-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Cư Trần Lạc Ðạo
- (Trọn
bộ 3 tập)
- Toronto, Canada
1999 - PL 2543
- --- o0o ---
-
- Tập
2
-
- [10]
- Pháp Môn Chăn
Trâu
-
Trong một bài hát quen
thuộc với mọi người chúng ta, có câu: "Ai bảo chăn trâu là khổ?
Chăn trâu sướng lắm chứ!". Ðó là lời mở đầu của một ca khúc nói về
sinh hoạt của các mục đồng chăn trâu ở thôn quê. Trong Phật giáo,
đặc biệt là thiền tông, chư vị Tổ Sư chỉ dạy một phương pháp tu
hành gọi là "Pháp Môn Chăn Trâu".
- Pháp môn này áp
dụng triệt để lời dạy của Ðức Phật, trong cuộc sống hằng ngày của
người Phật Tử, tại gia hay xuất gia. Khi hiểu được và hành được
pháp môn này, người Phật Tử sẽ thấy được con đường vào đạo, tâm sẽ
được nhập lưu, tức là nhập vào dòng thánh, khác với dòng đời, tuy
thân vẫn sống ở đời, như bao nhiêu người khác, mà tâm không hề khổ
đau lụy phiền. Dòng thánh gồm có bốn quả vị, gọi là Tứ Thánh Quả,
bắt đầu gồm có Tu Ðà Hoàn, đến Tư Ðà Hàm, A Na Hàm và A La Hán.
- Khi hiểu được
và hành được pháp môn này, trí tuệ sáng ra, cuộc đời thay đổi kể
từ ngày này, người Phật Tử đối với Chánh Pháp, sẽ không còn thoái
chuyển, phát tâm tu dưỡng, phát nguyện chăn trâu, việc ác ngưng
làm, quyết làm việc thiện, không còn mặc cảm, tự tôn tự ti, chân
trời an lạc và hạnh phúc bắt đầu ló dạng. Khi hiểu được và hành
được pháp môn này, người Phật Tử không còn đi vòng vòng bên ngoài,
vừa vui chơi thích thú, cười nói hả hê, cũng vừa kêu khổ, kêu khổ
chưa xong, cầu nguyện van xin, khấn vái khẩn cầu, vừa mê tín dị
đoan, vừa tiền mất tật mang, chẳng lợi ích gì, hết cầu an cầu
siêu, đến cầu đoàn tụ, cầu buôn may bán đắt, cầu trúng số độc đắc,
thực sự có được gì đâu? Khi hiểu được và hành được pháp môn này,
người Phật Tử tại gia không còn thấy chuyện tu tâm dưỡng tánh là
chuyện của những người xuất gia vào ở trong chùa, mà tu tâm dưỡng
tánh chính là chuyện của mọi người, chuyện của chính mình, chuyện
của bất cứ ai muốn giảm bớt khổ đau, muốn xuất phiền não gia, muốn
ra khỏi căn nhà lửa, muốn được an lạc và hạnh phúc ngay hiện tại,
trên thế gian này, trong mọi hoàn cảnh, trong cuộc sống hằng ngày.
- Trên thế gian
này, hầu như mọi người, thảy đều nghĩ rằng, ai cũng cho rằng, mình
là người thiện, không ai chịu nhận, mình là người xấu, mình là kẻ
ác. Nếu không phải là người lương thiện nhứt trên đời, thời
"mình cũng là người không làm gì nên tội", chắc là sau khi từ
giã cõi đời này, sẽ được lên thiên đàng hay cực lạc, không việc gì
phải lo cả. Muốn chắc ăn hơn, nhớ dặn thân nhơn, sau khi mình
chết, thỉnh thiệt nhiều sư, rước thiệt nhiều cha, mời nhiều ông
bà, về nhà cầu nguyện, đăng báo phân ưu, tụng kinh cầu siêu, cầu
chúc tiêu diêu, nơi miền cực lạc, hoặc thăng nơi cõi, thiên đàng
vĩnh viễn! Nếu có ai đó khuyên mình tu tâm dưỡng tánh, thì liền
nghĩ rằng: người đó chắc khùng. Không khùng sao được, bởi chuyện
tu hành là chuyện của quý sư trong chùa, chuyện của quý cha trong
tu viện, không phải là chuyện của người đời đang sống ngoài thế
gian, bận rộn với đủ thứ chuyện trần thế, còn thì giờ đâu mà nói
chuyện tu với hành? Có người nghĩ rằng: tu học làm chi, biết nhiều
thêm khổ, không biết khỏi tội, khỏi lội qua sông, tốn công học
hỏi, như vậy khỏe re!
- Thực ra, chuyện
đời cũng như chuyện đạo, đâu ai có thể lý luận một cách quá đơn
giản như vậy! Con người vì vô minh che lấp chơn tánh, từ nhiều đời
nhiều kiếp, cho nên lăn lộn trong sanh tử luân hồi, sống trong cơn
mê, sống trong mộng tưởng, sống trong điên đảo, mà không hề hay
biết. Tại sao vậy? Bởi vì sống trong cơn mê, cho nên con người, vô
tình hoặc cố ý, gây tạo quá nhiều tội nghiệp, từ trước đến nay.
Chẳng hạn như khi lái xe phạm luật, rồi cho là không biết luật
giao thông, thì được miễn tội chăng? Chẳng hạn như mình khai gian
trong giấy tờ, rồi cho là không biết ngoại ngữ, thì xong chuyện
chăng? Chẳng hạn như mình gây tù tội, tạo phiền não, đem khổ đau,
đến cho người khác, và gia đình của họ, dù cho là họ đáng tội,
đáng bị trừng phạt, thì mình yên tâm được chăng, tâm như vậy là
tâm gì?
- Bởi vì sống
trong mộng tưởng, cho nên con người luôn luôn mơ ước cảnh giới
thiên đàng cực lạc, mà không biết mình đang sống trong hiện tại,
không biết mình đang sống một cuộc đời hết sức vô nghĩa, chẳng làm
gì ích lợi cho ai, chỉ biết ăn ngủ hưởng thụ, đấu tranh giành
giựt, hơn thua phải quấy, rồi chờ ngày chết! Bởi vì sống trong
điên đảo, cho nên con người nhận lầm cái giả tưởng là thực, cái
khổ lại cho là vui. Chẳng hạn như ai cũng biết chuyện cờ bạc thua
lỗ là khổ, vẫn có nhiều người tham gia. Mình thắng người khổ, mình
thua mình lỗ, tự mình chuốc khổ, chớ có than van! Chẳng hạn như
nhiều người cứ tưởng cái xác thân này là "mình" và sẽ mang cái xác
đó lên thiên đàng hưởng phước, hoặc đem cái xác đó lên cực lạc cho
sướng tấm thân! Ðâu chẳng biết rằng, sau khi hết thở, chính cái
xác này, gọi là thây ma, ai dám đến gần? Cát bụi sẽ trở về cát
bụi! Chỉ có nghiệp báo thiện ác theo "mình", như hình với bóng,
không bao giờ rời, qua bao nhiêu kiếp sau nữa.
- Còn "mình"
thực ra là ai, thì lại chẳng biết! "Con Người Chân Thật" đã bị vô
minh che lấp tự lâu lắm rồi, mà chúng ta vẫn không chịu tỉnh thức
để nhận ra! Con người thức tỉnh biết "dừng nghiệp và chuyển
nghiệp" thì trí tuệ bừng sáng.
- Khi đó, con
người sẽ tự tại bước ra khỏi màn vô minh, thoát ra khỏi sanh tử
luân hồi, không còn phiền não và khổ đau, sống trong an lạc và
hạnh phúc. Ví như khi nào mây đen tan hết, bầu trời lại trong
sáng, mọi cảnh vật hiện rõ ràng trước mắt, nhìn thấy muôn sự mọi
việc "đúng như thực", không còn mơ hồ, không còn điên đảo, mình sẽ
nhận biết rõ ràng "mình là ai", không còn nghi ngờ gì nữa cả.
Nhưng làm sao để thức tỉnh, làm sao để trí tuệ bừng sáng? Ðó chính
là mục đích, cũng là kết quả của "Pháp Môn Chăn Trâu".
- * * *
- Từ lúc còn nhỏ,
con người đã tạo nghiệp lành, đồng thời, tạo nghiệp chẳng lành. Có
người từ nhỏ đã biết làm việc tốt, giúp đỡ những người chung
quanh, từ trong gia đình, ra đến học đường, và ngoài xã hội. Ðồng
thời, cũng có những đứa trẻ nghịch nghịch ngợm ngợm, nghinh nghinh
ngang ngang, phá phách xóm làng, văng tục chửi thề, hỗn hào xấc
xược, gạt gẫm người già, trộm gà bắt vịt, nghịch phá nhà người,
chặt cây trộm trái, hái hoa bứt lá, chọc chó đá mèo, leo trèo khắp
chốn. Lúc còn trẻ tạo tội nghiệp như vậy, nhưng nếu biết dừng
nghiệp và chuyển nghiệp kịp thời, thì có thể trở nên người tốt, có
ích lợi bản thân, cho gia đình và cho xã hội. Ðời nay, ở các xứ
tây phương, văn minh tiên tiến, vật chất dư thừa, có những đứa trẻ
biết kêu cảnh sát đến bắt giam cha mẹ, chỉ vì răn dạy chúng bằng
roi vọt, còn có những đứa trẻ dùng dao đâm chết người, mang súng
vào trường, giết người hàng loạt! Thực là khủng khiếp!
- Ðến khi lớn
lên, bước chân ra đời, cuộc sống khó khăn, con người bon chen,
tranh đấu sống còn, cho nên bất chấp, mọi thứ thủ đoạn, miễn sao
có lợi, cho mình thì thôi, người khác ra sao, đau khổ thế nào,
sống chết mặc kệ! Con người sẵn sàng, thượng đội hạ đạp, để được
tiến thân, để giành quyền lợi, để đợi thời cơ, để mơ địa vị. Con
người sẵn sàng, đá giò lái bạn, đâm lưng chiến sĩ, thưa gửi kiện
tụng, đụng độ đồng nghiệp, hạ nhục đồng môn, đem chôn đồng bào,
cào nhà đồng đội, dội nước đồng hương, chẳng thương đồng đạo, giả
tạo đồng minh, tất cả cũng vì, đồng tiền mà thôi! Con người sẵn
sàng, phao truyền tin đồn, mặc kệ đúng sai, phổ biến thư rơi, bôi
lọ kẻ thù, nói xấu sau lưng, đặt điều thêm bớt, vu oan giá họa,
chỉ vì ganh tị, đố kỵ mà thôi. Người khác thua mình, khinh khi
biếm nhẽ, nhìn nửa con mắt. Người khác hơn mình, tức giận gièm
pha, phá cho tan nhà, nát cửa chửa thôi.
- Tất cả những
việc làm, những lời nói trên đây, đều được chỉ huy bởi tư tưởng, ý
nghĩ của con người. Nói một cách khác: "Tư tưởng làm chủ, chỉ
huy, phát xuất ra hành động và lời nói". Con người có tư tưởng
hay tâm ý thiện, thì hành động và lời nói thiện. Con người có tư
tưởng hay tâm ý ác, thì hành động và lời nói ác. Như vậy tâm ý của
con người, có lúc thiện, có lúc ác, cho nên hành động và lời nói,
lẫn lộn thiện và ác. Tâm ý của con người luôn luôn lăng xăng lộn
xộn hằng ngày như vậy. Trong kinh sách, tâm ý của con người thường
được ví như con vượn chuyền cây, như con ngựa chạy rong, nên gọi
là "tâm viên ý mã". Con ngựa chạy rong, tung tăng khắp chốn, khó
mà điều khiển, thuần phục dễ dàng. Con vượn chuyền từ nhánh cây
này sang nhánh khác, cũng như tâm ý của con người nghĩ ngợi lung
tung linh tinh lang tang, hết chuyện đông đến chuyện tây, hết
chuyện ta đến chuyện tàu, hết chuyện người này đến chuyện người
khác, hết chuyện gia đình đến chuyện làng xóm, hết chuyện năm châu
thế giới đến chuyện hang cùng ngõ hẻm, hết chuyện khoa học kỹ
thuật đến chuyện chính trị tôn giáo, hết chuyện quốc gia đại sự
đến chuyện phụ nữ nhi đồng.
- Trong thiền
tông, tâm ý của con người thường được ví như con trâu. Con trâu
không được chăn giữ thường hay xâm phạm, giẫm đạp lúa mạ của người
khác, gây nhiều tổn thất hoa màu, mùa màng của những người láng
giềng lân cận chung quanh. Con trâu được chăn dắt cẩn thận, chăm
nom kỹ lưỡng, canh chừng thường xuyên, đem lại ích lợi lớn lao cho
nông gia và cho xã hội.
- * Ðiều quan
trọng là: "Con người hãy chăn dắt con trâu, chớ để con trâu
dẫn dắt con người! Nếu để con trâu dẫn dắt, không biết con người
sẽ đi về đâu?". Cho nên mới có pháp tu gọi là "Pháp Môn Chăn
Trâu", chính là nghĩa đó vậy.
- Bây giờ chúng
ta thử bắt đầu tìm hiểu pháp môn này. Pháp môn chăn trâu trình bày
phương pháp tu tâm dưỡng tánh qua mười giai đoạn như sau:
- 1) Thoạt đầu
không ai biết con trâu của mình đang ở đâu, đang làm gì? Tức là
con người thường không nhận ra tâm ý của mình đang ở ngõ ngách
nào? Chẳng hạn như mình đang nghĩ gì, muốn gì, âm mưu gì, tính
toán gì, thiện hay ác, tốt hay xấu, lành hay dữ, hiền lương hay
bất lương? Con người sống theo dòng đời, thường bị cuốn trôi theo
ngũ dục, thường bị "con trâu tâm ý" của mình dẫn dắt, thường làm
những chuyện bất nhân thất đức, thường nói những lời độc ác, lợi
mình hại người. Hành động và lời nói thường bị tâm tham lôi cuốn,
tâm sân thúc đẩy, tâm si điều khiển, con người tạo không biết bao
nhiêu tội nghiệp, mà không hề hay biết đó thôi, hoặc biết mà vẫn
cố phạm! Thí dụ như là, tâm tham lôi cuốn, thấy lợi thì ham, chẳng
muốn đi làm, chỉ muốn hưởng nhàn, lại có tiền xài, tức ham phát
tài, theo cách bất lương, nên không ngần ngại, kiếm chuyện vu oan,
giá họa người khác, nộp đơn kiện tụng, bày chuyện thiệt hơn, đòi
phải bồi thường, ba bốn triệu bạc! Thí dụ có người, đã từng giúp
mình, được rất nhiều chuyện, nhưng khi chỉ có, một chuyện không
được, hài lòng vừa ý, tâm sân thúc đẩy, mình liền cảm thấy, tức
giận khó nguôi. Ơn nghĩa trước đây, sâu dầy thế mấy, cũng đều phủi
sạch, không thèm nhớ tới, nhắc tới làm chi. Thậm chí người đó, là
cha mẹ ruột, sanh thành nuôi dưỡng, từ nhỏ đến nay, bây giờ khôn
lớn, có vợ có chồng, nếu như cha mẹ, lôi thôi khó chịu, do tâm si
khiến, mình liền từ ngay! Bạn bè thân thiết, trải qua tháng năm,
quen biết rất nhiều, hy sinh giúp đỡ, thế nào chăng nữa, thì cũng
mặc kệ, vì tham danh lợi, nhứt là vì tiền, mình vẫn trở mặt, bán
đứng như thường! Con trâu lúc này thực là đen, mà lại lẫn trong
bóng đêm mờ tối của chuyện thị phi thế gian, cho nên con người
không nhận ra nó đang ở đâu và đang làm gì.
- Người phát tâm
muốn tu tập, nhờ học hỏi và thâm nhập giáo lý, mới tin nơi mình có
tâm thể chân thật, bất sanh bất diệt, ngoài cái xác thân tứ đại
giả tạm này ra, nhưng chưa hề sống được với chân tâm đó, bởi vì
chưa biết cách chăn trâu. Học hỏi kinh sách, như Kinh Hoa Nghiêm,
chúng ta được biết, Ðức Phật dạy rằng: "Nhứt thiết chúng sanh
giai hữu Phật Tánh", tức là: "Tất cả mọi người đều có Tánh
Giác".
- Cho nên chúng
ta muốn tìm, muốn hiểu muốn biết, nhưng không biết tìm kiếm "Tánh
Giác" ở đâu? Người phát tâm cầu học Chánh Pháp, tìm đến các chùa,
các đạo tràng, các pháp hội, để học hỏi, để tìm tòi. Càng đi tìm,
càng cầu học, càng phí sức nhọc công, càng xa lìa tánh giác. Chẳng
gặp Chánh Pháp, lại gặp quá nhiều những hình thức mê tín dị đoan
lẫn lộn trong Phật giáo, những hình thức cúng kiến nghi lễ bày vẽ
quá rườm rà, không có ghi trong kinh sách nào cả. Hoặc khi gặp
phải những người không chân tu thực học, trốn tránh trần thế, mượn
áo tu sĩ, nói quàng nói xiên, đem đời vào đạo, cơm gạo qua ngày,
bày thi văn học, văn nghệ văn gừng, tưng bừng ca hát, náo động
thiền môn, đại ngôn thi sĩ, văn sĩ kiêm luôn, thầy bà địa lý, thầy
tụng đám tang, thầy bùa thầy bói, coi ngày tốt xấu, cưới gả ma
chay, thật thảm thương thay, những người như vậy! Nhìn lại chỉ
thấy, sinh hoạt thường nhựt, của ngày tháng qua, chẳng gì mới lạ!
Tại sao như vậy?
- Bởi vì trong
cuộc sống hằng ngày, chúng ta quen chạy theo trần cảnh bên ngoài,
khởi vọng tâm, vọng tưởng, vọng thức, vọng niệm liên miên, khiến
cho tánh giác bị che khuất. Tánh giác chính ở ngay nơi mình. Khởi
công tìm kiếm, là khởi vọng niệm, xa lìa tánh giác. Cũng như nhiều
mây đen che khuất ánh sáng mặt trời, hay mặt trăng. Chẳng hạn như
khi, mắt thấy hình sắc, xinh tươi tốt đẹp, hạp nhãn vừa lòng, khởi
tâm ham muốn, mua sắm về nhà, chiếm đoạt sở hữu. Chẳng hạn như
khi, tai nghe âm thanh, ca tụng tán dương, vừa tai hạp ý, say mê
thích thú, khởi tâm đắm nhiểm, muốn được nghe tiếp. Chẳng hạn như
khi, tiếp xúc với ai, ngọt ngào tử tế, có lợi cho mình, liền khởi
tâm thương, cho là người tốt, không vừa ý ai, thì khởi tâm bực,
cho là người xấu.
- Ðây là giai
đoạn, của một người tu, tại gia xuất gia, chưa biết chăn trâu, tức
là chưa biết, giữ gìn kềm chế, tâm niệm của mình, để tâm buông
lung, nghĩ ngợi lung tung, linh tinh lang tang, chạy theo cảnh
đời, tạo tội tạo nghiệp, rồi bị nghiệp dắt, vào trong lục đạo,
sanh tử luân hồi, xa lìa tánh giác.
- * Thương
ghét, phải quấy, đẹp xấu, đúng sai, hơn thua, chính là vọng tâm,
vọng tưởng, vọng thức, vọng niệm. Ðó chính thực là con trâu, mà
người tu theo Phật phải chăn phải dắt, phải kềm phải chế, phải
điều phải khiển, phải thuần phải phục, thúc liễm luôn luôn. Chăn
trâu thành công thì tánh giác hiển lộ.
- * * *
- 2) Ðến khi nghe
bạn đạo bàn chuyện "chăn trâu", mình mới bắt đầu thấy dấu chân con
trâu của mình, nhưng vẫn chưa thấy được nguyên hình con trâu. Tức
là con người thỉnh thoảng có cảm giác mình làm việc thiện, thỉnh
thoảng có cảm giác mình làm việc bất thiện, nhưng vẫn chưa phân
biệt được việc nào thiện, việc nào bất thiện, vì chưa hiểu biết
Chánh Pháp. Trong giai đoạn này, mình nhận biết được tâm ý của
mình thay đổi liên miên, lăng xăng lộn xộn, lúc thích thế này, lúc
thích thế kia. Lúc muốn giúp đỡ, người này người kia, khi muốn hãm
hại, người này người khác. Lúc phát từ tâm, làm việc phước thiện,
bố thí cúng dường, muốn làm người tốt, tạo được phước báu. Khi
muốn sang đoạt, của cải tiền bạc, vốn liếng phần hùn, tác quyền
tác phẩm, công ăn việc làm, trở thành kẻ xấu, tạo tội tạo nghiệp!
Lúc muốn hùn phước, ấn tống kinh sách, đi chùa lạy Phật, góp quỹ
từ thiện, cứu trợ nạn nhân, thiên tai bão lụt, muốn làm người tốt,
tạo được phước báu. Khi tính mưu kế, vu khống kiện người, đòi hỏi
bồi thường, hơn ba bốn triệu, trở thành kẻ xấu, tạo tội tạo
nghiệp! Lắm lúc nhiều khi, làm ăn bất chánh, gặp thời trúng mánh,
giựt hụi quịt nợ, lường gạt sang đoạt, giả tạo thương tích, tròng
tréo giấy tờ, khai gian hoàn cảnh, cờ gian bạc lận, dụ dỗ kẻ khờ,
làm việc bất lương, vồ được một vố, tiền của khá lớn. Con người sợ
sệt, mang tội một mình, chắc đọa địa ngục, chịu nhiều khổ đau, bèn
đem chút ít, tiền lẽ cúng chùa, trút hết tội lỗi, cho các nhà sư,
gánh vác thay mình, hoa quả nhang đèn, hối lộ tượng Phật, để được
tạm thời, an tâm chút chút!
- Người phát tâm
tu theo Phật, nương theo Chánh Pháp, hiểu biết mình có tánh giác,
nhưng chỉ biết suông, chưa biết rõ ràng, một cách tường tận. Chẳng
hạn như là, mới chỉ biết được, các đồ trang sức, dù là vòng xuyến,
hoa tai dây chuyền, nhẫn trơn nhẫn cưới, tuy có khác nhau, về mặt
hình thức, nhưng mà tất cả, đều cùng bản chất, đó là chất vàng.
Cũng ý như vậy, tất cả mọi người, tuy không giống nhau, về các màu
da, cũng không đồng nhau, về mặt kiến thức, cũng không hợp nhau,
về các sở thích, cũng không cùng nhau, về các hình tướng, nam phụ
lão ấu, nhưng mà tất cả, đều cùng bản chất, điều đó chính là:
"Bản Tâm Thanh Tịnh", người nào cũng có. Chẳng hạn như, nếu
không có thù oán trước đây, không có cạnh tranh nghề nghiệp, không
có ganh tị đố kỵ, không có đụng chạm tự ái, không có va chạm quyền
lợi, chắc chắn con người đem bản tâm thanh tịnh của mình đối xử
với nhau, rất là cởi mở, rất là tốt đẹp, rất là nhân đạo.
- * Hay nói cách
khác: Bản tâm thanh tịnh của tất cả mọi người đều giống nhau,
không khác, đều đồng nhứt thể. Chỉ vì con người tạo nghiệp khác
nhau, cho nên hình tướng khác nhau. Có nhiều người trong chúng ta
thường phát biểu: "Không ai chọc ghẹo, tôi hiền lắm đó!". Ðiều này
chứng tỏ, mọi người đều thực sự hiền lành, đều sống với bản tâm
thanh tịnh, với điều kiện: đừng có gặp nghịch duyên, đừng có gặp
việc gì trái ý.
- * "Bản Tâm
Thanh Tịnh" đó, không có hình tướng, không phải là một vật, trong
kinh sách, thường được gọi là Tánh Giác, là Chơn Như, là Chơn Tâm,
là Phật Tánh, là Pháp Vô Sanh, là Pháp Bất Diệt, là Pháp Bất Tử,
là Pháp Tối Thượng, là Viên Giác Tánh, là Pháp Thân Huệ Mạng, là
Trí Tuệ Bát Nhã, là Bản Lai Diện Mục, là Bản Tánh Sáng Suốt, là
Bản Thể Chân Thật, là Bản Nguyên Chân Thật, là Con Người Chân
Thật, là Con Người Bất Tử, là Kim Cang Bất Hoại, là Tịch Diệt Hiện
Tiền, là Vô Sanh Pháp Nhẫn. Tùy theo kinh sách, tên gọi có khác
nhau, nhưng đều chỉ cùng không phải là một vật, từ xưa đến giờ, từ
trước đến nay. Trong Kinh Pháp Bảo Ðàn, Lục Tổ Huệ Năng có dạy:
"Bản Lai Vô Nhất Vật", chính là nghĩa đó vậy.
- * * *
- 3) Sau một thời
gian học hiểu Chánh Pháp nhiều hơn, đem những lời dạy của Ðức Phật
quán chiếu, soi xét những hành động, những lời nói, những ý nghĩ
của mình, lúc đó mới hay, mình đã tạo quá nhiều nghiệp xấu ác, còn
nghiệp thiện lành, hình như chẳng có chút nào đáng kể! Trong bóng
tối của cuộc đời, nơi cuối con đường hầm, có dạng chút ánh sáng le
lói, đủ soi thấy bóng dáng của con trâu.
- * Con trâu
tâm ý của mình lúc đó mới hiện nguyên hình: Ðó là con trâu, đen
thủi đen thui, từ đầu tới đuôi. Con trâu đen thui, tượng trưng cho
những, ý nghĩ tư tưởng, ác nhơn thất đức, xấu xa độc địa, cúp điện
tối đen, hắc ám mịt mờ, ti tiện nhỏ nhen, giả nhơn giả nghĩa, gian
xảo điêu ngoa, đầy trong tâm địa, tất cả mọi người, ngày cũng như
đêm, quanh năm suốt tháng.
- Con người nhận
thấy, con trâu của mình, đen thủi đen thui, quá sức to lớn, cảm
thấy sợ hãi, bắt đầu vùng vẫy, cố gắng giẫy giụa, nói một cách
khác, tức là ra sức, biện bạch bào chữa, cho những lỗi lầm, trong
lúc hành động, cũng như lời nói. Ðôi khi lắm lúc, con người tỏ ra,
ăn năn hối cải. Ví như sau khi, đọc Kinh Thủy Sám, Ðức Phật chỉ
dạy, một cách rành rẽ, những việc làm nào, những lời nói nào,
những ý nghĩ nào, tạo tội tạo nghiệp, chúng ta mới biết, giựt mình
tỉnh thức, cảm thấy tội lỗi, chất cao như núi. Cũng giống như là,
"tấm gương chiếu yêu", soi thấy tâm địa, yêu ma quỉ quái, ẩn tàng
bên trong, hình dáng con người, nhờ "gương chiếu trâu",
chúng ta nhận thấy, một cách rõ ràng, từ trước đến giờ, mình luôn
luôn nghĩ, tự kỷ ám thị, thấy chuyện mình tốt, che dấu tội lỗi, đã
và đang làm, bằng các chiêu bài, bằng các danh nghĩa, bằng các
bình phong, bằng các mỹ từ, đao to búa lớn.
- Chẳng hạn như
muốn, hãm hại người nào, chỉ vì ganh tị, bèn khoác bên ngoài, các
thứ chiêu bài: trừ gian diệt bạo, thế thiên hành đạo. Chẳng hạn
như muốn, tiêu diệt đối thủ, triệt hạ đối phương, cạnh tranh nghề
nghiệp, bèn khoác bình phong: bảo vệ công lý, nêu cao chính nghĩa,
tranh đấu tự do, bênh vực lẽ phải. Chẳng hạn như vì, tham tiền
tham vàng, tham lợi tham danh, sẵn sàng đấu tranh, hơn thua giành
giựt, ngay cả với anh, với chị em ruột, ở trong gia đình, bất kể
mẹ cha, mình cũng chẳng tha, biện bạch lý do: vì vợ vì chồng, vì
con vì cháu, vì chuyện nhân nghĩa, mới làm như vậy! Ðâu chẳng biết
rằng: vợ chồng con cháu, sung sướng thụ hưởng, của cải giàu sang,
do mình tranh giành, đoạt được đem về, còn mình thì sao, lãnh đủ
nghiệp báo, đời này kiếp khác. Chúng ta nên biết: "có vay phải
trả", "mình làm mình chịu", không ai thay được, dù là
cha mẹ, dù là vợ chồng, hay là con cháu, không ai cứu được, dù có
van xin, Phật Trời cứu giúp, cũng chỉ vậy thôi. Ðó mới thực là:
công bằng tuyệt đối!
- * Ðiều quan
trọng hơn hết trong việc tu tâm dưỡng tánh, chính là chúng ta phải
biết cách chăn trâu. Nghĩa là chúng ta phải biết cách dừng các
vọng tâm, vọng tưởng, vọng thức, vọng niệm. Ðó chính là công phu
tu tập theo đạo Phật, để cải thiện cuộc đời mình, để chuyển hóa
những ưu tư phiền muộn, trở thành vô tư tự tại. Chẳng hạn như khi,
tâm tham nổi lên, lợi mình hại người, muốn được bạc triệu, xài
chơi cho sướng, nghĩ cách hại người, bất chấp thủ đoạn, chúng ta
liền biết, lập tức dừng ngay, không nên tiếp tục, theo đuổi vọng
tâm, vọng tưởng vọng thức, vọng niệm đó vậy, tức là chúng ta, đã
dừng được nghiệp, và chuyển được nghiệp.
- Chẳng hạn như
khi, tâm sân khởi lên, muốn hại người khác, cho đã cơn tức, cho
được thỏa lòng, tự ái cao độ, muốn cho kẻ thù, chết phứt cho rồi,
hoặc ít ra cũng, khốn khổ khốn kiếp, tù tội te tua, tả tơi xơ xác,
tan tành hoa lá, hết đường sinh sống, bức bách khổ não, thân tàn
ma dại, sự nghiệp tiêu tan, tán gia bại sản, mất hết việc làm, đói
rách nghèo nàn, mới thiệt hả giận, chúng ta liền biết, lập tức
dừng ngay, không nên tiếp tục, theo đuổi vọng tâm, vọng tưởng vọng
thức, vọng niệm đó vậy, tức là chúng ta, đã dừng được nghiệp, và
chuyển được nghiệp.
- Trong giai đoạn
này, người nào phát tâm chuyển hóa cuộc đời mình, muốn biến phiền
não khổ đau thành an lạc hạnh phúc, nhứt định phải biết cách chăn
trâu. Người không biết cách chăn trâu sẽ đuổi theo vọng tâm, vọng
tưởng, vọng thức, vọng niệm đó, đem ra thực hiện, tức là tiếp tục,
tạo thêm nghiệp mới! Người tu tâm dưỡng tánh, biết cách chăn trâu,
sẽ lập tức tự quở trách chính mình: "Lại tạo tội tạo nghiệp nữa
rồi! Muốn đọa địa ngục hay sao? Hãy dừng ngay lập tức!". Chuyện
này khó khăn, không phải dễ dàng, cần nhiều thời gian, mới thực
hành được. Khi mình cưỡng lại, sức kéo con trâu, thực là điêu
đứng, vất vả nhọc nhằn. Lắm lúc gặp phải, hoàn cảnh trái ngang, kẻ
chửi người mắng, hoặc khi gặp chuyện, bất bình trái ý, hãy tự nhủ
thầm: Một nhịn chín lành, cho nên phải nhịn, nhịn nhịn và nhịn,
mới là phải đạo, mới là người hiền, mới là người tu. Lập tức vọng
tâm, vọng tưởng vọng thức, vọng niệm của mình, nổi lên chống lại,
xui khiến xúi giục: Tại sao phải nhịn? Nhịn thì nhục, cự thì đục,
nhịn ở đàng chân, chúng lân đàng dầu, nhịn hoài thì chúng, được
nước làm tới, nhịn hoài chúng khinh, chúng khi khờ dại, chúng mắng
ngu ngơ, nếu như làm tới, không nhịn không ngưng, chúng biết tay
ông, chúng ngán tay bà, cả nhà chúng sợ!
- Ôi thôi! Tâm
niệm như vậy, thực là con trâu, ngang tàng hoang dã, thực đã lâu
đời, ngông cuồng ngược xuôi, rất khó chăn giữ. Ngọn hỏa diệm sơn,
tức là tâm sân, trong lòng mỗi người, thực là dễ sợ! Cần phải tìm
được, cây quạt ba tiêu, mới mong dập tắt, được lửa sân hận. Cây
quạt "ba tiêu", trong Tây Du Ký, là cái gì vậy? Ðó chính thực là,
ba điều cần tiêu, cần phải diệt trừ. Như trong kinh sách, có lời
phát nguyện:
- Nguyện tiêu tam chướng trừ phiền
não.
Nguyện đắc trí tuệ chơn minh liễu.
Phổ nguyện tội chướng tất tiêu trừ.
Thế thế thường hành bồ tát đạo.
- Nghĩa là muốn
dứt hết khổ đau phiền não, muốn đạt được trí tuệ sáng suốt, để đời
đời tu theo hạnh của chư vị bồ tát, đem lại ích lợi cho chúng
sanh, chúng ta phải tiêu trừ tam chướng, tức là tiêu trừ ba
chướng nạn lớn của cuộc đời, gồm có: tội chướng, nghiệp chướng và
sở tri chướng. Do tâm tham lam sân hận si mê, chúng ta tạo
không biết bao nhiêu tội lỗi, mà không hề hay biết, hoặc biết mà
vẫn cố phạm. Do thói quen hằng ngày, trong mọi hành động, lời nói
hay tư tưởng, chúng ta tạo nghiệp không biết bao nhiêu, mà không
hề hay biết, hoặc biết mà vẫn cố phạm. Do sự hiểu biết, kiến thức
ngoài đời, từ những bằng cấp địa vị, hay những hiểu biết trong
đạo, người đời gặp không biết bao nhiêu là chướng ngại, khó có thể
thấy được đạo, càng ngày càng bị con trâu của mình dẫn dắt đi quá
xa quê hương, muốn trở về cũng không còn biết lối nào nữa cả!
- Người nào hữu
duyên, được gặp Chánh Pháp, có nhiều thiện căn, nên khi thấy được,
nguyên hình con trâu, liền nhận biết ngay, mình đã tạo tội, nhiều
tội tày trời, từ trước đến giờ, chắc chắn sẽ phải, đền trả nay
mai, không thể chạy đâu, cho thoát nghiệp báo, giựt mình tỉnh
thức, lập tức ngưng ngay, hành động bất thiện, liền chừa bỏ ngay,
lời nói độc ác, liền dẹp bỏ ngay, tư tưởng lợi mình, ý nghĩ hại
người!
- * Ðó là giai
đoạn, chăn giữ con trâu. Chăn trâu nghĩa là: Áp dụng Chánh Pháp,
vào trong cuộc sống, của mình hằng ngày, dẹp trừ vọng tâm, vọng
tưởng vọng thức, vọng niệm liên miên, chuyển hóa ba nghiệp, thân
khẩu ý mình, bất lương bất thiện, thành ra ba nghiệp, hoàn toàn
thanh tịnh.
- * Kinh sách
có câu: "Tam nghiệp hằng thanh tịnh. Ðồng Phật vãng tây phương".
Nghĩa là khi nào ba nghiệp thân khẩu ý thường thanh tịnh, tức là
con trâu đã được chăn thuần thục, đã biến mất tiêu, chúng ta sẽ
sống được trong cảnh giới tịnh độ như chư Phật mười phương.
- * * *
- 4) Khi con trâu
đã hiện nguyên hình, nếu không hạ quyết tâm chăn trâu, không chịu
ra công thuần phục con trâu tâm ý của mình, người đời sẽ dễ dàng
bị cám dỗ, dễ bị sa ngã, dễ bị lôi kéo đi vào con đường gian tà,
ác đạo. Chuyện gì cũng dám làm, lời nói nào cũng phun ra được, ý
nghĩ nào cũng dẫn tới chỗ lợi mình hại người, chẳng chút vị tha,
bất chấp thủ đoạn. Cuộc đời đau khổ, vẫn hoàn khổ đau, không sao
tránh được. Trong giai đoạn này, người chăn còn yếu, con trâu còn
mạnh, phải rất nhọc nhằn, lôi cổ nó lại, nhưng nó chống cự, trì
chân ghì kéo, trở lại đường củ. Tức là vọng tâm vọng tưởng, vọng
thức vọng niệm, vẫn theo duyên trần, dấy khởi đều đều. Con người
thường sống, theo thói quen cũ, hằng ngày như vậy, rất khó điều
phục, cho nên phải biết, thực sự quyết tâm, kiên gan trì chí,
không được lơi lỏng, dù trong giây phút.
- Chúng ta hãy
chiêm nghiệm câu chuyện sau đây: Trên một chuyến xe lửa, người lái
ngủ say sưa, hầu hết các hành khách, đều vui chơi ca hát, nhảy
nhót múa may, quay cuồng thỏa thích, cười nói huyên thiên, khoe
của khoe tài, khoe giàu khoe sang, khoe nhà khoe xe, khoe con khoe
cháu, nói xấu xóm làng, châm chích chọc chọt, khoái tỉ tì ti, lo
ăn ngủ khì, nhìn trời ngắm mây, chẳng hay biết gì. Không ai biết
rằng: chẳng bao lâu nữa, vì không người lái, chuyến xe lửa đó, tốc
độ sẵn có, sẽ trật đường rầy, lao xuống hố sâu, không còn dừng
được, tất cả hành khách, mạng vong thảm tử, không sót một ai!
Trong lúc hưởng thụ, mọi người sẵn sàng, tranh chấp cãi vã, tranh
giành phần phải, phần hơn phần tốt, phần lợi phần thắng, về phía
của mình, bà con phe nhóm, ngày này ngày khác! Ðợi cho đến lúc,
toa đầu xe lửa, lao xuống vực sâu, mọi người giựt mình, hoảng hồn
la hét, mặt mày tái mét, lăng xăng lộn xộn, chộn rộn ngược xuôi,
cầu kinh lần chuỗi, cầu cứu thánh thần, niệm Phật huyên thiên, kêu
trời kêu đất, nhưng mà tất cả, đều quá muộn màng!
- Cũng vậy, tất
cả mọi người chúng ta đều ở trên chuyến xe lửa định mạng của cuộc
đời. Trạm cuối cùng của chuyến xe lửa định mạng, ai ai cũng biết:
đó là nghĩa địa, hay là lò thiêu! Thế là xong một đời! Vậy mà khi
còn hít thở không khí, còn khả năng làm việc, còn nói năng và suy
nghĩ, người đời không ngừng tạo tội tạo nghiệp, vì miếng cơm manh
áo, vì tự ái hơn thua, vì ganh tị đố kỵ, vì tức giận người khác,
vì tâm tánh luôn luôn thích thú nhìn thấy người khác phiền não khổ
đau. Tại sao vậy? Bởi vì con người thường nghĩ: Ðời của mình còn
dài lắm mà!
- Ðó là những
lúc, mình làm mọi việc, thiện ác lẫn lộn, chuyện gì cũng dám, tạo
phước cũng làm, tạo nghiệp chẳng từ! Thực ra, cuộc đời là vô
thường, danh lợi là vô thường, tâm ý cũng vô thường. Vô thường
nghĩa là: nay còn mai mất, chứ không tồn tại, vĩnh viễn muôn năm.
Tâm tạo tội tạo nghiệp sẽ dẫn dắt con người vào vòng sanh tử luân
hồi. Tuy nhiên, tội nghiệp cũng vô thường. Nếu có ý chí mạnh mẽ,
con người có thể dừng nghiệp và chuyển nghiệp! Biết dừng nghiệp và
chuyển nghiệp, chúng ta sẽ tránh được bao nhiêu hậu quả khó lường,
sẽ khỏi được bao nhiêu khổ đau phiền não!
- Khi thấy được
con trâu, tức là chúng ta đã thấy được bao nhiêu ngày tháng trôi
qua của cuộc đời mình, thực là phí phạm, tạo tội tạo nghiệp, đã
quá nhiều rồi. Có rất nhiều người, bề ngoài chơn chất, có vẻ hiền
lành, nhu mì nhỏ nhẹ, nói năng từ tốn, chưa hề hại ai, nhưng mà
bên trong, tư tưởng nảy sanh, bao nhiêu ý nghĩ, đen tối bậy bạ, đó
chính thực là: con trâu cần phải chăn giữ. Người tu tâm dưỡng tánh
thực sự phải biết cách chăn trâu. Có người rất ân hận, ăn năn sám
hối về những đau khổ, do vô tình hoặc cố ý, mình đã gây tạo cho
người khác, chỉ vì tâm tham lam, sân hận và si mê. Có người quá
quẩn trí với mặc cảm tội lỗi, muốn kết thúc cuộc đời mình, để đền
trả quả, vẫn cảm thấy cũng còn chưa đủ. Tuy nhiên, những người có
chút ánh sáng trí tuệ từ Chánh Pháp, bắt đầu dành nhiều thời gian,
để lo tu tâm dưỡng tánh, tìm gặp thiện hữu tri thức, thầy lành bạn
tốt trong đạo, cố gắng học hỏi cách nào, để làm lợi mình lợi
người, hầu trả bớt nghiệp báo đã vay, đã tạo đã gây, từ bao lâu
nay. Người tu tâm dưỡng tánh bắt đầu tìm cho mình một nơi nương
tựa, để mong rằng: những bước trên quãng đường đời sau này, không
còn tai nạn rủi ro, không còn hố sâu vực thẳm, hiểm trở chông gai,
để chuộc lại những lỗi lầm đã tạo tác. Tâm sám hối mạnh mẽ thúc
đẩy nhiều người phát tâm hành thiện, cứu người giúp đời.
- Ngày xưa có
người, vô minh lâu đời, che lấp chơn tánh, không được sáng suốt,
cho nên lúc nào, cũng tìm mọi cách, phỉ báng đạo Phật, chê bai
Chánh Pháp. Cho đến một ngày, hoát nhiên tỉnh ngộ, vì quá ân hận,
bèn định cắt lưỡi, từ lâu đã nói, những lời xằng bậy, gây nên
không biết, bao nhiêu tội nghiệp. May nhờ gặp lại, một vị thiền
sư, vốn là anh em, tu hành lâu năm, hết lời khuyên bảo: Nên dùng
cái lưỡi, xưa nay phạm tội, để mà tuyên xưng, giảng giải Chánh
Pháp, giúp cho nhiều người, liễu ngộ chánh đạo, hiểu biết rõ ràng,
pháp môn rõ ràng, tu tâm dưỡng tánh. Như vậy mới là, phương cách
tốt nhứt, thực tâm sám hối, để tạo phước báu, để trả nghiệp báo,
đền ơn chư Phật, ích lợi cho mình, cho muôn người khác. Thời gian
về sau, người đó trở thành, một vị thiền sư, chơn tu đắc đạo, nổi
tiếng khắp nơi.
- Trong Kinh Vị
Tằng Hữu, Ðức Phật có dạy:
- "Tâm trước nghĩ ác, như đám mây
đen che khuất mặt trời.
Tâm sau ăn năn nghĩ thiện, như ngọn đuốc sáng tiêu trừ hắc ám".
- Tuy đã nhận
được, mình thực sự có, bản tâm thanh tịnh, nhưng mà những khi,
nghe nói trái tai, thấy điều gai mắt, gặp chuyện bất trắc, trong
tâm liền khởi, bực tức giận hờn. Ðó chính là lúc, con trâu của
mình, lên cơn hung hăng. Chúng ta luôn luôn, muốn làm người tốt,
trở nên người thiện. Nhưng nếu có người, bày mưu mách nước, chỉ
chước kiếm tiền, dễ làm giàu nhanh, kiếm được vài triệu, bất chấp
thủ đoạn, lợi mình hại người, do dự giây lâu, mình liền nghe theo.
Tức là chúng ta, bị con trâu lôi, tạo tội nghiệp mới, chứ còn gì
nữa!
- * Chăn trâu
nghĩa là: Không theo sức mạnh, sức kéo sức lôi, của tánh tham lam,
sân hận si mê. Chăn trâu nghĩa là: Phải biết kềm giữ, xỏ mũi kéo
lại, đừng để con trâu, dẫn mình đi đâu, tạo tội tạo nghiệp.
- * * *
- 5) Trong giai
đoạn này, con người đã biết cách chăn trâu, nhưng nhiều khi vẫn bị
sức mạnh của con trâu kéo lôi ngược lại, có khi té lăn cù bò càng,
u đầu xước trán. Sau một thời gian, cố gắng nỗ lực, tu tập tinh
tấn, tâm không còn điên đảo mộng tưởng nữa. Vọng tâm vọng tưởng,
vọng thức vọng niệm, khởi lên liền biết, nên tự lắng xuống, thường
xuyên tỉnh giác, không bị nghiệp lôi. Song vọng tâm, vọng tưởng,
vọng thức, vọng niệm, cứ dấy lên đều đều. Nghĩa là con người vì
lăn lộn trong cuộc đời, bị vọng tâm, vọng tưởng, vọng thức, vọng
niệm lôi cuốn, che lấp bản tâm thanh tịnh, quanh năm suốt tháng cả
ngày, quên mất con người chân thật của chính mình, trong kinh sách
gọi là "nghiệp thức che đậy", lúc làm người tốt, khi làm kẻ xấu,
sanh tử tử sanh mãi mãi, không biết đến bao giờ mới chịu dừng
nghiệp và chuyển nghiệp.
- Lúc nào mình
làm chủ được con trâu của mình, tức là làm chủ được thân và tâm
mình. Còn khi nào công phu chưa được thuần thục lắm, chúng ta nên
tránh bớt các cơ hội tiếp xúc với trần đời, gan dạ cắt đứt các
duyên liên hệ bên ngoài, để tâm ý bớt giao động, để con trâu của
mình không có cơ duyên nổi cơn hung hăng dữ tợn. Trong lúc tu tập,
chúng ta thường thấy, hành giả chiêm ngưỡng, ba bức tượng gổ, hình
ba con khỉ: một con bịt mắt, một con bịt tai, một con bịt miệng,
chính là nghĩa đó vậy.
- * Thấy cũng
như không thấy, nghe cũng như không nghe, nói cũng như không nói.
Khi tiếp xúc với cảnh trần, nhưng không ý kiến, không lập tri,
không khởi tâm phân biệt, tức là không dấy khởi vọng tâm, vọng
tưởng, vọng thức, vọng niệm, cũng như lúc không tiếp xúc với trần
duyên vậy.
- Trong Kinh Thủ
Lăng Nghiêm, Ðức Phật có dạy:
- "Tri kiến lập tri tức vô minh
bổn.
Tri kiến vô kiến tư tức Niết bàn".
- Nghĩa là khi
sống ở đời, chúng ta hiểu biết tất cả mọi việc, nếu dấy khởi vọng
tâm, vọng tưởng, vọng thức, vọng niệm thì gặp phiền não khổ đau,
đó là gốc của vô minh. Nhưng nếu không dấy khởi vọng tâm, vọng
tưởng, vọng thức, vọng niệm, thì chúng ta sống được trong cảnh
giới niết bàn. Nói cách khác đơn giản hơn, sống ở đời tuy hiểu
biết mọi việc, người nào nhiều chuyện, người đó tự chuốc khổ, khổ
thân và khổ tâm đó vậy. Cái hạnh phúc ở chung quanh, nằm trong tầm
tay, có sẵn từ lâu, nhưng mình quên lững, không nhận thức được,
chỉ vì không sống trong chánh niệm, đến nay hạnh phúc đó hiện hữu
trở lại trong vòng tay, mình phải ý thức, biết trân quý và giữ
gìn, làm con thuyền đưa ta thoát khỏi biển sanh tử luân hồi.
- Thời Ðức Phật
còn tại thế, có một người theo ngoại đạo, mê tín dị đoan, tìm giết
cho đủ một trăm người, dâng cúng thần linh, để được thần thông,
được lên thiên đàng. Anh ta đã giết chín mươi chín người, cho nên
mọi người sợ hãi chạy trốn hết trơn. Túng cùng, trên đường về nhà,
định giết mẹ già, cho đủ số qui định, anh ta gặp Ðức Phật đang đi,
bèn chạy theo định giết. Anh ta hô to lên: Này sa môn kia, hãy
dừng lại đi! Ðức Phật vẫn thản nhiên bước đi. Anh ta đuổi theo và
hô to lên thêm hai lần nữa. Ðức Phật từ tốn nói:
- * Như Lai đã
dừng từ lâu, chỉ có ông chưa chịu dừng mà thôi. Như Lai đã dừng
tạo nghiệp từ lâu, cho nên được tự tại an lạc. Nếu chịu dừng lại
như vậy, ông cũng sẽ được cảnh giới niết bàn không khác.
- Do tấm lòng đại
từ đại bi, đại hỷ đại xả, Ðức Phật đã cảm hóa được người ngoại đạo
mê tín kia, quay về chánh đạo, tu tập tinh tấn, đắc đạo giải
thoát. Ðó là đại đức Angulimala.
- Có người suy
nghĩ, mình đã "lỡ" tạo, quá nhiều tội nghiệp, ăn năn sám
hối, cũng chỉ bằng thừa, cũng chỉ vậy thôi, chi bằng tiếp tục, làm
ác như vậy, đến ngày tàn đời. Có người thường nghĩ: Chiếc áo trắng
tinh, dính một vết dơ, ai ai cũng thấy. Chiếc áo quá dơ, dính thêm
một vết, cũng chẳng khác gì! Họ thường nghĩ rằng: "Chết đi là
hết", không ai biết được, mình đã làm gì, tại sao không chịu,
hưởng thụ cho sướng, cả cuộc đời này? Họ không biết rằng, sau khi
chết đi, họ chỉ bỏ lại, cái thân tứ đại, còn các nghiệp báo, lành
dữ đã tạo, không thể bỏ lại, sẽ đi theo họ, như hình với bóng. Dù
muôn kiếp sau, họ vẫn phải trả, nặng nề hơn nhiều.
- Thí dụ như
những, người mãn tù ra, vẫn còn tiếp tục, gây tội tạo nghiệp, bằng
cách trả thù, người đã hại mình, thưa gửi kiện tụng. Thí dụ như
những, người có thân nhân, tới lúc phải trả, nghiệp báo đã vay, từ
nhiều kiếp trước, hưởng hết phước báo, mạng vong thảm tử, trong
các tai nạn, người đời chẳng biết, thức tỉnh ăn năn, sám hối
nghiệp chướng, làm thiện tạo phước, để ngừa nạn sau, lại đi dựng
chuyện, lòng tham sai khiến, kiện người đòi tiền, gây thêm tội
nghiệp, làm khổ chúng sanh! Như vậy tức là, người đời đang mê,
chưa chịu thức tỉnh, chưa chịu chăn trâu, chưa chịu kềm chế, vọng
tâm vọng tưởng, vọng thức vọng niệm.
- Nói một cách
khác: người đời đang bị, con trâu lôi kéo, đi trên con đường, u mê
tà vạy, xa lìa chánh đạo, đem lại khổ đau, nhiều đời nhiều kiếp.
Nếu người đời có, gặp tai gặp nạn, thân nhân thảm tử, theo Kinh
Ðịa Tạng, và Kinh Dược Sư, chúng ta nên vì họ, làm nhiều điều
phước thiện, cứu người và giúp đời, đem tài sản của họ, bố thí và
cúng dường, để hồi hướng cho họ, chứ tuyệt đối không nên, tạo tội
tạo nghiệp thêm, cho họ và cho mình.
- * * *
- 6) Bắt đầu giai
đoạn này, chúng ta cảm thấy được phần nào kết quả của việc chăn
trâu. Con trâu được trắng trẻo đôi phần. Tức là con người đã biết
hướng về việc thiện nhiều hơn, biết quên mình vì người nhiều hơn,
tâm tham lam ích kỷ, tật đố sân hận, si mê mờ tối, giảm bớt đi
nhiều. Con người làm chủ được hành động, làm chủ được lời nói, làm
chủ được ý nghĩ, tức là con người làm chủ được con trâu của mình,
đã chăn dắt con trâu theo đúng con đường mình mong muốn. Trong
kinh sách, con đường đó được gọi là "Bát Chánh Ðạo", người đó được
gọi là "Hành Giả", tức là người đang đi trên đường tu tập hành
trì. Ðó là người thực sự biết tu tâm dưỡng tánh.
- Trên bước đường
tu tâm dưỡng tánh, việc trước hết là xả bỏ tâm tham danh tham lợi,
tránh làm các việc ác, các điều bất lương bất thiện. Những sự
tướng bên ngoài như đi chùa, tụng kinh, niệm Phật, bố thí, cúng
dường, ấn tống kinh sách, trích huyết tả kinh, giúp đỡ người già,
kiếm nhà cho trẻ, giới thiệu việc làm, là những điều hết sức cần
thiết, trên bước đường tu tập, để tạo phước báu, nhưng như vậy
thôi, thì cũng chưa đủ. Tại sao như vậy? Bởi vì người đời, thường
làm việc thiện, với cùng tâm niệm: muốn được phước báu, muốn được
khen thưởng, muốn người biết đến, muốn được trả ơn, muốn lên thiên
đàng, muốn về cực lạc. Những tâm niệm như vậy chính là vọng tâm
tạp niệm, chính là con trâu đen thủi đen thui vậy.
- Tu theo đạo
Phật là phải giác ngộ và giải thoát, tức là chuyển hóa con trâu
đen thành con trâu trắng. Trong tâm còn có chữ "muốn" là còn bị
trói buộc, dù là muốn về cực lạc, muốn lên thiên đàng! Khi còn
muốn như vậy, chúng ta dễ bị dụ dỗ, dễ bị gạt gẫm, dễ bị mù quáng,
dễ đi sai đường, lầm đường lạc nẻo, lạc vào ngoại đạo, rơi vào tà
giáo, lúc nào không hay.
- Hành giả tu
tập, tận tâm tận tình, tận sức tận lực, mới mong nhận được, bản
tâm thanh tịnh. Tuy nhận ra rồi, nhưng mà vẫn còn, chợt hiện chợt
ẩn. Hành giả quyết tâm, ngưng việc tạo tội, chỉ làm việc thiện,
tạo phước mà thôi. Cho nên lúc này, con trâu của mình, chỗ đen chỗ
trắng. Mặt trời trí tuệ, lúc sáng lúc mờ, vì vẫn còn bị, mây đen
che khuất. Con thuyền bát nhã, còn phải vượt qua, nhiều cơn sóng
gió, bát phong của đời, chưa đến bến bờ, một cách bình yên.
- Tâm của chúng
ta, cũng vậy chẳng khác, vừa mới an ổn, vui tươi thoải mái, bổng
dưng có người, đến nói khó nghe, hoặc cũng như là, con cái cãi
lộn, không biết nghe lời, chỉ dạy của mình, hay là vợ chồng, bất
đồng ý kiến, về một vấn đề, vọng tâm vọng tưởng, vọng thức vọng
niệm, liền dấy khởi lên. Con trâu của mình, lại nổi cơn lên, phải
thực khéo lắm, mới điều phục được. Kéo dài lâu lắm, tâm của chúng
ta, mới dịu trở lại. Nhưng chẳng bao lâu, chuyện khác xảy đến, con
trâu của mình, lại lồng lộn lên.
- Bởi vậy cho
nên, chúng ta mới thấy: "Ai bảo chăn trâu không khổ? Chăn trâu
chẳng sướng lắm đâu!" . Trong giai đoạn này, theo trâu thì dễ,
chăn trâu khó lắm, khó lắm khó lắm, thiên nan vạn nan. Tuy nhiên,
chúng ta nên biết, trong sách có câu:
- Vô ma khảo bất thành đại đạo
Nhân bất phong sương vị lão tài.
- Người không sương gió khó thành
công
Người không khổ đau sao ngộ đạo.
- Nghĩa là trên
bước đường tu tập, hành giả nếu gặp những ma chướng, những bước
thăng trầm, những nghịch duyên, những thử thách, những bát phong,
những sương gió, mới chứng tỏ ý chí mạnh mẽ, kiên tâm trì chí, bồ
đề tâm kiên cố, mới trở thành người tài ba lão luyện, mới đạt được
đạo cả chí thượng.
- Bàn về chuyện
dễ hay khó, Thiền sư Linh Chiếu, con gái của Ngài Cư Sĩ Bàng Long
Uẩn, có dạy: "Dã bất nan, dã bất dị, cơ lai khiết phạn, khốn
lai thùy".
- Nghĩa là: "Chẳng có khó, cũng
chẳng dễ, đói đến ăn cơm, mệt ngủ khò".
- Thực là đơn giản! Vậy mà ít người
chú tâm chú ý thực hành! Tu tập tinh tấn đạt được kết quả hay
không, đa phần do mình có quyết tâm mạnh mẽ hay không, một phần
cũng do có phước duyên, gặp được minh sư chỉ dạy, gặp thiện hữu
tri thức hướng dẫn.
- * * *
- 7) Chúng ta còn
sống trên đời, khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần, vọng tâm vọng
tưởng, vọng thức vọng niệm, vẫn còn khởi lên. Ý nghĩ này vừa dấy
lên, tạp niệm khác liền tiếp theo. Tuy nhiên, chúng ta đã biết
cách chăn trâu, nghĩa là luôn luôn sống trong tỉnh giác tỉnh thức,
sống trong chánh niệm. Nhờ công phu tu tập lâu ngày, con trâu tạm
thuần, mỗi khi niệm khởi lên, chúng ta liền nhận biết ngay, không
theo.
- Trong Kinh Pháp
Bảo Ðàn, Lục Tổ Huệ Năng có dạy: "Ðừng sợ niệm khởi. Chỉ sợ
giác chậm", chính là nghĩa đó vậy.
- Vọng tâm, vọng
tưởng, vọng thức, vọng niệm, do đó sẽ lặng đi. Ðó là công phu tu
tập đã sâu, sức mạnh của con trâu đã giảm, tức là sức cuồng loạn
của tâm ý không còn.
- * Ðây mới
chính là ý nghĩa thiết yếu của việc tu tâm dưỡng tánh theo đạo
Phật: "Trong tâm khởi niệm, nếu giác kịp thời, liền biết không
theo, đó là chơn tâm. Trong tâm khởi niệm, nếu còn mê muội, không
giác kịp thời, liền theo niệm đó, trở thành vọng tâm".
- * Cũng ví
như là: Khi có gió thổi, mặt biển nổi sóng, gọi là biển động. Khi
có gió thổi, mặt biển vẫn bình yên, đó là biển thái bình, ví như
bản tâm thanh tịnh. Tu theo đạo Phật, không phải chỉ có, cúng kiến
lễ lạy, van xin cầu nguyện, không còn gì khác.
- Sau khi hành
giả chăn dắt một thời gian, con trâu thuần phục được tới đâu, hành
giả khỏe tới đó. Tu tập dụng công tới đây đã được nhẹ nhàng, đã
bớt phần nhọc nhằn. Con trâu không còn đi húc càn, dẫm đạp lúa mạ
của người. Con trâu của mình đã khá ngoan ngoãn. Ðến đây, hành giả
không còn bị con trâu dẫn dắt, lôi kéo, nên đã dừng nghiệp và
chuyển nghiệp, không còn tạo nghiệp mới nữa. Thí dụ như trong gia
đình, có chuyện bất bình, tâm ý không còn khởi niệm, bực tức giận
hờn, một cách dễ dàng như trước. Thí dụ như khi đang làm việc,
hoặc khi đang chạy xe trên đường phố, gặp chuyện bất như ý, gặp
cảnh bực bội, tâm ý vẫn không khởi niệm nào, dù là khởi ý niệm
tốt, như là tự nhủ rằng, thi ân bất cầu báo, chẳng hạn.
- Trong Kinh Pháp
Bảo Ðàn, Lục Tổ Huệ Năng có dạy:
- "Không khởi niệm nghĩ thiện
Không khởi niệm nghĩ ác
Bản lai diện mục hiện tiền".
- Nghĩa là: Dù
khởi niệm thiện hay khởi niệm bất thiện, tâm thức của con người
cũng giao động. Khi trong tâm thức, không có niệm khởi, con người
sống với cảnh giới niết bàn hiện tiền. Ðó chính là lời dạy, đã
giúp Thượng Tọa Huệ Minh khai ngộ, nhận được "Bản lai diện mục",
còn gọi là Chơn Tâm Phật Tánh.
- Lợi ích thiết
thực trước mắt của pháp môn chăn trâu là chúng ta ngày ăn được
ngon, tối ngủ được yên, đêm không ác mộng. Tại sao vậy? Bởi vì con
trâu đã ngoan ngoãn, theo sự chăn dắt của mình, nên cũng ngủ yên
rồi! Ban ngày tâm trí loạn động, ban đêm nhứt định có ác mộng. Ban
ngày tâm trí bình tĩnh thản nhiên tự tại, ban đêm nhứt định có
giấc ngủ an lành. Những người nào đã, chăn được con trâu, tánh
tình trở nên, vui vẻ cởi mở, hiền hòa tươi tắn, dễ thương dễ chịu,
hòa hợp với mọi người, thích ứng với mọi cảnh, nhẫn chịu với mọi
thời, hài lòng với mọi việc, không hay khiếu nại, không thích
nhiều chuyện, không muốn tranh đua, không chịu hơn thua, không
tranh cãi vã. Do đó cuộc sống đương nhiên an lạc và hạnh phúc.
- Chư Tổ có dạy:
- "Nội cần khắc niệm chi công.
Ngoại hoằng bất tranh chi đức".
- Nghĩa là: Bên
trong khắc chế được tâm niệm lăng xăng lộn xộn, tức là luôn luôn
chăn trâu, được gọi là công phu tu tập. Bên ngoài hành trì đức độ
của người không tranh cãi. Ðó là những việc phải làm của người
chân tu thực học.
- Những chuyện cũ
từ năm xửa năm xưa, nếu có hiện trở lại trong tâm trí, mà chúng ta
không theo, dừng lại kịp thời, không tiếp tục nhớ nghĩ đến nữa,
thì nó sẽ lặng đi, lâu ngày cũng sẽ quên luôn! Kho tàng tâm thức
sẽ dần dần vơi đi, cho đến khi hoàn toàn trống trơn. Tâm trí sẽ
dần dần nhẹ nhàng, khinh an. Cái gì mình còn nhớ, lập đi lập lại
nhiều lần, thì sẽ nhớ dai, nhớ kỹ nhớ rõ, nhớ từng chi tiết. Thí
dụ như một bản nhạc quen thuộc hiện lên trong tâm trí, nếu mình ư
ử ca theo, mình sẽ nhớ dai lâu dài, có thể nhớ suốt đời. Thí dụ
như có người bụng bảo dạ rằng: "Thù người truyền kiếp, năm mười
năm sau, trả thù không muộn. Sống để dạ chết mang theo". Thực là
dễ sợ! Con người như vậy sẽ bị con trâu của mình lôi kéo tạo tội
tạo nghiệp, từ chết tới bị thương mà thôi.
- Ðến giai đoạn
này, do công phu tu tập đem lại nhiều ích lợi cho thế gian, hành
giả được xưng tụng tán thán, có thể khởi tâm ngã mạn, liền gặp
ngay chướng ngại trên đường tu. Hành giả tự cảm thấy công phu tu
tập của mình khá quá, ít người đạt được như mình, khởi tâm thích
làm thầy thiên hạ, tự xưng sơn tăng, tự xưng trang chủ, tự lập
thiền trang, tự làm thiền sư, tự tung tự tác, bắt đầu kẹt danh lợi
ngay trên đường tu. Trường hợp của ngài Ngộ Ðạt Quốc Sư ngày trước
là một thí dụ điển hình.
- Trong Kinh Di
Giáo, Ðức Phật có dạy:
- "Chủng chủng hý luận kỳ tâm tắc
loạn.
Nhược đắc định giả tâm tắc bất tán".
- Nghĩa là người
nào chứa chấp quá nhiều chuyện thị phi, đúng sai phải quấy, tranh
đua hơn thua, tâm ý của người đó tức nhiên loạn động. Còn người
nào chăn dắt được con trâu của mình, tức là khắc chế được tâm niệm
của mình, người đó đạt được cảnh giới thiền định, dù là sơ thiền,
nhị thiền tam thiền, hay được tứ thiền, tâm ý không còn tán loạn
nữa.
- * * *
- 8) Sau một thời
gian lâu hay mau, dài hay ngắn, tùy theo căn cơ, trình độ, hoàn
cảnh, khả năng của mỗi người, hành giả quyết tâm chăn trâu, quyết
chí tu dưỡng, tận tâm tận tình, tận sức tận lực, chuyển hóa tâm
tánh, nhứt định thuần phục được con trâu tâm ý của mình. Lúc đó
hành giả, hoàn toàn tự tại, giải thoát phiền não, khổ đau cuộc
đời, không còn hay bị, cảnh trần kích động, lôi cuốn quyến rủ, chi
phối tác động.
- Hành giả luôn
luôn, hướng về những việc, ích lợi mọi người, lời nói đạo đức, êm
dịu hòa nhã, ý nghĩ hiền hậu, tư tưởng hòa vui, từ bi hỷ xả, thêm
bạn bớt thù, có đủ khả năng, đem đạo vào đời, làm sáng thêm đạo,
tạo đời an vui, xoa dịu nỗi khổ, làm cho mát lòng, của nhiều người
khác, ví như cam lồ, của Ðức Quán Âm, rưới khắp thế gian, tắm mát
tâm hồn, đang bị nhiệt não. Ðó là những bực, chân tu thực học,
thiện hữu tri thức, có thể giúp đỡ, những người hữu duyên, trên
đường tu tập, hoặc chuyển hóa được, tâm niệm những người, sống ở
chung quanh, bất luận người thân, hay là kẻ thù.
- Tu tập đến đây,
lúc nào cần suy nghĩ thì suy nghĩ, lúc nào cần làm việc thì làm
việc, mọi lúc khác thì trống không lặng lẽ, vô tâm vô niệm. Tu tập
càng tiến, tâm trí càng thảnh thơi nhẹ nhàng, thấy người nào cũng
có điểm tốt để mình noi theo, thấy cảnh vật nào chung quanh cũng
vui tươi đẹp đẽ hơn. Người chưa tu hay mới bắt đầu phát tâm tu,
tâm trí còn cuồng loạn, vì chứa chấp quá nhiều chuyện tranh chấp,
cố chấp chấp chặt, chấp nê phiền não, cho nên cảm thấy cảnh vật
nào chung quanh cũng buồn bã chán chường, cảm thấy người nào cũng
xấu xa đê tiện, phiền toái bực mình, đâm ra cau có, quạu quọ nhăn
nhó. Nhưng khéo biết điều phục, biết cách chăn trâu, một thời gian
sau, tâm trí an lạc, cảm nhận hạnh phúc, cảm thấy mọi người, dễ
mến dễ thương, cảnh vật tươi sáng, không gian đẹp đẽ. Do đó, chúng
ta nên biết: tu tâm dưỡng tánh chính là chuyển đổi tâm tánh trở
nên thanh tịnh tốt đẹp, chứ không phải chuyển đổi cảnh vật bên
ngoài. Bởi vậy cho nên, trong sách có câu:
- "Tâm buồn cảnh được vui sao
Tâm an dù cảnh ngộ nào cũng an".
- Giai đoạn này
là lúc hành giả đã biết dừng nghiệp và chuyển nghiệp. Mắt trông
thấy sắc rồi thôi, không còn lưu giữ bất cứ hình sắc nào trong kho
tàng tâm thức, dù đẹp dù xấu, dù dễ thương dù thấy ghét. Tai nghe
thấy tiếng, nghe rồi thì không, không giận không hờn, không yêu
không hận. Trong lòng, trong tâm thức, không khởi lên bất cứ một
niệm nào, khởi lên là liền biết, không theo, niệm đó sẽ lặng đi.
Không theo có nghĩa là: không để cho con trâu dẫn dắt mình đi tạo
nghiệp! Ðến đây, hành giả nhận ra rằng, hạnh phúc của mọi người
trên thế gian cũng là hạnh phúc của mình. Tâm địa bồ tát, tấm lòng
vị tha, vì người quên mình, của hành giả tăng trưởng. Hành giả
mang đạo vào đời, làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô
nhiểm. Hành giả thanh thản, thảnh thơi, thơi thới, nhẹ nhàng bước
ra khỏi cảnh trầm luân, sanh tử luân hồi. Trong kinh sách, có bài
kệ như sau:
- "Mắt trông thấy sắc rồi thôi
Tai nghe thấy tiếng nghe rồi thì không
Trơ trơ lẵng lặng cõi lòng
Nhẹ nhàng ta bước khỏi vòng trầm luân".
- Tánh giác của
con người hiển lộ nơi sáu căn, đó là: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và
ý. Khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc
và pháp, mà không sanh khởi vọng tâm, vọng tưởng, vọng thức, vọng
niệm gì cả, là lúc con người sống được với bản tâm thanh tịnh của
mình. Chẳng hạn như có người đến chửi mắng nhục mạ, tức là lỗ tai
tiếp xúc với tiếng chửi mắng, mà mình vẫn bình tĩnh thản nhiên,
tức là âm thanh khó nghe đó không làm cho mình nổi sân, không làm
cho mình phát khởi vọng tâm, vọng tưởng, vọng thức, vọng niệm gì
cả. Nói một cách khác: Dù gặp bát phong, dù gió thổi đến, mặt biển
bản tâm thanh tịnh không hề gợn sóng, dù nhỏ dù lớn. Lúc đó công
phu tu tập thuần thục lắm rồi.
- * * *
- 9) Khi tâm địa,
hay tâm thức của hành giả, hoàn toàn không tịch, trống rỗng lặng
lẽ, lẵng lặng thanh tịnh, không còn chứa chấp những vọng tâm, vọng
tưởng, vọng thức, vọng niệm nào cả, thì trí tuệ bát nhã tự bừng
sáng. Tâm được thanh tịnh thì cảnh vật cũng thanh tịnh, chúng sanh
chung quanh cũng được bình yên.
- Trong kinh Tịnh
Danh và kinh Tâm Ðịa Quán, Ðức Phật có dạy:
- "Tâm tịnh thì độ tịnh".
"Tâm địa bình thì thế giới bình".
- Những vọng tâm
vọng tưởng, vọng thức vọng niệm, đều đã dứt sạch. Không còn tham,
không còn sân, không còn si. Tu tập đến đây, hành giả đạt được
"cảnh giới bất nhị", tức là không còn kẹt hai bên, không còn thị
phi, không còn phải quấy, không còn tranh chấp, không còn hơn
thua, không còn tạo tội, không còn tạo nghiệp, không còn cố chấp.
Trong kinh sách còn gọi đó là cảnh giới "vô tâm vô niệm", như Ðức
Phật đã dạy trong Bát Nhã Tâm Kinh: Lúc đó hành giả sống được an
lạc tự tại, vô quái ngại, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng
tưởng, đạt được cứu kính niết bàn.
- Tổ Sư Thiền
Phái Trúc Lâm, ngài Ðiều Ngự Giác Hoàng, tức là Hoàng Ðế Trần Nhân
Tôn, có dạy: "Ðối cảnh vô tâm mạc vấn thiền".
- Nghĩa là: Ðối
trước mọi cảnh trần, không khởi bất cứ tâm niệm gì, gọi là vô tâm,
tức là hành giả đang sống trong cảnh giới thiền định, không cần
hỏi, khỏi cần nghi.
- Thiền sư Bá
Trượng Hoài Hải có dạy: Tâm địa nhược không, tuệ nhựt tự chiếu.
- Một căn phòng tăm tối ngàn đời,
nhưng chỉ cần bật điện một cái, hay đem vào một ngọn đèn, thì liền
sáng tỏ ngay, đâu cần đợi ngàn năm sau nữa, mới chịu sáng lại.
Cũng vậy, khi hành giả chịu mồi ngọn đuốc trí tuệ của mình với
ngọn đuốc Chánh Pháp của chư Phật, thì ngọn đuốc trí tuệ của mình
cũng bừng sáng lên ngay. Giây phút bừng sáng đó, trong thiền tông,
gọi là ngộ đạo. Cũng như mây đen tan biến hết, tức là phiền não
tan biến hết, tâm thức trống rỗng lặng lẽ, thì mặt trời trí tuệ
bát nhã tự chiếu sáng.
- Trong Kinh Di
Giáo, Ðức Phật có dạy: Chế tâm nhứt xứ, vô sự bất biện.
- Nghĩa là khi
cột giữ được con trâu ở một chỗ, bằng cách tụng kinh, niệm Phật,
thiền quán, qua sự hiểu biết Chánh Pháp, tâm trí hành giả bình
tĩnh thản nhiên, không còn chuyện gì để cãi vã nữa, để tranh chấp
nữa, cho nên không có sự việc gì hành giả không biện luận, không
hiểu biết một cách thông suốt, sáng tỏ, rõ ràng. Ðiều này giải
thích cho chúng ta biết rằng, không có vị Phật nào không biết
thuyết pháp độ sanh.
- Trong Kinh Pháp
Bảo Ðàn, Lục Tổ Huệ Năng có dạy: "Tâm thông thì thuyết thông",
chính là nghĩa đó vậy.
- Hành giả nào
thực tâm tu học, không phân biệt tại gia cư sĩ, hay xuất gia tu
sĩ, tâm trí thông suốt, đạt được đến đâu, thuyết giảng đến đó, làm
lợi chúng sanh. Ví như trước có học hành, sau đó mới có thể làm
thầy chỉ dạy người khác.
- Hành giả đạt
đến giai đoạn này, tâm địa mở rộng, đồng nhứt bản thể với vạn
pháp, thấy mình và mọi loài chúng sanh không khác, trí tuệ bát nhã
càng phát triển, thế giới Phật càng mở rộng, đó là thế giới của
yêu thương, hòa hợp, cảm thông, an vui, lợi lạc, giác ngộ và giải
thoát. Hành giả cảm thông được nỗi khổ của chúng sanh. Hành giả
cảm thông được tâm bệnh của chúng sanh.
- Cho nên lúc nào
tâm từ tâm bi của hành giả cũng hướng về khắp chúng sanh mọi loài
sống chung quanh. Tu tập đến đây, bất cứ hành động nào, bất cứ lời
nói nào, bất cứ ý nghĩ nào của hành giả, cũng phát xuất từ bản tâm
thanh tịnh, bản tánh sáng suốt, cho nên đem lại thực nhiều ích lợi
cho thế gian, được mọi người chung quanh ngưỡng mộ, kính phục, qui
y, nương tựa, bởi vì cảm thấy mát dịu khi gần gũi, cảm thấy yên
tâm khi quan hệ, cảm thấy ích lợi khi cầu học.
- * * *
- 10) Khi đạt
được cảnh giới trên, hành giả đã thực sự bước đến gần quả vị Phật,
nghĩa là tâm của hành giả cũng gần như là tâm Phật. Hành giả đã
thảnh thơi lắm rồi, nhưng còn một cổng rào cuối cùng mới xong
việc. Có sách thiền gọi đó là "mạt hạ lao quan". Tại sao vậy? Bởi
vì tới đây, hành giả chưa quên được công phu tu tập của mình.
Nghĩa là con trâu đã biến mất, nhưng người chăn vẫn còn. Hành giả
đã mặc được áo nhẫn nhục của Như Lai, hành giả đã vào được nhà từ
bi của Như Lai, nhưng chưa hoàn toàn an vị trên tòa pháp không của
Như Lai, như Ðức Phật đã dạy trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
- Trong truyện
Tây Du Ký, tác giả diễn tả giai đoạn này bằng hình ảnh của Ngài
Pháp Sư Tam Tạng có thể bỏ hết của cải vật chất, địa vị trên thế
gian, cái gì cũng bỏ hết, để ra đi tìm đạo. Nhưng khi đến được đất
Phật rồi, Ngài vẫn không chịu đưa cho vị giữ tàng kinh các, cái áo
cà sa và bình bát bằng vàng, do nhà vua ban thưởng, tượng trưng
cho công phu tu tập từ trước đến nay, cho nên cũng chẳng thỉnh
được kinh sách giá trị, chưa đọc được kinh vô tự, ví như vẫn chưa
được quả vị Phật.
- Trong thiền
tông, giai đoạn này được ví như con trâu trắng đã chui lọt qua lỗ
kim, nhưng vẫn còn kẹt lại sợi lông đuôi, chính là nghĩa đó vậy.
Hành giả đạt được cảnh giới này, tâm không vướng bụi trần, an
nhiên tự tại trước mọi bát phong, bình tĩnh thản nhiên trước sóng
gió của cuộc đời, dửng dưng trước những thăng trầm của thế sự. Tâm
lượng đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả đã ba-la-mật. Nếu hành giả
vượt qua được đầu sào trăm trượng, hay vượt qua được vũng nước
chết, trong sách thiền gọi đó là vùng tử thủy, khi ấy mới được gọi
là VIÊN GIÁC, tức là giác ngộ một cách viên mãn, một cách hoàn
toàn, một cách trọn vẹn đó vậy. Ðến lúc này, trâu đã mất từ lâu và
bây giờ người chăn cũng không còn. Cảnh giới vô ngã này được diễn
tả bằng một vòng tròn trống rỗng, không thêm một chữ, không nói
một lời.
- Trong kinh sách
có câu: "Ðạo bổn vô ngôn thuyết", hoặc có câu: "Ngữ ngôn đạo
đoạn".
- Nghĩa là nguồn
gốc của đạo vốn không có lời nào có thể diễn đạt được, tâm được
thanh tịnh tức khắc khai ngộ, mở lời nói năng thì không còn thấy
đạo nữa rồi, tất cả chỉ là phương tiện, hoặc là hý luận mà thôi!
- Lý đạo đạt được
chỗ ngã pháp đều không, hoàn toàn thanh tịnh, hoàn toàn không
tịch, hoàn toàn sáng suốt. Trước kia, khi phát tâm bồ đề, muốn tu
tâm dưỡng tánh, hành giả đọc tụng và phát nguyện: "Chúng sanh
vô biên thệ nguyện độ". Ðến đây, sau một thời gian dài tu tâm
dưỡng tánh, hành giả đạt được cảnh giới: "Chúng sanh vô biên
đều độ xong". Nghĩa là trong tâm thức không còn chứa chấp bất
cứ một chúng sanh nào, tức là không còn khởi lên bất cứ một niệm
nào nữa cả, mỗi niệm có bóng dáng của chúng sanh.
- Trong lịch sử Ðức Phật Thích Ca,
ngay đêm trước khi Ngài chứng đạo, tất cả những niệm từ kho tàng
tâm thức của Ngài hiện lên đầy đủ, từ công chúa Gia Du Ðà La cho
đến thiên ma ba tuần, quỉ vương ba cõi, tất cả đều được Ngài độ
hết, độ xong Ngài thành đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác.
- * * *
- Pháp môn chăn
trâu thường được minh họa thành nhiều bộ tranh khác nhau, tùy theo
tông phái, mỗi bộ gồm 10 bức, nên được gọi là "Thập Mục Ngưu Ðồ",
tức là 10 bức tranh chăn trâu. Cũng giống như chuyện, người xưa
khuyên bảo, nên làm mỗi đêm, trước khi đi ngủ: kiểm điểm việc làm,
lời nói ý nghĩ, của mình trong ngày, bằng cách dùng cái hủ, bỏ vào
một hột đậu trắng, tượng trưng cho một hành động tốt, một lời nói
khéo, hay một ý nghĩ thiện, và bỏ vào một hột đậu đen, tượng trưng
cho một hành động xấu, một lời nói thô, hay một ý nghĩ bất thiện.
- Thoạt đầu,
thường ai cũng thấy trong cái hủ của mình, có nhiều đậu đen hơn
đậu trắng. Nếu chịu khởi công tu sửa, phát nguyện tu tâm dưỡng
tánh, một thời gian sau, trong hủ có nhiều đậu trắng hơn đậu đen.
Cho đến lúc không còn có đậu đen trong hủ, cũng là lúc khỏi cần
đậu đen hay đậu trắng nữa.
- Chính đó là
lúc: "Tâm Cảnh Nhất Như", con người trở nên toàn chân toàn
thiện toàn mỹ, nghĩa là người trâu đều mất, ngã pháp đều không, cả
hai dứt hết. Tu đến chỗ rốt ráo, các bức tranh chăn trâu cũng
không cần. Ví như sau khi đã qua sông, lên được bến bờ bên kia,
tức là bờ giác ngộ, trong kinh sách gọi là: đáo bỉ ngạn, hành giả
buông lái bỏ thuyền. Không ai lên bờ rồi, còn vác theo chiếc
thuyền hay chiếc bè trên vai làm chi cho nhọc nhằn. Ví như hết
bệnh thì ngưng thuốc, thuốc chỉ cần khi chữa bệnh mà thôi. Cũng
như sau khi giặt sạch chiếc áo rồi, phải xả bỏ hết xà bông, dính
trên chiếc áo đó. Không ai tiếc rẻ để lại xà bông trên áo, rồi mặc
trở vào.
- Trong Kinh Kim
Cang, Ðức Phật có dạy: "Pháp thượng ưng xả hà huống phi pháp".
- Nghĩa là: "Pháp
cao còn buông bỏ huống là các pháp khác".
- Khi đã đạt được
bản tâm thanh tịnh, bản tánh sáng suốt, có nghĩa là hành giả đạt
được trạng thái vô ngã, tự tại niết bàn, đâu còn chấp chặt cái
công phu tu tập bản ngã làm chi nữa.
- Trong Kinh Di
Giáo, Ðức Phật có dạy:
- Sau khi Như
Lai nhập diệt, người nào sống chuyên cần, tinh tấn, tỉnh giác,
chánh niệm, từ khước mọi tham ái thế gian, luôn luôn phát triển
thiền định, xem chính mình như hải đảo của mình, là chỗ nương tựa
của mình, không tìm nơi nương tựa ở đâu khác, bên ngoài chính
mình, người ấy sẽ bước ra khỏi con đường phiêu bạt vô định của đời
sống và chấm dứt sự phiền não khổ đau.
- Nghĩa là con
người phải luôn luôn giữ gìn tâm niệm, phát triển thiền định, tức
là phải chăn trâu, không cho xâm phạm lúa mạ của người, phải tự
mình cố gắng thoát ra khỏi sanh tử luân hồi, bằng công phu tu tập
của mình, chứ cầu nguyện van xin, hay lệ thuộc vào người khác tu
giùm mình, thì không có hiệu quả gì cả, làm sao giác ngộ và giải
thoát được?
- Tụng kinh, niệm
Phật, ngồi thiền, chính là những phương tiện giúp chúng ta chăn
trâu tốt nhứt, bởi vì khi đó thân thanh tịnh do ngồi ngay
ngắn yên một chỗ, khẩu thanh tịnh do im lặng hoặc nhờ tụng
lời Phật, ý cũng thanh tịnh do tập trung vào kinh kệ, nhớ
nghĩ chư Phật, không khởi tạp niệm.
- Tuy nhiên, pháp
môn chăn trâu không cần thời khắc biểu, cũng không cần tràng hạt,
không cần chuông mõ, không cần tọa cụ, không cần tại gia hay tại
chùa. Bất cứ lúc nào, bất cứ nơi nào, bất cứ hoàn cảnh nào, chúng
ta đều có thể áp dụng pháp môn chăn trâu, để tự tạo dựng cho mình
và cho những người chung quanh, một cuộc sống an lạc và hạnh phúc,
một cách tích cực, không van xin cầu khẩn.
- Nếu chúng ta
không biết cách chăn trâu, cứ để con trâu của mình đi húc càn,
báng bừa bải, từ làng trên đến xóm dưới, sẽ gây tai họa, gây
thương tích cho không biết bao nhiêu người quen biết chung quanh.
Chẳng hạn như trong một buổi họp mặt, người nào không biết cách
chăn trâu, sẽ phê phán bình phẩm, chê trách chỉ trích, phỉ báng
chế nhạo, ngạo mạn khinh người, cười chê tất cả, từ người thân cho
đến kẻ thù, từ người quen biết nhiều cho đến kẻ chưa hề quen biết,
từ vị nguyên thủ chí đến thứ dân, từ quan quyền trưởng giả cho đến
bàn dân thiên hạ!
- Ôi thôi, một
con trâu đen chạy húc lung tung, còn đáng sợ thay, nếu cả một bầy
trâu đen điên cuồng tụ tập, rồi xổng chuồng, thì không biết hậu
quả sẽ như thế nào?
- Chẳng hạn như khi rảnh rỗi ngồi
không, chẳng có làm việc gì, người không biết cách chăn trâu, sẽ
để tâm trí nghĩ ngợi lung tung linh tinh lang tang, để cho trâu
mặc tình dạo khắp xóm làng, có khi chợt nhớ lại chuyện xưa tự thuở
nào, đâm ra bực tức bất an, thực là tai hại vô cùng. Tai hại hơn
nữa nếu chúng ta cứ tiếp tục theo đuổi dòng tư tưởng đó, tức là
con trâu sẽ dẫn dắt chúng ta đến chỗ tạo tội tạo nghiệp. Thử nghĩ
với tâm ý lăng xăng lộn xộn như vậy, với vọng tâm, vọng tưởng,
vọng thức, vọng niệm, tạp nham như vậy, chúng ta có thể sống trong
cảnh giới niết bàn, cảnh giới cực lạc, với các bực thượng thiện
nhơn được chăng?
- Chúng ta thường
có tập khí nghĩ xấu về người khác, chưa bao giờ biết đến cảnh giới
niết bàn, cho nên thường nằm mơ thấy toàn ác mộng. Khi không có
duyên trần, thì tâm trí bình yên. Khi gặp trần duyên, thì tâm trí
loạn động. Việc huân tu như vậy chưa gọi là thuần thục.
- Tâm ý con
người, ví như tượng Phật, đúc bằng vàng ròng, vô cùng trong sạch,
vô cùng tinh khiết, vô cùng quý báu, nhưng vì chôn dấu, mhiều năm
nhiều tháng, nên bị bao phủ, bởi quá nhiều lớp, cát bụi dơ bẩn,
dầu hắc cứng ngắc. Chúng ta chắc phải, ra công cạo gọt, mài giũa
sửa chữa, tu bổ bồi đắp, tận tâm tận tình, tận sức tận lực. Cạo
được phần nào, bụi đất vô lượng, tượng Phật hiển lộ, ánh sáng
tương ứng. Cũng như dẹp được, phần nào phiền não, con người tìm
thấy, an lạc tương ứng, cuộc sống hằng ngày. Một thời gian sau,
cho đến một ngày, tượng Phật vàng ròng, trở lại nguyên trạng, sáng
chói rực rỡ, một cách toàn diện. Người nào không chịu, ra công dọn
dẹp, phiền não khổ đau, mà nguyện cho mau, về cõi tây phương, cực
lạc niết bàn, đó chỉ là việc: không ngủ mà mơ, đem cát đi nấu, mà
muốn được cơm!
- Trong Kinh Thủ
Lăng Nghiêm, Ðức Phật có dạy: "Sanh diệt ký diệt, tịch diệt
hiện tiền".
- Nghĩa là khi
phiền não hoàn toàn dứt sạch, các pháp sanh diệt lặng hết, thì
Phật Tánh tịch diệt hiển lộ toàn vẹn. Ðó là lúc con người đạt được
mục đích cứu kính của đạo Phật, sống trong an lạc và hạnh phúc,
bởi vì đã giác ngộ và giải thoát.
- * * *
- Tóm lại, pháp
môn chăn trâu giúp người tu tâm dưỡng tánh tiến từ thấp lên cao,
thấy rõ khả năng và bước tiến của mình, không bị lầm lạc. Và biết
rõ ràng rằng: "tu tập là trước khổ sau vui, nếu còn ham vui
không chịu tu tập là trước vui sau khổ", cho nên nỗ lực khắc
phục những khó khăn bước đầu, để tiến đến chỗ thành tựu viên mãn.
Chúng ta hãy cùng nhau hát lên:
- "Ai bảo chăn
trâu là khổ? Chăn trâu sướng lắm chứ! ".
- Chúng ta đã
hiểu biết pháp môn chăn trâu và quyết tâm chăn dắt con trâu của
mình trong từng giây phút hằng ngày, không lơ là, không giải đãi,
không lười biếng, không tự ti, không tự tôn, không sợ sệt, không
ngã mạn.
- Trong Kinh Di
Giáo, Ðức Phật có dạy:
- "Tu hành ví
như chăn trâu, cầm roi canh chừng, luôn luôn kiểm soát, không cho
nó xâm phạm lúa mạ của người".
- Chúng ta là
những người Phật Tử, hay không phải là Phật Tử, đều muốn có một
cuộc sống an lạc và hạnh phúc, ngay trên thế gian này, cho nên
phải biết áp dụng pháp môn chăn trâu. Bất cứ ai cũng có thể áp
dụng pháp môn chăn trâu một cách tích cực, trong mọi hoàn cảnh,
trong mọi tình huống, trong cuộc sống hằng ngày. Chẳng hạn như khi
đang làm việc, đang học hành, hay đang ăn uống, chúng ta chỉ nên
biết tập trung tư tưởng vào việc làm, vào việc học, hay ăn uống,
không nghĩ ngợi mông lung, không nhớ nghĩ lung tung, không lăng
xăng lộn xộn.
- Ngoài ra, bất
cứ khi nào, tư tưởng bắt đầu nghĩ quanh nghĩ quẩn, chúng ta biết
ngay là con trâu đang xổng chạy, bèn chăn giữ ngay, không chạy
theo nó, bị nó lôi kéo, dẫn mình đi rong, có khi đến chỗ, tạo tội
tạo nghiệp. Tức là chúng ta tích cực chăn trâu trong mọi hoàn
cảnh, nhứt là trong những lúc rảnh rỗi nghỉ ngơi, không có lúc nào
lơ là, hơ hỏng, lơi lỏng, không có lúc nào phí phạm thời gian. Do
đó cuộc sống có ý nghĩa hơn, tận dụng mọi thì giờ để chăn trâu,
không còn phải tìm cách giết thì giờ trống trải dư thừa, bằng
những cuộc vui giả tạm của thế gian. Tập trung được tư tưởng,
không lo ra, không nghĩ bậy, tức nhiên năng suất làm việc cao hơn,
kết quả tốt hơn.
- Chẳng hạn như
khi đang ngồi nghỉ ngơi, nhưng không nghĩ ngợi, hay đang nằm an
thần dưỡng sức, trước khi làm việc, hãy để tâm trí bình yên, trống
rỗng, lặng lẽ, tịch tịnh, không vọng tâm, vọng tưởng, vọng thức,
vọng niệm. Chỉ cần thiền định như vậy trong vài mươi phút, chúng
ta sẽ thấy thân và tâm đều được thoải mái, khinh an, nhẹ nhàng,
khỏe khoắn, tức nhiên năng suất làm việc chắc chắn sẽ cao hơn, kết
quả sẽ tốt hơn.
- Chẳng hạn như
khi bị kẹt xe trên đường phố, hay đang ngồi chờ đợi ai, chờ đợi
việc gì, đừng phí thì giờ một cách vô ích, chúng ta cũng có thể áp
dụng pháp môn chăn trâu, để giữ tâm trí được bình tĩnh thản nhiên,
an vui tự tại, không bồn chồn lo lắng, không nóng nảy giận hờn,
không thấp thỏm phập phồng, không lo âu sợ sệt, không ưu tư lo
nghĩ, không hơn thua phải quấy, không nhơn ngã thị phi. Thời gian
chờ đợi qua mau, một cách hữu ích.
- Lúc đi ngoài
đường, trong tâm trí có khởi niệm bất thiện hay niệm ác nào, lập
tức chận ngay, đừng dẫn con trâu điên đó về đến nhà mình. Ðược như
vậy, gia đạo chúng ta bình yên, không ai trong gia đình bị trâu
điên, từ bên ngoài vào, húc càn bừa bãi. Chúng ta nên biết, sở dĩ
Ðức Phật luôn luôn giữ trên khuôn mặt nụ cười siêu thoát, bởi vì
thân tâm của Ngài đều thực sự giải thoát. Do đó, những người dù có
tâm địa ác độc, đến với Ðức Phật, cũng trở thành hiền thiện.
- Trong Kinh A Di
Ðà, Ðức Phật có dạy:
- "Người nào
lúc sanh thời đạt được nhứt tâm bất loạn, khi lâm chung tâm không
điên đảo, tức thời được chư Phật cùng chư thánh chúng rước về tây
phương cực lạc quốc".
- Nhứt tâm bất
loạn, hay tâm không điên đảo, có nghĩa là: tâm trí không còn lăng
xăng lộn xộn, bản tánh hoàn toàn không tịch. Vọng tâm, vọng tưởng,
vọng thức, vọng niệm không còn nữa. Lúc ấy tâm thể người đó rỗng
lặng đồng với tâm thể chư Phật mười phương, nên kinh sách gọi là:
được vãng sanh tây phương cực lạc quốc đó vậy. Trong kinh sách có
câu: "Năng lễ sở lễ tánh không tịch", tức là: "Phật và
chúng sanh tánh thường rỗng lặng".
- Chúng ta thử
tìm hiểu câu chuyện sau đây: Có người đến hỏi Thiền sư Tùng Thẩm
Triệu Châu: Con chó có Phật Tánh không? Ngài đáp: - Không! Người
đó hỏi lại: Bạch Ngài, Ðức Phật dạy trong kinh sách, mọi chúng
sanh đều có Phật Tánh, tại sao con chó lại không có? Ngài đáp: -
Bởi vì "Nghiệp Thức Che Ðậy!". Tức là: có cũng như không!
- Có người khác
đến hỏi: Con chó có Phật tánh không? Lần này Ngài đáp: - Có! Người
đó hỏi lại: Bạch Ngài, Phật Tánh là tánh giác sáng suốt, tại sao
không chọn nơi sung sướng tốt đẹp đầu thai, lại chọn cái đãy da
lông lá lù xù, chui vào đó để làm con chó? Ngài đáp: - Bởi vì
"Biết Mà Cố Phạm!".
- Trong Kinh Tịnh
Danh, Ðức Phật có dạy:
- * "Mặt trời
mặt trăng vẫn thường sáng tỏ, tại sao người mù lại chẳng thấy?
Cũng vậy, chúng sanh vì nghiệp thức che đậy, chúng sanh thường
biết mà cố phạm, cho nên chẳng thấy thế giới Như Lai thanh tịnh
trang nghiêm, chẳng nhận ra bản tâm thanh tịnh thường hằng!",
chính là nghĩa đó vậy.
- Vậy từ bây giờ
trở đi, chúng ta xin phát nguyện, mỗi khi nhận thấy con trâu của
mình, bắt đầu chạy lung tung, dẫn dắt mình tạo tội tạo nghiệp, hãy
tự nhắc nhở: "Thôi, chăn trâu đi!".
- Và nên nhớ đừng
bao giờ hỏi người khác: "Chăn trâu đến đâu rồi?". Tại sao vậy? Bởi
vì khi đó, biết đâu con trâu của người đã trắng trẻo mịn màng,
hoặc đã biến mất từ lâu lắm rồi, chỉ còn con trâu của mình sắp sửa
húc người khác rồi đó vậy!"Thôi! Chăn trâu đi! Nhiều chuyện mà
chi!"./.
--o0o--
|
|