-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Cư Trần Lạc Ðạo
-
(Trọn bộ 3 tập)
-
Toronto, Canada
1999 - PL 2543
- ---
o0o ---
-
-
Tập 3
- [2]
- Ái ngữ
-
- Lời nói chẳng mất tiền mua
- Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.
- Tâm buồn chẳng nói lời nào,
- Tâm vui lời nói ngọt ngào dễ
thương.
- Khi yêu thương, nói sao cũng được,
- Hết thương rồi, nói ngược nói
xuôi.
- Trong cuộc sống
hằng ngày, để hiểu nhau biết nhau, trao đổi tin tức, phổ biến văn
hóa, con người thường dùng ngôn ngữ, tức là: chữ viết và tiếng
nói. Đôi khi, không cùng chữ viết, cũng không cùng tiếng nói,
nhưng con người cũng có thể hiểu biết nhau qua dáng điệu, cử chỉ,
nét mặt, thái độ, hay giọng nói.
- Một vấn đề lớn
đối với các gia đình người Việt sống ở hải ngoại đó chính là:
Vấn Đề Ngôn Ngữ.
- Đối với thế hệ
trước, tiếng Việt là tiếng mẹ đẻ, cho nên rành rẽ rõ ràng, còn
tiếng địa phương thì không thông thạo. Đối với thế hệ sau, tiếng
địa phưong thì thông thạo, tuy tiếng Việt là tiếng mẹ đẻ, nhưng
nói thì vấp váp, gượng gạo, ngọng nghịu. Tại sao vậy? Bởi vì thế
hệ sau hấp thụ văn hóa tây phương, tiếp xúc với xã hội bên ngoài
nhiều hơn, còn trong gia đình, thế hệ trước muốn tập nói tiếng địa
phương với thế hệ sau, cho nên thế hệ trước quên lửng chuyện dạy
dỗ tiếng Việt cho thế hệ sau, dù người mẹ đẻ là người Việt. Hai
thế hệ nói hai thứ tiếng khác nhau, tiếng Việt và tiếng địa
phương, cho nên không thể thông cảm nhau dễ dàng. Chuyện không
cảm thông nhau thường đưa tới việc đổ vỡ hạnh phúc gia đình, tức
nhiên cuộc sống phiền não khổ đau, không sao tránh khỏi được.
- Hai người nói
hai thứ tiếng khác nhau, thực khó cảm thông nhau như vậy. Còn hai
người cùng nói một thứ tiếng thì sao, có dễ cảm thông nhau chăng,
hoặc là ngược lại, có dễ đụng chạm nhau chăng? Tại sao vậy? Bởi
vì, tuy cùng nói một thứ tiếng, nhưng tùy theo lời nói, tùy theo
giọng nói, hay tùy theo cách nói, hai người có thể cảm thông nhau,
hoặc là đụng chạm nhau.
- Lời nói có ảnh
hưởng rất nhiều đến sinh hoạt đời sống của mọi người trên thế gian
này. Dù quen biết trước, hay chưa quen biết, khi gặp mặt nhau,
con người thường hay: chào hỏi với nhau. Một lời chào hỏi, khéo
léo lịch thiệp, vui vẻ cởi mở, có thể khởi đầu, một mối quan hệ,
tốt đẹp lâu dài.
- Có người mở
miệng nói, dù chỉ một lời, người nào cũng ưa, cũng thương cũng
mến, cũng có cảm tình, cũng tin tưởng được, cũng đều nghe theo.
Cũng có người mở miệng nói, dù có nói nhiều, cũng không ai tin,
cũng không ai nghe, cũng không ai ưa, cũng không ai thích. Có
những lời nói đem lại sự mát dịu trong tâm hồn người nghe. Người
nghe có cảm giác như vừa uống được một ngụm nước cam lồ tươi mát.
Cũng có những lời nói khiến người nghe phải đi xức dầu cù là, hoặc
là, phải uống thuốc nhức đầu, có khi ngất xỉu, hay là, nghỉ thở
luôn!
- * * *
- Trong phạm vi
bài này, chúng ta chỉ xét vấn đề lời nói, qua giáo pháp của nhà
Phật mà thôi. Trong giáo lý của đạo Phật, vấn đề lời nói được đề
cập đến trong Tứ Nhiếp Pháp, đó là "Ái Ngữ". Tứ Nhiếp Pháp là
pháp môn có công năng nhiếp phục nhân tâm, gồm có bốn điều: bố
thí, ái ngữ, lợi hành và đồng sự.
- Chúng ta hãy
xét qua: Thế nào là ái ngữ?
Ái ngữ chính là: lời nói dịu dàng, êm ái ngọt ngào, dễ nghe
dễ thương, phát xuất từ lòng từ bi hỷ xả, phát xuất từ tâm thanh
tịnh, phát xuất từ tấm lòng thương người như thể thương thân. Ái
ngữ không phải là lời nói đầu môi chót lưỡi, không phải là lời nói
hoa mỹ, không phải là lời nói tâng bốc khách sáo, cốt sao cho đẹp
lòng người nghe, một cách không thực, đôi khi hàm chứa dụng ý bên
trong. Ái ngữ có tác dụng đem lại an vui, bình yên thanh thản cho
người nghe. Ái ngữ có tác dụng an ủi vỗ về những tâm hồn nhiệt
não, âu lo sợ sệt.
- Bởi vậy, chúng
ta biết lời nói, cũng như tiếng cười, có khi gây được c?m tình tốt
đẹp, cũng có khi gây nên ác cảm, oán thù giữa con người với nhau.
Chỉ cần lỡ một lời nói, có khi hư hỏng việc lớn. Chỉ cần lỡ một
lời nói, có khi bị vạ lây, bị thưa kiện, thậm chí, bị tù tội, chỉ
vì người nghe không vừa tai, cho nên đặt điều đi cáo gian! Điều
này cũng tùy người, tùy lúc, tùy tâm trạng, hay tùy cảm giác của
người nghe nữa.
- Trong sách có
câu:
- "Bệnh tòng khẩu
nhập. Họa tòng khẩu xuất".
- Nghĩa là các
bệnh, thường từ cửa miệng, nhập vào cơ thể, gây nên tác hại. Tai
họa xảy đến, thường do lời nói, từ cửa miệng ra, gây nên tác hại.
Chúng ta biết rằng, ngoài danh và lợi, trên thế gian này, con
người thường hay, tranh chấp với nhau, chỉ vì lời nói. Hai người
nói chuyện, với nhau một lúc, không nhường nhịn nhau, không nhượng
bộ nhau, chắc chắn đưa tới, tranh chấp cãi vã. Người có trí tuệ
là người thực hiện được điều sau đây:
-
Lời nói chẳng động tâm ta.
-
Dù lời nói ngọt hay là đắng cay.
- Người có trí
tuệ là người không bị lầm lẫn, không bị mê hoặc, vì những lời nói
ngọt ngào, đầu môi chót lưỡi, không bị bực bội vì những lời nói
trực ngôn thẳng thắn. Những lời nói đường mật ngọt ngào, chót
lưỡi đầu môi, đôi khi dẫn dắt chúng ta đến cạm bẩy không ngờ, đến
chỗ tan nát hạnh phúc gia đình, đến chỗ thân tàn ma dại, đến chỗ
thân bại danh liệt, đến chỗ tán gia bại sản, đến chỗ tiêu tan sự
nghiệp, có khi chết chẳng kịp ngáp, chẳng kịp hiểu tại sao!
- Những lời nói
trực ngôn ngay thẳng, tuy không khéo léo, nhưng thường giúp đỡ
chúng ta tỉnh ngộ, thoát khỏi những cơn mê lầm, không còn vướng
vòng tà đạo! Khi tâm bình tĩnh thản nhiên trước mọi hoàn cảnh,
chúng ta mới có thể làm chủ được lời nói, kiểm soát được hành động
và chế ngự được tư tưởng của mình. Còn khi tâm loạn động, chúng
ta càng nói càng tức giận thêm, càng làm càng sai trái thêm, càng
suy nghĩ càng rối trí thêm. Bởi vậy cho nên, trong sách có câu:
-
Muốn nói bớt bảy còn ba.
-
Bớt hai còn một, mới là an vui.
- Chư Tổ có dạy:
-
"Nội cần khắc niệm chi công.
-
Ngoại hoằng bất tranh chi đức".
- Nghĩa là bên
trong, chúng ta luôn luôn, chế ngự khắc phục, thúc liễm tâm niệm,
lăng xăng lộn xộn. Mỗi khi những niệm, lăng xăng lộn xộn, khởi lên
trong tâm, chúng ta liền biết, bỏ đi không theo. Mọi chuyện sẽ
yên, an vui lợi lạc. Lúc đó gọi là: "Bản tâm thanh tịnh". Còn
thế nào là: Tâm niệm lăng xăng? Đó là tâm niệm: phân biệt kỳ thị,
tranh chấp hơn thua, tự cao tự đại, tự đắc tự ái, tự phong tự mãn.
Nói chung, những niệm do tâm: chấp ngã và chấp pháp, đều là vọng
niệm, lăng xăng lộn xộn.
- Hiểu biết như
vậy, chính là công phu, tu tập thực sự, của người Phật Tử, tại gia
xuất gia. Đối với bên ngoài, chúng ta luôn luôn, giữ hạnh nhẫn
nhịn, luôn luôn thực hành, hạnh nguyện lắng nghe, không lời phê
phán, không hề tranh cãi, dù là chuyện lớn, chuyện nhỏ cũng vậy.
Hiểu biết như vậy, chính là đức độ, tu tập thực sự, của người Phật
Tử, tại gia xuất gia. Người nào muốn có, công đức thực sự, phải
nên triệt để, thực hành lời dạy, của chư Tổ Sư, chứ không phải là:
đi chùa thiệt nhiều, cúng kiến thiệt nhiều, lễ lạy thiệt nhiều,
làm phước thiệt nhiều, tưởng rằng như vậy, được nhiều công đức,
phước đức hàng đầu. Thực chẳng phải đâu! Trong sách có câu:
-
Lời nói đổi trắng thay đen.
-
Thiên đàng địa ngục bon chen lối nào?
-
Trực ngôn tâm chẳng lao xao.
-
Giữ tâm thiền định, biết bao an lành.
- Người đời gọi
mình: là Ngài là Thầy, Cụ Ông Cụ Bà, Cô Bác Cậu Mợ, Chú Thím Dì
Dượng, là gì chăng nữa, thậm chí là "Thằng", thực cũng chẳng sao,
người có lòng nào, tự họ biết lấy, mình chẳng bận tâm, an nhiên tự
tại, dại gì lại giận, người dửng người dưng, không thân không
thích, cũng chẳng mích lòng, lòng vòng thêm mệt!
- Người đời
thường nói: "Cái lưỡi không xương, nhiều đường lắc léo". Nghĩa là
cái lưỡi của con người không có xương, cho nên con người muốn nói
kiểu nào, muốn nói cách nào, muốn nói thế nào, tùy theo trường
hợp, tùy theo hoàn cảnh, tùy theo nhân cách của mỗi người. Những
người thường hay, nói ngược nói xuôi, không giữ uy tín, không giữ
tư cách, không giữ lời hứa, người ta mỉa mai: đó là hạng người,
trở mặt nuốt lời, như người đời trở bánh tráng!
- Trong sách có
câu: "Một người nói ngang, ba làng không cãi lại". Nghĩa là: khi
có một người, nói năng ngang tàng, bất kể lẽ phải, bướng bỉnh cố
chấp, đi khắp ba làng, chẳng ai đếm xỉa, chẳng ai thèm cãi, chẳng
ai ngu dại, phí công phí sức, phí cả thời gian, hơn thua với họ.
Chứ không phải: ba làng cãi không lại!
- Ngày xưa có
chuyện: Một người vô minh, chưa hiểu Chánh Pháp, cho nên luôn
luôn, buông lời chỉ trích, gièm pha mạ lỵ, phỉ báng đủ điều. Cho
đến ngày kia, nhờ đủ nhân duyên, bỗng dưng hiểu biết, người đó ăn
năn, hối hận vô cùng. Người đó nghĩ rằng: chỉ còn có cách, cắt
đứt vứt đi, cái lưỡi của mình, mới mong có thể, chuộc lại lỗi lầm,
quá sức to lớn, đã làm trước đây. May mắn lắm thay, khi sắp thực
hiện, ý định cắt lưỡi, người đó gặp lại, anh ruột của mình, vốn là
một vị, thiền sư đắc đạo.
- Người anh
khuyên rằng: Ngày này trước kia, vì không hiểu biết, đã dùng cái
lưỡi, phỉ báng Chánh Pháp, tạo tội tạo nghiệp. Giờ đây hiểu được,
mọi sự mọi việc, hãy dùng cái lưỡi, xiển dương Chánh Pháp, đem lại
ích lợi, cho thực nhiều người. Cũng một cái lưỡi, giúp người hại
người, tùy theo tâm tánh, của mỗi cá nhân. Con người thực ra,
sống với tâm ma, hay là tâm Phật?
- Bởi vì lời nói
của mình khó nghe, người đời thường gọi là nói đâm hơi, nói móc
họng, cho nên không có ai muốn kết bạn với mình, không có ai dám
làm thân với mình, không có ai dám tâm sự với mình. Tại sao vậy?
Bởi vì, sống ở trên đời, đâu có ai thích, bị người khác chơi, bới
móc đời tư, bươi móc dòng họ, tổ tiên của mình, khai ra lý lịch,
đưa lên mặt báo, bàng dân thiên hạ, mọi người đều biết. Cũng vậy,
nếu mình kênh kiệu điêu ngoa, đốp chát thẳng thừng, chẳng ngừng
chửi bới, lên mặt thầy đời, khuyên người lương thiện, hiền lành dễ
thương, còn mình thì không, chơi người chẳng ngừng, tưng bừng đăng
báo, làm thơ lếu láo, nhắn gửi chửi người, chắc chắn có ngày,
người ta chơi lại, chết chẳng kịp ngáp, chẳng kịp niệm thầm: Mô
Phật, cứu con!
- Lời nói đôi khi
có những tác dụng không thể lường trước được. Có những lời nói có
thể đem lại an vui, hạnh phúc cho người. Có những lời nói có thể
đem lại sự ly tán, tan nát hạnh phúc của người khác, đôi khi đổ vỡ
hạnh phúc của chính người nói nữa. Có những lời nói, làm cho người
nghe, mỉm cười tươi tắn, vui vẻ khỏe khoắn. Có những lời nói,
khiến cho người nghe, nhăn mặt nhíu mày, đau đầu nhức óc, lộn gan
lộn ruột, nhói tim mất ngủ! Có những lời nói có thể cứu người,
cũng có những lời nói có thể hại người, một cách dễ dàng.
- Thí dụ như là:
Lời nói của vị, luật sư lương tâm, khó kiếm khó tầm, chức nghiệp
cao quí, có thể cứu người, thoát khỏi tội oan, còn như mưu toan,
của một nhân chứng, khai gian nói dối, làm cho người khác, phải bị
tù tội. Một vị bác sĩ, khéo lựa lời nói, khuyến khích khuyên lơn,
an ủi động viên, làm dịu tinh thần, giúp được bệnh nhân, yên tâm
dưỡng bệnh, chóng qua hiểm nghèo, sớm được bình phục. Bằng như
ngược lại, lời nói vô ý, có thể làm cho, bệnh nhân kích động, bệnh
tình trầm trọng, tắt thở tức thì.
- Cũng như lời
nói, của nhà ngoại giao, hay các sứ thần, hoặc các sứ giả, có thể
đem lại, hòa bình hai nước, hoặc gây chiến tranh, binh lửa lan
tràn, khắp cả mọi nơi. Nhiều khi lời nói, của một con người, sức
mạnh lớn hơn, cả một đoàn quân. Có người thường nói năng ngọt
ngào với người dưng bên ngoài, nhưng đối với những người thân
thích, bên trong gia đình, không bao giờ lời nói được ngọt ngào
như vậy.
- Con người
thường thường, không ưa thích nhau, làm mích lòng nhau, chỉ vì lời
nói, ngay cả bạn thân, hay giữa vợ chồng, cha mẹ con cái. Tuy
nhiên đến khi, một người bất hạnh, chẳng may qua đời, người khác
kể lể, dài dòng văn tự, khóc lóc thảm thiết, nói lời tha thiết,
nhớ nhung da diết, dù có hối hận, cũng quá muộn màng!
- Có chuyện lạ đời, trên thế gian
này, chuyện đó chính là: con người thường chỉ, có thể nói chuyện,
ngọt ngào dễ thương, với người nằm xuống, chỉ còn nằm yên, bất
động để nghe, không còn đối đáp, cãi cọ được nữa, hoặc là nói
chuyện, hằng ngày hằng giờ, với tấm mộ bia, ở ngoài nghĩa địa.
Nhưng khi người đó, còn sống hiện tiền, con người chẳng thể, mở
miệng nói ra, nói được lời nào, cho thiệt dễ nghe, cho thiệt dễ
thương! Tại sao như vậy? Có lẽ bởi vì, con người thường không,
sợ người còn sống, nhưng hay sợ người, đã chết trở về, bóp cổ mình
chăng?
- Con người có
thể, thương yêu súc vật, chó mèo chim chuột, cho đến côn trùng,
nhưng thường lắm khi, không thể chịu đựng, không thể nhịn được,
những người chung quanh, cha mẹ anh em, vợ chồng con cái, bạn bè
gần xa, hàng xóm láng giềng, chỉ vì một điều: lời nói của họ, sao
quá khó nghe! Tại sao như vậy? Bởi vì súc vật, không hề biết nghe,
không nói tiếng người, cho nên không bị, con người mích lòng!
Người đời thường nói: Hai gà ghét nhau, chỉ vì tiếng gáy. Hai chó
ghét nhau, chỉ vì tiếng sủa. Hai cô ca sĩ, bao giờ thương nhau?
- Có câu chuyện
của hai con chim như sau: Một hôm, con chim cú vọ, sửa soạn dọn
tổ, dời sang nơi khác. Con chim bồ câu, thấy vậy hỏi thăm: Chẳng
hay chị định, dọn tổ đi đâu? Cú vọ đáp rằng: Con người ở đây, ác
ôn quá xá, cứ hễ thấy tôi, đậu ở nơi đâu, họ liền ném đá, hoặc lấy
cây đập. Tôi không chịu nổi, định dọn tổ đi, qua ở phương tây, hy
vọng bên đó, dân chúng hiền lành, không như ở đây. Bồ câu bèn
nói: Ở chỗ hàng xóm, thân tình lâu nay, nói thiệt chị nghe, đừng
giận tôi nhé. Nếu chị không sửa, tiếng kêu ghê rợn, đinh tai nhức
óc, thực là khó nghe, dù chị đến đâu, cũng bị bạc đãi! ? những xứ
có nhiều sắc dân khác nhau cùng chung sống, người ta có thể không
hiểu người khác nói gì, vì bất đồng ngôn ngữ, nhưng người ta có
thể đoán được người khác muốn nói gì, qua sắc mặt, cách nói và
giọng nói. Cho nên sắc mặt, cách nói và giọng nói của chúng ta
cũng đóng một vai trò quan trọng, trong các cuộc giao thiệp, hay
tiếp xúc hằng ngày. Giọng nói êm ái, lễ độ tế nhị, ngọt ngào từ
tốn, sắc mặt hiền hòa, dễ thương dễ mến, nhiếp phục lòng người,
hơn là giọng nói, ồm ồm rào rào, ồn ồn ào ào, chanh chua khế chát,
the thé khó nghe, mặt mày đỏ ké, khoa tay múa chân. Lời nói hiền
từ, hòa nhã thanh tao, thân thiết thành thật, ngay thẳng rõ ràng,
sáng suốt khôn khéo, cởi mở vui vẻ, rất là dễ dàng, cảm hóa lòng
người, có thể hướng dẫn, người vào chánh đạo. Trong sách có câu:
- Chim khôn hót
tiếng thanh nhàn.
-
Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe.
- Khi thực hành
hạnh bố thí, đồng thời, chúng ta nên thực hành ái ngữ. Nghĩa là:
khi cho vật gì, giúp đỡ việc gì, chúng ta nên làm, với cả tấm
lòng, từ bi bình đẳng, và dùng lời nói, êm ái dịu dàng, khuyên nhủ
an ủi, khuyến khích động viên. Chúng ta hiểu rằng: người cho nên
cám ơn người nhận, chứ không mong cầu người nhận nhớ ơn. Tại sao
vậy? Bởi vì, nhờ có người nhận, người cho mới có cơ hội làm
phước. Hiểu được như vậy, chúng ta đã thực hành hạnh bố thí một
cách thanh tịnh, bất cần vụ lợi, bất cầu báo đáp, bất kể ơn nghĩa,
trong kinh sách gọi là "Bố Thí Ba La Mật".
- Trong sách có
câu:
-
Miếng khi đói gói khi no.
-
Của tuy tơ tóc nghĩa so ngàn trùng.
- On nghĩa ngàn
trùng đó, chẳng qua do lời nói ái ngữ, khi đem cho một miếng vậy.
Nói một cách khác, ơn nghĩa tạo được từ cách đem cho, và, lời nói
khi cho, chứ không phải hoàn toàn do của đem cho. Sách cũng có
câu: "Cách cho hơn là của cho", chính là nghĩa đó vậy. Bằng như
ngược lại, người nào bố thí, với tâm mong cầu, những sự đền đáp,
trông đợi báo ơn, hoặc luôn miệng kể, ơn nghĩa đã làm, với nhiều
người khác, người đó chắc chắn, nhận sự phủ phàng, từ kẻ thọ ơn.
Và việc làm phước như vậy mất đi ý nghĩa cao đẹp. Phước báo nếu
có, cũng rất hạn hẹp, như tâm nhỏ hẹp, của người làm ơn. Người
đời mỉa mai, như vậy gọi là: bố thí ba la làng, hay: bố thí
la ba làng. Nghĩa là người đó bố thí tiền bạc, hay đem của cải
cho người khác, rồi la to lên cho cả ba làng, làng trên hay xóm
dưới, xóm giữa, đều biết. Nhiều khi không khéo dùng lời nói,
trong khi bố thí, thay vì được nhớ ơn, trái lại, người cho bị thù
oán, mà chẳng hề hay biết! Trong nhiều trường hợp, việc đó xảy ra,
ngay trong gia đình, giữa những người thân, ngay cả vợ chồng, cha
mẹ con cái, hay anh chị em!
- Trong các gia
đình, nếu không cảm thông, vợ chồng xung khắc, chỉ vì lời nói,
không ai nhịn ai, nên kiếm người ngoài, mời về đãi tiệc, tiệc lớn
tiệc nhỏ, có dịp chuyện trò, nhỏ to đủ chuyện, trên trời dưới
biển, thực phí thời gian, đáng lẽ dành cho, tu tâm dưỡng tánh. Có
những lời nói, trong các bửa tiệc, trà dư tửu hậu, tác hại vô
cùng, nguy hại khôn lường!
- Trong sách có
câu: "Nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy". Nghĩa là một lời nói
ra, bốn ngựa khó đuổi theo kịp. Có những lời nói nhẹ tựa lông
hồng, có những lời nói nặng tựa núi non. Có những lời nói như
vậy, nhưng thực không phải vậy. Sửa đổi được lời nói, sửa đổi
được giọng nói, sửa đổi được cách nói, tức là chúng ta đã sửa đổi
được tâm tánh, giảm bớt được khẩu nghiệp.
- Thực hành được
ái ngữ tức là tăng trưởng tâm Phật, tâm từ bi hỷ xả. Thực hành
được ái ngữ tức là dẹp được tâm ma, như là: tâm tham lam, tâm sân
hận, tâm si mê, tâm ganh ghét, tâm đố kỵ, tâm ganh tị, tâm hiềm
khích, tâm tật đố, tâm hơn thua, tâm ngã mạn, tâm khinh người, tâm
khen mình, tâm chê người. Thực hành được ái ngữ tức là tu tập
theo hạnh nguyện đại từ đại bi của đức Quán Thế Âm Bồ Tát, tầm
thinh cứu khổ chúng sanh. Chúng sanh thường đau khổ vì những lời
nói của nhau. Cho nên thực hành được ái ngữ tức là đem lại an lạc
và hạnh phúc cho mọi người chung quanh, đem nước cam lồ trong bình
thanh tịnh của đức Quán Thế Âm Bồ Tát, rưới vào tâm hồn đang nhiệt
não, rót vào tai âm thanh êm ái dịu dàng, có công năng chuyển hóa
con người đang phiền muộn, tâm hồn đang phiền não khổ đau, thành
con người vui tươi, tâm hồn an lạc hạnh phúc.
- Tất cả hạnh
phúc trên đời đều bắt đầu từ lời nói của chúng ta. Chúng ta khởi
đầu tất cả mọi sự mọi việc. Chúng ta sinh sự thì sự sẽ sinh.
Chúng ta hòa bình thì bình yên tự tại. Đừng mong người khác nói
lời dễ nghe, trong khi chính mình chưa làm được như vậy.
- Tây phương có
câu: "Nothing will change if we do not change anything". Các bậc
cha mẹ, thường dùng ái ngữ, tử tế dịu dàng, ngọt ngào dễ thương,
để dễ cảm thông, cùng với con cái. Nhưng cũng đôi khi, cha mẹ
phải dùng, những lời cứng rắn, nghiêm cấm khắt khe, không có bao
che, để mà khuyên dạy, cho con nên người. Như vậy đó cũng là một
dạng khác của ái ngữ, thực hiện với tâm từ bi của bậc bồ tát. Nói
một cách khác, người không có lòng từ bi bác ái, không thể nào có
ái ngữ được. Thực hành được ái ngữ tức là dùng lời nói để an ủi,
trấn an những tâm hồn âu lo sợ sệt. Đó là hạnh vô úy thí của đức
Quán Thế Âm Bồ Tát. Muốn được cứu khổ, trước tiên chúng ta phải
thực hiện theo hạnh nguyện của Ngài. Chứ không phải chỉ van xin
cầu khẩn mà được toại nguyện đâu!
- Chúng ta thích
nghe,
- lời nói thế nào,
- thì hãy nói ra,
- lời nói thế ấy,
- cho người khác
nghe.
- * * *
- Tóm lại, ái ngữ
là pháp môn rất thiết yếu, rất thực tế, rất thông dụng, rất hữu
hiệu, cho bất cứ ai, không riêng Phật Tử, trên thế gian này, muốn
xây dựng được, cuộc sống ý nghĩa, an lạc hạnh phúc. Ái ngữ giúp
con người cải thiện tự thân. Con người do mê mờ nên hành vi bất
chánh, ngôn ngữ đảo điên, ý niệm tà vạy, chạy theo dục vọng, sống
theo tà đạo, làm chuyện bất lương. Trái lại, nếu con người biết
thực hành ái ngữ sẽ hóa giải được phiền não khổ đau, kiến tạo được
đời sống chân chánh ích lợi.
- Cổ nhơn có dạy:
"Điều ác thiên hạ nói về ta, đối với tâm hồn ta, cũng như lưỡi cày
đối với mặt đất. Lời nói ác cày xới tâm hồn ta, nhưng làm cho tâm
hồn ta thêm phì nhiêu". Chúng ta nên nhớ: các bậc thánh hiền, kim
cổ đông tây, thường bị lời nói, phê phán thị phi, thậm chí kết án,
gièm pha phỉ báng, tuy nhiên các ngài, nhân cách cao quý, bình
tĩnh thản nhiên, cho nên giữ được, bản tâm thanh tịnh.
- Trong kinh sách
có câu:
- "Nam Mô Nhất
Thiết Chúng Sanh Hoan Hỷ Kiến Bồ Tát".
- Nghĩa là người
nào muốn cuộc đời an lạc, không phiền não, chẳng khổ đau, như các
bậc bồ tát, hãy thực hành ái ngữ trong đời sống hằng ngày, tất
nhiên sẽ được mọi người hoan hỷ khi gặp mặt. Trong nhà Phật, mỗi
câu niệm hồng danh chư Phật, hoặc chư Bồ Tát, như câu nói trên,
đều có ý nghĩa dạy chúng ta một hạnh tu, một pháp môn tu, một công
phu tu tập, chứ không phải chỉ để chúng ta đọc tụng rầm rầm, mà
chẳng hiểu gì hết, cho nên chẳng thực hành được trong đời sống
hằng ngày, để đem lại an lạc và hạnh phúc.
- Ngày xưa, một
nhà hiền triết có bà vợ, thường ngày nói nhiều. Một hôm, bà vợ bị
bệnh, không nói chuyện được, nhà hiền triết than, hôm đó ông mất,
cơ hội thực hành, hạnh tu nhẫn nhịn, và hạnh lắng nghe.
- Chư Tổ có dạy:
-
"Tu mà không học, đúng là tu mù".
-
"Học mà không tu, đúng là tủ sách".
- Nghĩa là: Người
phát tâm thực hành việc tu tập, sửa đổi tâm tánh của mình, nhưng
không chịu học hỏi giáo lý, không chịu tìm hiểu Chánh Pháp, ai nói
gì cũng nghe, ai bảo gì cũng tin, người đó dễ bị dụ vào ngoại đạo,
dễ bị lạc vào tà đạo, đúng là mù quáng. Còn người nào chỉ biết lo
nghiên cứu tìm tòi, học rộng hiểu nhiều, không lo tu tâm dưỡng
tánh, không chịu quán sát tự tâm, chỉ lo phê bình chỉ trích người
khác, chỉ thấy lỗi người, không thấy lỗi mình, đúng là cái tủ, cái
đãy, hay cái bị đựng sách mà thôi, chẳng ích lợi gì cho ai cả.
Thí dụ như có người suốt ngày đếm tiền ở nhà băng của chủ, có
người suốt ngày chăn trâu ngoài đồng cho chủ, chiều về đến nhà,
tiền không có, trâu cũng không!
- Chẳng hạn như
người, phát tâm tu hành, nhận thấy nói nhiều, chỉ gây phiền não,
gặp nhiều khổ đau, không ích lợi gì, bèn thực hành theo, pháp tu
tịnh khẩu, nhưng không chịu học, kinh sách giáo lý, nhắm mắt nín
thinh, bất cứ ai hỏi, bất cứ điều gì, đều không trả lời, nhứt định
ngậm miệng, không hề hé môi, dù nửa lời thôi, cũng không chịu
nói. Bên ngoài trông qua, có vẻ khá lắm, bên trong rối rắm, nội
tâm xáo trộn, bão táp tơi bời, tức giận cành hông. Tại sao nông
nổi? Bởi vì người đó, vẫn nghe biết hết, nhưng không nói được,
lại không chịu xả, chất chứa lâu ngày, kho tàng tâm thức, đầy tràn
ắp lẫm, những chuyện thị phi, những chuyện chánh tà, những chuyện
lớn nhỏ, đủ moi mọi thứ, có ngày ứ hự, không thể nhịn được, không
thèm tu nữa! Hành mà không học, đáng sợ như là: nọc độc chết
người!
--o0o--
|
|