý kiến, sự suy nghĩ, cảm giác
đều khác nhau. Hơn nữa, chúng ta đừng chấp chặt các quan niệm xa
xưa, cổ lổ, lạc hậu, không còn hợp thời nữa. Cứ chấp chặt như vậy
chỉ đưa đến phiền não và khổ đau mà thôi. Chuyện vợ chồng cũng
vậy. Chuyện cộng đồng cũng vậy. Chuyện quốc gia xã hội, cho đến
chuyện thế giới, cũng không khác, chỉ vậy thôi. Khi bất cứ chuyện
gì xảy ra, người nào, bên nào cũng có một phần lỗi, không nhiều
thì ít, không bên nào vẹn toàn, không người nào toàn vẹn. Hiểu
được như vậy, làm được như vậy, chúng ta sẽ bớt khổ đau nhiều lắm.
- Trong cuộc sống
gia đình cũng như ngoài xã hội, điều quan trọng là chúng ta phải
biết quên mình vì người, thì mới có an lạc và hạnh phúc. Còn nếu
tâm ý quá ích kỷ, chỉ biết có mình, gia đình mình, đoàn thể mình,
tôn giáo mình, cái gì cũng vì mình hết trơn, thì chỉ có phiền não
và khổ đau mà thôi. Muốn có một gia đình hạnh phúc, người cha phải
biết hy sinh, lo lắng mọi nhu cầu vật chất lẫn tinh thần cho cả
gia đình, người mẹ cũng phải biết hy sinh những vui thích cá nhân,
hòa hợp với nhịp sống chung của gia đình, con cái phải biết nhớ ơn
sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ, phải biết nghe lời dạy dỗ, phải
biết báo hiếu.
- Trong một quốc
gia có hai, ba, hoặc nhiều phe nhóm đấu tranh, kình chống nhau
kịch liệt, phe nào cũng muốn tiêu diệt phe kia, phe nào cũng cho
mình là đúng nhứt, là yêu nước nhứt, thì quốc gia đó khó có thể
tiến bộ được, dân chúng không thể sống trong an lạc và hạnh phúc
được. Tại sao vậy? Bởi vì phe cầm quyền làm được bất cứ việc gì,
cũng bị phe chống đối phá hoại, ngăn trở, phỉ báng, xuyên tạc.
Chúng ta thường tự kỷ ám thị, không chịu nhìn nhận sự thật, chỉ vì
sự thật không theo như ý của mình, của gia đình mình, của phe nhóm
mình, của tôn giáo mình.
- Trên thế gian
này, người chủ muốn công nhân viên làm việc nhiều, nhưng phát
lương ít; ngược lại, công nhân viên muốn làm việc ít, nhưng lãnh
lương nhiều. Thế là đấu tranh và đau khổ! Trên thế gian này, người
ta thường nhớ rất kỹ đã làm ơn, giúp đỡ cho bất cứ ai, bất cứ ở
đâu, bất cứ lúc nào; nhưng lại không muốn nhớ bất cứ ai đã làm ơn,
giúp đỡ mình. Trên thế gian này, trâu cột ghét trâu ăn, được làm
vua thua làm giặc, có ít xích ra nhiều, chuyện bé xé ra to, chuyện
có nói không, chuyện không nói có, lấy oán báo ân, ăn cháo đá bát,
được chim bẻ ná, được cá quăng nôm, khen mình khinh người, là
những "chuyện như thị", tức là những sự thực đương nhiên, không
cần ngạc nhiên, nhiều không thể kể hết được. Hiểu được như thế và
đừng làm như thế, chúng ta sẽ mỉm cười và bớt đau khổ nhiều lắm!
- Chúng ta thường
mơ ước, cầu nguyện cho cuộc đời được bình an, không sóng gió.
Nhưng làm sao có thể như vậy được? Thực ra, cuộc đời cũng giống
như mặt biển cả, sóng gió triền miên, khi nhiều sóng khi ít sóng,
ít khi sóng lặng gió yên, cơn sóng này qua đi, thì cơn sóng khác
lại đến. Việc này chưa xong, thì việc khác lại xảy đến. Ðiều quan
trọng hơn cả là chúng ta cần nên biết áp dụng Chánh Pháp, để ứng
xử mọi sự mọi việc, với tâm thiền định, bình tĩnh, thản nhiên,
chấp nhận, thì chúng ta sẽ giảm bớt khổ đau. Do tâm tham ái, chấp
pháp một cách mù quáng, chúng ta đã, đang và sẽ tạo tội tạo nghiệp
không biết bao nhiêu, trong nhiều đời nhiều kiếp. Ðó là nguyên
nhân dẫn dắt chúng ta vào vòng sanh tử luân hồi.
- * * *
- 3) Sau khi chỉ
rõ nguyên nhân của sự khổ đau, của sanh tử luân hồi, Ðức Phật chỉ
bày cảnh giới niết bàn, thường hằng, tịch diệt, bình yên, thanh
tịnh, an lạc và hạnh phúc cho những ai biết áp dụng Chánh Pháp vào
đời sống hằng ngày.
- Trong Kinh Ðại Bát Niết Bàn, Ðức
Phật có dạy:
- Chư hành vô thường.
Thị sanh diệt pháp.
Sanh diệt diệt dĩ.
Tịch diệt vi lạc.
- Nghĩa là mọi sự
mọi việc trên đời đều vô thường, không có gì tồn tại vĩnh viễn,
gọi là pháp sanh diệt. Tất cả mọi sự mọi việc sanh ra, rồi cũng sẽ
diệt đi, không có gì là vĩnh cửu, chuyện vui có tới rồi cũng đi,
chuyện buồn có đến rồi cũng qua, thời gian sẽ xóa tan tất cả mọi
sự mọi việc. Chuyện vui hay buồn đều làm tâm của chúng ta loạn
động và bất an. Tâm của chúng ta dù khởi niệm từ bi, hay khởi niệm
sân hận, rồi cũng lặng đi, tất cả đều là các tâm niệm sanh diệt.
Chỉ có khi nào các tâm niệm sanh diệt như vậy diệt đi rồi, lặng
mất rồi, không còn nữa, chúng ta sẽ được sống trong cảnh giới an
lạc hạnh phúc, cảnh giới tịch diệt vi diệu.
- * Trong Kinh A
Di Ðà, Ðức Phật dạy: đó là cảnh giới của người đạt được "nhất tâm
bất loạn".
- * Trong Kinh
Thủ Lăng Nghiêm, Ðức Phật dạy: đó là cảnh giới của người có tâm
"bất tùy phân biệt", của người không còn tranh chấp thị phi, phải
quấy, hơn thua, đúng sai.
- * Trong Kinh
Tịnh Danh, hay Kinh Duy Ma Cật, Ðức Phật dạy: đó là cảnh giới của
người đạt được "pháp môn bất nhị", của người không còn kẹt trong
vòng đối đãi nhị biên, không còn thành kiến, định kiến, thiên
kiến, biên kiến, tà kiến, ác kiến, đoạn kiến, thường kiến.
- * Trong Kinh
Kim Cang, Ðức Phật dạy: đó là cảnh giới của người đạt được "thân
kim cang bất hoại", của người không còn kẹt vì các hình tướng giả
tạm bên ngoài, của người đạt được "thực tướng".
- * Trong Bát Nhã
Tâm Kinh, Ðức Phật dạy: đó là cảnh giới của người đạt được "chư
pháp bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm",
hay là cảnh giới của người "hành thâm bát nhã và chiếu kiến ngũ
uẩn giai không".
- * Trong Kinh
Thủ Lăng Nghiêm, Ðức Phật có dạy: "Sanh diệt ký diệt, tịch diệt
hiện tiền". Nghĩa là khi nào tâm sanh diệt tiêu mất, không còn
nữa, thì cảnh giới tịch diệt, tức là cảnh giới niết bàn hiện ra
trước mắt. Cũng như khi nào mây đen tan mất, thì trăng sáng hiện
ra trước mắt. Cũng như khi nào phiền não và khổ đau hết, thì an
lạc và hạnh phúc hiện tiền. Nói một cách khác: "vọng tâm tiêu hết,
chân tâm hiện tiền". Thực là đơn giản, dễ hiểu như vậy.
- Cảnh giới
tịch diệt an lạc đó không dành riêng cho bất cứ ai, không thuộc
bất cứ tôn giáo nào, không thuộc bất cứ sắc dân nào, không thuộc
bất cứ thời đại nào. Bất cứ ai dẹp được một phần các tâm niệm sanh
diệt, thì người đó sống được một phần trong cảnh giới an lạc tịch
diệt.
- Cảnh giới này
không thể nghĩ bàn, không thể dùng lời lẽ của thế gian để diễn tả
trọn vẹn được, ai thực hiện được, sống được trong cảnh giới đó,
thì tự người đó biết, cũng như người uống nước, nóng lạnh tự biết.
Cảnh giới này còn gọi là "đạo".
- Sách có câu:
"đạo bất khả ngôn thuyết". Nghĩa là không thể dùng ngôn ngữ của
thế gian này để diễn tả, để chỉ bày, để nói về "đạo". Sách cũng có
câu: "ngữ ngôn đạo đoạn". Nghĩa là khi nói lên bằng ngôn ngữ thế
gian thì đã mất "đạo" rồi.
- * * *
- 4) Ðến đây, Ðức
Phật chỉ dạy những phương pháp, những pháp môn để đạt được
"đạo", tức là đạt được cảnh giới niết bàn tịch diệt đó. Vấn đề
hiện giờ là: làm sao để các tâm niệm sanh diệt đó không còn khởi
lên nữa, hoặc các tâm niệm sanh diệt đó có khởi lên, làm sao cho
nó lắng xuống, tiêu mất? Nói cách khác: Làm sao hàng phục và an
trụ được cái tâm ý này chính là trọng tâm của đạo Phật.
- Toàn bộ giáo
pháp của đạo Phật, chia ra 37 phẩm, gồm có: tứ niệm xứ, tứ như ý
túc, tứ chính cần, ngũ căn, ngũ lực, thất bồ đề phần và bát chánh
đạo. Chánh Pháp gồm 37 phẩm này giúp chúng ta đạt được "đạo" bằng
trí tuệ, bằng sự quán chiếu, nhận thức được chân lý chứ không phải
chỉ bằng niềm tin đơn giản mà thôi.
- * * *
- * "Tứ Niệm Xứ"
là bốn chỗ cần quán niệm luôn luôn. Quán thân bất tịnh, nghĩa là
luôn luôn nhớ rằng thân xác tứ đại này chứa toàn những thứ nhơ
nhớp, những thứ bất tịnh bên trong. Quán thọ thị khổ, nghĩa là
luôn luôn nhớ rằng thọ nhận nhiều cảm giác, nhiều tự ái, ai nói gì
cũng chấp chặt, thì tức nhiên là khổ. Quán tâm vô thường, nghĩa là
luôn luôn nhớ rằng tâm ý con người đổi thay vô chừng, không cố
định, nay vầy mai khác, chớ có chấp chặt làm chi cho khổ! Quán
pháp vô ngã, nghĩa là luôn luôn nhớ rằng mọi sự mọi việc trên thế
gian đều không nhứt định, không cố định. Thí dụ những quan niệm
chồng chúa vợ tôi, trọng nam khinh nữ, chỉ đúng ở thời đại nào đó
mà thôi, không có thực thể cố định, không đúng với mọi thời gian,
không đúng với mọi không gian.
- * "Tứ chính
cần" là bốn việc luôn luôn chuyên cần, chăm chỉ thực hành một cách
chân chính. Ðối với việc bất thiện đã sinh, phải trừ dứt hẳn, đối
với việc bất thiện chưa sinh, đừng cho sinh ra, đối với việc thiện
chưa sinh, làm cho sinh ra, đối với việc thiện đã sinh, làm cho
tăng trưởng.
- * "Tứ như ý
túc" là bốn pháp thiền định, hay là bốn phương tiện đưa chúng ta
đến chỗ như ý muốn, thành tựu viên mãn. Ðó là: dục, cần, tâm,
quán. Nghĩa là: chúng ta phải có lòng thiết tha mong muốn, tìm cầu
sự giải thoát, chúng ta phải chuyên cần, tinh tấn học hiểu giáo
lý, chúng ta phải khắc chế tâm niệm đến chỗ bất loạn, chúng ta
phải biết cách quán chiếu để giác ngộ chân lý, thấu hiểu lẽ thực.
- * "Ngũ căn" là
năm pháp căn bản sinh ra các việc thiện. Ðó là: tín, tấn, niệm,
định, tuệ. Nghĩa là: chúng ta phải có niềm tin sâu xa, vững chắc
nơi Chánh Pháp vô thượng, tinh tấn tu tâm dưỡng tánh không hề biết
mệt mỏi, luôn luôn có tâm niệm hiền thiện, từ bi hỷ xả, luôn luôn
giữ sự bình thản, tỉnh thức, thiền định, bất loạn và luôn luôn
dùng trí tuệ để suy xét mọi sự mọi việc, không tin tưởng bừa bãi,
không mê tín dị đoan.
- * "Ngũ lực" là
năm sức mạnh do năm pháp căn bản nói trên thành tựu được. Nghĩa là
do tín lực chúng ta có niềm tin kiên cố, mạnh mẽ nơi Chánh Pháp,
do tấn lực chúng ta có sức mạnh tinh thần bất thối chuyển, san
bằng những trở ngại trên đường tu tập, do niệm lực chúng ta luôn
luôn ghi nhớ những thiện pháp, do định lực chúng ta có được sự tập
trung tư tưởng, và do tuệ lực chúng ta giác ngộ được con đường
giải thoát khỏi sanh tử luân hồi.
- * "Thất bồ đề
phần", còn gọi là "thất giác chi", là bảy phần hiểu biết, bảy điều
dẫn đến chỗ giác ngộ. Ðó là: trạch pháp, tinh tấn, hoan hỷ, khinh
an, niệm, định, xã. Trạch pháp là dùng trí tuệ chọn lựa sự thực
hư, chơn giả của tất cả các pháp. Tinh tấn là tâm mạnh mẽ dứt trừ
tất cả các nghiệp bất thiện, thực hành tất cả các nghiệp thiện.
Hoan hỷ là tâm luôn luôn vui vẻ với mọi người, với mọi việc trên
thế gian, không phân biệt gì cả, để tất cả chúng sanh đều hỷ kiến.
Khinh an là tâm nhẹ nhàng, an lạc khi dứt trừ các phiền não, các
cố chấp nặng nề, thoát ra ngoài vòng tục lụy của thế gian. Niệm là
tâm luôn luôn nhớ nghĩ đến chư Phật, đến tất cả chúng sanh, vì tâm
từ bi hỷ xả mà hành trì giới luật, làm các việc phước thiện. Ðịnh
là tâm luôn luôn bình thản, không tán loạn, an nhiên, tự tại. Xã
là tâm buông bỏ tất cả những hệ lụy của cuộc đời, tất cả những
thành kiến, định kiến, thiên kiến, biên kiến, tà kiến, ác kiến,
thường kiến, đoạn kiến, không chấp chặt những tư tưởng chật hẹp,
ích kỷ.
- * "Bát chánh
đạo" là con đường gồm tám điều chân chánh, dẫn đến mục đích cứu
kính của đạo Phật: giác ngộ và giải thoát. Ðó là: chánh kiến,
chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn,
chánh niệm, chánh định.
- * * *
- 1) Chánh
kiến là sự hiểu biết chân chánh, chẳng hạn như hiểu biết về lý
nhân quả, lý nhân duyên, lý duyên khởi, trùng trùng duyên khởi. Sự
hiểu biết này không bị chi phối bởi thành kiến, định kiến, tà
kiến, ác kiến, thiên kiến, biên kiến, đoạn kiến, thường kiến.
Người có chánh kiến là người thấy mọi sự mọi việc "đúng như thực".
- Trong Kinh A
Hàm, Ðức Phật có dạy:
- "Hãy đến với đạo Phật để thấy
đúng như thực,
chứ không phải chỉ đến để mà tin!".
- Thấy "đúng như
thực" nghĩa là sao? Nghĩa là:
- * Mọi sự
việc đều có nguyên nhân. Thí dụ khi thấy một cái cây mọc lên,
chúng ta biết ngay là do hạt nhân nẩy mầm, không phải tự nhiên mà
có. Khi được bình an, sung sướng, chúng ta hiểu là đang hưởng
phước. Khi gặp tai nạn, trắc trở, chúng ta hiểu là đang đền trả
quả báo. Tất cả việc phước hay họa là quả của nhân, do chúng ta
gieo trước đây, đời trước hay đời này, chứ không do ông trời nào
ban phước giáng họa bừa bải cả. Ðó là lý nhân quả.
- * Mọi sự
việc do nhân duyên sinh và cũng do nhân duyên diệt. Một cuốn
sách do các nhân duyên có người viết, có giấy mực, có thợ in ấn,
có thợ đóng bìa mà hình thành. Ðến khi do các nhân duyên bị mối
mọt ăn, bị lửa đốt, bị thấm nước, cuốn sách đó sẽ bị hủy hoại.
Cuốn sách không phải tự nhiên mà có, không phải tự nhiên mà mất!
Ðó là lý nhân duyên.
- * Mọi sự mọi
việc không phải tự nhiên mà phát khởi. Có người hỏi thì mới có
người đáp. Có người ăn quà mới có người bán quà. Có người bán quà
mới có người ăn quà. Có chửi mắng người mới bị ăn bạt tai. Có chơi
xấu người mới bị người chơi xấu. Có gió mới có sóng. Có sinh sự
thì sự mới sinh. Có chuyện này xảy ra, mới có chuyện kia xảy ra,
rồi có chuyện nọ xảy ra tiếp theo, cứ như thế liên tục không bao
giờ dứt. Ðó là lý duyên khởi, trùng trùng duyên khởi.
- 2) Chánh tư
duy là sự suy nghĩ chân chánh, theo đúng lẽ thực, không lợi
mình hại người. Sự suy nghĩ này không bị chi phối bởi thành kiến,
định kiến, thiên kiến, biên kiến, tà kiến, ác kiến, đoạn kiến,
thường kiến.
- Trong Kinh A
Hàm, Ðức Phật có dạy:
- "Không nên
tin ngay tất cả những gì người xưa nói, tất cả những gì người có
thế lực đạo cũng như đời nói, tất cả những gì người bề trên nói,
tất cả những gì có nhiều người tin theo, có ghi trong sách vở.
- Chỉ nên tin
những gì có thể kiểm nghiệm được, đúng với chân lý, đúng với lẽ
thực, thông qua trí tuệ sáng suốt, thấy có ích lợi cho bản thân và
cho mọi người".
- Bởi vậy, Ðức
Phật dạy ba môn học phát sinh trí tuệ, đó là: "Văn-Tư-Tu". Nghĩa
là chúng ta hãy nghe giảng, hãy đọc sách, hãy nghiên tầm, hãy học
hỏi, rồi suy nghĩ, tư duy, quán chiếu cho chính chắn, thấu đáo,
trước khi thực hành, tu tập theo.
- 3) Chánh
ngữ là lời nói chân chánh, không lợi mình hại người, không
thêu dệt, gây hiềm khích giữa các cá nhân hay tập thể, không xu
nịnh, không trái lẽ thực, không thiên vị. Lời nói này dễ nghe, đem
lại niềm vui cho kẻ khác, không bị chi phối bởi ác kiến, thành
kiến, biên kiến, đoạn kiến, thường kiến. Người có chánh ngữ là
người không nói những lời khiến kẻ khác đau khổ, phải xức dầu cù
là, phải uống thuốc nhức đầu, dù cho họ là người thân hay kẻ thù
hoặc bất cứ ai chăng nữa! Người có chánh ngữ là người biết giữ chữ
tín, được lòng tin yêu của mọi người. Khi cần nói, chỉ nói pháp vô
sanh, không nói pháp sanh diệt, thị phi.
- 4) Chánh
nghiệp là hành động tạo nghiệp chân chánh, không mưu cầu lợi
mình hại người. Dù cho người có hành động không tốt đối với mình,
chúng ta cũng không có hành động trả đủa, vì làm như vậy chúng ta
đâu có khác gì hơn người. Người ta viết báo chửi bới, vu cáo, bôi
lọ, nhục mạ, phỉ báng. Chúng ta biết đó là hành động không chân
chánh, thì chúng ta đừng làm y như vậy đối với người.
- Trong Kinh A
Hàm, Ðức Phật có dạy:
- "Tam nghiệp hằng thanh tịnh.
Ðồng Phật vãng tây phương".
- Nghĩa là giữ
gìn ba nghiệp thân khẩu ý chân chánh, thanh tịnh, thì chúng ta
theo chư Phật về cảnh giới tây phương cực lạc mà an hưởng.
- 5) Chánh
mạng là mạng sống, cuộc sống chân chánh. Nghĩa là chúng ta chỉ
làm những nghề chân chánh, không xâm phạm mạng người, tổn hại mạng
vật để sinh sống. Người có chánh mạng là người sống cuộc đời có ý
nghĩa, lợi mình lợi người, không lường gạt ai, không ăn không ngồi
rồi, không sống bám vào kẻ khác, không sống bám vào xã hội, luôn
luôn có tâm niệm phục vụ chúng sanh là cúng dường chư Phật.
- 6) Chánh
tinh tấn là sự siêng năng, chuyên cần, chăm chỉ chân chánh,
tức là làm tất cả những việc thiện và tránh tất cả việc bất thiện,
luôn luôn tu tâm dưỡng tánh, không lúc nào ngơi nghỉ, mệt mõi,
buông lung hay thối tâm.
- Trong Kinh Ðại
Bát Niết Bàn, Ðức Phật có dạy:
- "Chư ác mạc tác.
Chúng thiện phụng hành.
Tự tịnh kỳ ý.
Thị chư Phật giáo".
- Trong kinh
sách, tượng trưng cho sự siêng năng, tinh tấn một cách dũng mãnh,
vượt ngoài ý chí tầm thường của thế gian, đó là Bồ Tát Ðại Thế
Chí.
- 7) Chánh
niệm là luôn luôn khắc chế tâm niệm bên trong, bên ngoài luôn
luôn tránh sự đấu tranh, cãi vã. Chư Tổ có dạy:
- "Nội cần khắc niệm chi công.
Ngoại hoằng bất tranh chi đức".
- Nghĩa là con
người có công phu tu tập, cố gắng dẹp bỏ tạp niệm trong tâm, con
người có đức độ bên ngoài luôn luôn từ tốn, lễ độ, nhã nhặn, hiền
hòa. Người có chánh niệm là người luôn luôn biết rõ ràng mình đang
làm gì, đang nói gì, đang nghĩ gì, luôn luôn sống trong tỉnh thức,
nhận biết ngay mỗi khi vọng niệm dấy khởi và không theo, luôn luôn
nhớ và sống theo lời Phật dạy, luôn luôn sống với Chân Tâm Phật
Tánh, tức là với Bản Tâm Thanh Tịnh.
- 8) Chánh
định là sự bình tỉnh sáng suốt, do tam nghiệp thanh tịnh, do
quán tâm từ bi để dẹp trừ lòng sân hận, mở rộng tình thương, do
quán thân bất tịnh để dẹp trừ lòng tham ái, do quán lý nhân duyên
để dẹp trừ lòng si mê, ngã chấp và pháp chấp, do quán giới phân
biệt để khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần, không khởi sáu thức,
không sanh vọng niệm và do quán sổ tức, đếm hơi thở ra thở vào, để
dẹp trừ tâm loạn động, tâm lăng xăng lộn xộn.
- Người có chánh
định do giữ gìn giới luật, sẽ phát sanh trí tuệ bát nhã, đưa đến
giác ngộ và giải thoát. Ðó là tam vô lậu học "Giới-Ðịnh-Tuệ".
Ngoài ra, chúng ta cũng đã biết dù khởi niệm thiện hay bất thiện
cũng đều dẫn đến khổ đau, bởi vì vẫn còn kẹt hai bên, tức là nhị
biên, người đời gọi là hai thái cực. Cho nên, Ðức Phật dạy "Pháp
Môn Bất Nhị", giúp chúng ta lặng hết những tâm niệm dù thiện hay
bất thiện, để không còn phiền não và khổ đau, để được an lạc và
hạnh phúc, để được về cõi tây phương cực lạc, để được giác ngộ và
giải thoát.
- * * *
- Tóm lại, chúng
ta biết những điều Ðức Phật chứng ngộ và giảng dạy, được gọi là
Chánh Pháp ghi trong các kinh điển, ví như các bản đồ giúp nhân
loại biết phương pháp tu tập, để được giác ngộ và giải thoát, để
được cuộc sống an lạc và hạnh phúc hiện đời. Chánh Pháp không dành
riêng cho bất cứ ai, dù là Phật Tử hay không, dù là tu sĩ xuất gia
hay cư sĩ tại gia. Mặc dù có người thờ phượng Ðức Phật, tin tưởng
Ðức Phật mà không học hiểu Chánh Pháp, không áp dụng Chánh Pháp,
thì cũng không ích lợi gì hiện đời cả.
- Chư Tổ có dạy:
- "Tu mà không học là tu mù.
Học mà không tu là đãy sách".
- Nghĩa là muốn
hưởng an lạc và hạnh phúc, muốn được giác ngộ và giải thoát, chúng
ta phải tu tập. Nhưng tu tập mà không chịu học hiểu Chánh Pháp
cũng ví như người mù lại không có bản đồ, không người hướng dẫn,
thì làm sao đi đến nơi đến chốn một cách an lành được. Bản thân đã
tu mù, không nghiên tầm giáo lý, kinh điển đại thừa, mà còn dẫn
dắt người khác tu tập, thì quả là đại họa, là phỉ báng đạo Phật,
là sư tử trùng thực sư tử nhục. Trái lại, Chánh Pháp để áp dụng,
thực hành chứ không phải để nói suông, để thảo luận, để tranh cãi.
Người chỉ lo học hiểu để thỏa mãn kiến thức, mà không lo tu tập,
không áp dụng vào đời sống hằng ngày, thì cũng chỉ có thể hiểu
biết đến mức độ nào đó mà thôi, cũng ví như cái đãy, cái túi đựng
sách có giới hạn vậy thôi. Những người đó cũng như những người đếm
tiền trong ngân hàng, những người đếm bò cho chủ, trọn không có
tiền và cũng không có bò.
- Có câu chuyện
giáo lý tối thượng thừa như sau: Có một anh mù, đến thăm người
bạn, đến lúc trời tối mới ra về. Người bạn đưa cho cây đèn. Anh mù
bèn nói không cần, bởi vì đối với anh, trời sáng cũng như tối, ban
ngày cũng như ban đêm, không có gì khác, không phân biệt được gì
cả. Người bạn khuyên hãy cầm cây đèn, để người khác thấy mà tránh.
Anh mù nghe có lý bèn nhận cây đèn và ra về. Trên đường về, có
người đi đụng phải anh. Anh mù bèn la lên: bộ không thấy cây đèn
tôi đang cầm đây hay sao? Người kia đáp: Cây đèn của anh đã tắt từ
lâu rồi!
- Thế mới biết
chúng ta cần cây đèn của chính chúng ta, để giúp chúng ta tai qua
nạn khỏi, để giúp chúng ta giác ngộ và giải thoát khỏi vòng trầm
luân, sanh tử luân hồi. Cây đèn do người khác trao cho, có khi
không được hữu dụng. Cây đèn luôn luôn hữu dụng đó phải là cây đèn
của chính chúng ta. Cây đèn đó chính là trí tuệ bát nhã của tất cả
mọi người chúng ta vậy./.
--o0o--
|
|