-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Cư Trần Lạc Ðạo
-
(Trọn
bộ 3 tập)
-
Toronto, Canada
1999 - PL 2543
- ---
o0o ---
-
-
Tập 3
- [4]
- Chữ Tâm Trong
Đạo Phật
-
- Nương theo giáo pháp Phật Đà
- Chữ Tâm Phật dạy giúp ta độ đời.
- Đến bờ giác ngộ thảnh thơi
- Thoát ly phiền não cuộc đời an
vui.
- Trong nhà Phật,
tam tạng kinh điển ghi lại lời dạy của chư Phật, chư Bồ Tát và chư
vị Tổ Sư. Đó là thiền lâm bảo huấn, nghĩa là: trong rừng thiền, có
nhiều lời dạy vô cùng quí giá. Người phát tâm tu theo Phật thật
khó khăn khi phải chọn lựa kinh sách nào để đọc trước, sao cho có
thể hiểu biết chánh pháp rõ ràng và áp dụng được vào đời sống hằng
ngày.
- Trong khi đọc
tụng kinh sách, người tu học Phật cũng gặp khó khăn với các từ ngữ
chuyên môn, dù là tiếng Việt, tiếng Hán Việt, hay các ngôn ngữ
khác, cần phải tìm hiểu thấu đáo, qua tự điển, hay nhờ các bậc
thiện tri thức giảng giải, giúp đỡ. Sau khi cố gắng lắm mới tạm
vượt qua được sự khó khăn này, người tu tập thường gặp phải ngưỡng
cửa: dù đã học hiểu rành rẽ giáo lý, nhưng vẫn chưa vào được đạo!
- Thế nào là: vẫn
chưa vào được đạo? Người tu hành nhiều năm, dù tại gia hay xuất
gia, nếu chưa đủ duyên, nếu chưa gặp được hoàn cảnh để sáng đạo,
ngộ đạo, thấy đạo, vào được đạo, thì người đó vẫn lòng vòng bên
ngoài cửa đạo, vẫn dậm chân tại chỗ ban đầu, vẫn công phu tu tập
chậm chạp, vì các nghi lễ nặng phần hình thức, vì các việc làm
mong cầu phước báo, vì tâm chấp chặt nhị biên, những định kiến
đúng sai phải quấy, vì tâm mong cầu bình yên sung sướng, vì tâm
chưa thanh tịnh, còn quá lăng xăn lộn xộn bên trong, còn bị trần
duyên bên ngoài chi phối.
- Thực ra, dù đạo
Phật có một rừng kinh điển, sách vở, thích ứng cho đủ mọi căn cơ,
trình độ, giới thiệu tất cả các pháp môn tu tập tự cổ chí kim,
trình bày các kinh nghiệm tu hành từ xưa đến nay, nhưng tất cả
những kinh điển, sách vở đó đều nhằm mục đích duy nhất là: khai mở
và chỉ bày cho tất cả mọi người thấy rõ cái "bản tâm thanh tịnh"
của chính mình. Còn bổn phận của chúng ta là: ngộ và nhập được
bản tâm thanh tịnh đó. Nếu không ngộ được điều này, tức là không
sống được với bản tâm thanh tịnh, người tu tập dụng công phu
nhiều, nhưng thu lượm kết quả chẳng đuợc bao nhiêu. Người nào ngộ
và nhập được bản tâm thanh tịnh, tức là giữ được tâm bình thường,
là người thấy đạo, vào được đạo.
- Cho nên, Thiền
sư Phổ Nguyện Nam Tuyền có dạy: "Bình Thường Tâm Thị Đạo", chính
là nghĩa như vậy.
- Nói một cách khác, tất cả kinh
điển giáo lý của đạo Phật có thể tóm gọn vào một chữ, đó là chữ
TÂM, mà thôi. Nắm vững được chìa khóa quan trọng này rồi, người
tu học Phật có thể mở toang được tất cả các cánh cửa của nhà Phật,
thấu hiểu những lời dạy của chư Phật, chư vị Tổ sư trong các kinh
điển, sách vở, mục đích thấy được con đường giác ngộ và giải
thoát, để xây dựng đời sống hiện tại được an lạc và hạnh phúc.
- * * *
- Trong phạm vi
bài viết này, chúng ta sẽ tìm hiểu chữ TÂM qua các kinh điển và
kinh nghiệm tu tập thực tế của các bậc tôn túc cổ kim. Mỗi đề mục
đều có công năng giải bày bản tâm thanh tịnh, hay tóm gọn vào một
chữ, chỉ rõ đó là: chữ tÂM trong Đạo Phật.
- a .- chữ tÂM
qua lời dạy của chư Phật
- 1) Trong Kinh
Hoa Nghiêm, Đức Phật có dạy:
"Nhứt thiết duy tâm tạo".
- Nghĩa là: Mọi
sự mọi việc đều do tâm tạo ra tất cả. Công đức cũng do tâm tạo,
nghiệp chướng cũng bởi tại tâm. Đó chính là tâm sanh diệt, lăng
xăng lộn xộn, thay đổi luôn luôn, thường do tham sân si chi phối,
thúc đẩy, điều khiển, cho nên con người thường tạo nghiệp bất
thiện nhiều hơn là nghiệp thiện. Chúng ta đã thấu hiểu lý lẽ chân
thật của cuộc đời là: vô thường, không có gì tồn tại vĩnh viễn,
không có gì là tự nhiên sanh mà không có nguyên nhân.
- Luật nhân quả
áp dụng trong ba thời: quá khứ, hiện tại, vị lai. Sinh sự thì sự
sinh. Nhân nào thì quả nấy. Gieo gió thì gặt bão. Có lửa thì có
khói. Cầu nguyện với tâm lăng xăn lộn xộn, chỉ đem lại sự bình an
tâm trí tạm thời. Bình an thực sự chỉ có cho người thiện tâm.
Thiên đàng, địa ngục, tuy là hai tâm trạng khác nhau, nhưng thực
sự, tất cả chỉ là các trạng thái ở trong tâm của chúng ta mà
thôi.
- Bởi vậy cho
nên, có bài kệ như sau:
-
Tội từ tâm khởi đem tâm sám
-
Tâm đã diệt rồi tội cũng vong
-
Tội vong tâm diệt cả hai không
-
Đó chính thực là chân sám hối.
- Nghĩa là: Tất
cả những tội lỗi gây ra, đều do tâm chúng ta chủ động, thì phải
thành tâm mà sám hối, tự trong thâm tâm. Từ đó, chúng ta phát
nguyện không tái phạm, cho nên mỗi khi tâm tham, tâm sân, tâm si
khởi lên, chúng ta liền biết ngay, dừng lại, không làm theo sự
điều khiển, sai khiến của tham sân si, thì tội lỗi sẽ không còn
tái phạm nữa. Khi tội lỗi không còn, tâm sanh diệt cũng lặng mất,
con người sống trong trạng thái tịch tịnh, bình yên của tâm trí.
Đó mới thực là sự sám hối chân chánh.
- * *
- 2) Trong Kinh
Thủ Lăng Nghiêm, Đức Phật có dạy: "Tùy tâm biến hiện".
- Nghĩa là: Mọi
sự mọi việc trên thế gian này như thế nào, tốt hay xấu, lành hay
dữ, đúng hay sai, phải hay quấy, được hay không, đều do vọng tâm
của chúng ta biến hiện ra cả. Sự cảm thọ tùy theo tâm trạng, tùy
theo cá nhân, không ai giống ai, không lúc nào giống với lúc nào,
không thời nào giống với thời nào, không nơi nào giống với nơi
nào.
- Trong sách có
câu:
- "Tâm buồn cảnh
được vui sao".
- "Tâm an dù
cảnh ngộ nào cũng an".
- Nghĩa là: Cùng
một cảnh vật như vậy, nếu có tâm sự buồn phiền áo não, chúng ta
không thấy cảnh vui chút nào. Còn nếu chúng ta có tâm trạng hân
hoan vui vẻ, dù cây khô trụi lá, cảnh vẫn đẹp vui như thường. Cái
tâm hân hoan vui vẻ là chúng ta, hay cái tâm buồn thảm lê thê là
chúng ta? Cùng một câu nói như vậy, nếu tâm an ổn, vui vẻ mát mẻ,
chúng ta cũng cho là: nói đúng nói phải, nói sao cũng được, nói
ngược cũng xong. Trái lại, tâm đang bực bội, ai nói câu nào,
chúng ta cũng cho là: nói sai nói bậy, nói xiên nói xỏ, nói bóng
nói gió, nói hành nói tỏi, nói quấy nói quá.
- Đối với người
thân thương yêu, tâm ý của mình tốt, mặc dù chưa chắc lúc nào cũng
tốt được y như vậy. Còn như đối với kẻ thù người oán, tâm ý mình
không tốt, sẵn sàng gây phiền não khổ đau cho họ. Họ càng khổ đau
nhiều chừng nào, mình càng khoái chừng đó! Vậy, hãy thử nghĩ xem,
chúng ta là người: có tâm thực tốt, hay tâm không tốt? Chẳng hạn
như là: nếu chúng ta đang cần sự giúp đỡ khẩn cấp, khi gặp tai
biến, thì viên cảnh sát chính là ân nhân. Còn nếu chúng ta đang
vi phạm luật pháp, làm chuyện mờ ám, làm ăn phi pháp, thì bóng
dáng viên cảnh sát thực chẳng đáng ưa chút xíu nào cả. Cùng một
câu chuyện, chúng ta ưa thích thì cho là đúng, ngược lại không ưa
liền cho là sai. Cái tâm sanh diệt, lăng xăng lộn xộn, thay đổi
bất thường như vậy, thực không phải là chúng ta.
- * *
- 3) Trong Kinh A
Hàm, Đức Phật có dạy: "Tam giới tâm tận, tức thị niết bàn".
- Nghĩa là: Khi
nào dứt sạch tâm trong ba cõi, lúc đó chúng ta mới thấy được niết
bàn. Ba cõi, còn gọi là tam giới, đó là: dục giới, sắc giới và vô
sắc giới.
- Khi tâm tham
nổi lên, chúng ta sống trong dục giới, tức là cảnh giới đắm nhiễm
tham dục, cảm thấy đau khổ triền miên vì lòng tham của con người
không đáy, không bao giờ thỏa mãn được. Con người sống trong dục
giới lúc nào cũng cảm thấy khao khát, thiếu thốn, được bao nhiêu
cũng không thấy đủ, cho nên luôn luôn chạy đôn chạy đáo, tìm kiếm
ngũ dục: tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống và ngủ nghỉ.
- Khi tâm sân nổi
lên, ngay lúc đó, chúng ta sống trong sắc giới, tức là cảnh giới
chấp chặt sắc tướng, lòng như thiêu đốt, sắc mặt tái xanh, vì sự
tức giận, vì sự bất mãn. Dù tâm tham không còn, tâm sân cũng tai
hại vô cùng.
- * *
- 4) Trong Kinh
Hoa Nghiêm, Đức Phật có dạy:
- Nhất niệm sân
tâm khởi,
- bách vạn
chướng môn khai.
- Nghĩa là: Một
khi tâm niệm tức giận, sân hận khởi lên mà chúng ta không tự kềm
chế, không tự khắc phục, thì biết bao nhiêu, trăm ngàn vạn chuyện
khó khăn, đau khổ, chướng ngại tiếp nối theo sau đó.
- Khi tâm si nổi
lên, chúng ta sống trong vô sắc giới, tức là cảnh giới vô minh,
rất dễ lầm đường lạc nẽo, mê tín dị đoan, rất dễ dàng tạo tội tạo
nghiệp bằng cách: hãm hại trả thù, lập mưu tính kế, vu khống cáo
gian, thưa gửi kiện tụng, không cần biết hậu quả khổ đau đối với
các người khác và gia đình họ. Những giây phút ngu si, lầm lẫn
thường là nguyên nhân của những sự hối tiếc, đau khổ sau đó, cho
mình và cho người khác, có khi kéo dài triền miên suốt cả cuộc
đời.
- Bởi vậy cho
nên, phải dẹp trừ tận gốc các tâm tham sân si, trong kinh sách gọi
đó là: tam độc, chúng ta thoát ly tam giới gia, cuộc sống mới an
lạc và hạnh phúc.
- * *
- 5) Trong Kinh A
Di Đà, Đức Phật có dạy:
-
"Người nào giữ được nhứt tâm bất loạn, trong
một ngày cho đến bảy ngày, khi lâm chung giữ tâm không điên đảo,
thì người đó được vãng sanh tây phương".
- 6) Trong Kinh
Đại Tập, Đức Phật có dạy:
-
"Nếu thường xuyên giữ được
chánh niệm, tâm không loạn động, dứt trừ được phiền não, thì chẳng
bao lâu đắc thành quả vô thượng bồ đề".
- Nghĩa là: Người
tu tập phải luôn luôn quán sát tâm chính mình, luôn luôn giữ gìn
chánh niệm, luôn luôn niệm Phật, khi vọng tâm vọng tưởng vọng thức
vọng niệm khởi lên, liền biết, không theo. Nhờ đó tâm được an
nhiên tự tại, không loạn động, dứt trừ được phiền não, gọi là:
nhứt tâm bất loạn. Nhờ công phu tu tập đó, chẳng bao lâu đắc
thành quả vô thượng bồ đề. Khi lâm chung giữ được tâm không điên
đảo, cho nên được vãng sanh cảnh giới tịnh độ. Muốn làm được điều
này, muốn giữ được tâm trí nhứt như không loạn động, con người
phải thấu hiểu và thực hành quán tứ niệm xứ, gồm có: thân, thọ,
tâm, pháp.
- Quán thân bất
tịnh, nghĩa là quán tưởng tấm thân mấy chục ký lô của mình chỉ là
một tập hợp những thứ không sạch, được bọc bên ngoài bởi lớp da
cũng chẳng mấy gì sạch sẽ cho lắm, con người thấy rõ: tấm thân này
không phải là mình, đừng bận tâm chuyện còn hay mất, chết rồi cũng
bỏ lại, chẳng ai dám đến gần. Cho nên khi sống đừng quá chăm sóc
và nuông chìu, khi chết đừng bận tâm chuyện đem chôn hay đem
thiêu.
- Quán thọ thị
khổ, nghĩa là quán tưởng sự cảm thọ, thọ nhận là khổ, con người
thấy rõ: càng chấp chặt chuyện đời, chuyện thị phi phải quấy, càng
thọ nhận nhiều cảm giác, càng đau khổ nhiều mà thôi. Cho nên ai
nói điều gì không đúng chánh pháp, thì cho qua luôn, đừng nhớ làm
chi vô ích, đừng nghĩ suy gì cả. Nói vắn tắt là: Thọ nhiều thì
khổ nhiều, chấp nhiều thì mệt nhiều. Buông xả thì thanh thản, tha
thứ thì thư thái. Tuy chuyện rất đơn giản, thực hành không dễ
dàng, nhưng không phải bất khả.
- Quán tâm vô
thường, nghĩa là quán tưởng cái tâm nhỏ hẹp của mình luôn luôn
thay đổi, sanh diệt liên miên, mới nghĩ thế này liền nghĩ thế
khác, lúc thương yêu đắm đuối lúc thù hận ngập tràn, lúc thân lúc
thù, lúc vui lúc buồn, lúc thương lúc ghét, lúc hiền thiện lúc
gian tà. Tâm của chúng ta luôn luôn dính với cảnh trần bên ngoài,
kinh sách gọi là: tâm phan duyên. Cảnh trần bên ngoài đẹp mắt,
vừa tai, thuận ý, thì sanh tâm vui thích. Cảnh trần bên ngoài
chói tai gai mắt, nghịch ý, thì sanh tâm tức tối. Nếu cứ theo sự
sai khiến của cái tâm vô thường như vậy, chúng ta tạo tác không
biết bao nhiêu nghiệp chướng, cho nên trôi lăn, trầm luân trong
sinh tử không biết bao nhiêu đời, bao nhiêu kiếp! Ngày nay tâm
mình hay tâm người khác chưa thiện, ngày mai tâm mình hay tâm
người khác sẽ thay đổi tốt hơn, nhờ có công phu tu tập.
- Quán pháp vô
ngã, nghĩa là quán tưởng các pháp trên thế gian này đều không có
bản thể nhứt định, gọi là: vô ngã. Các pháp, tức là tất cả sự sự
vật vật trên đời, không có cái gì cố định, không phải tự nhiên
sanh ra, không phải tự nhiên diệt đi. Tất cả chỉ là một dòng
chuyển biến không ngừng. Con người thấy đó mất đó. Chuyện gì rồi
cũng đổi thay, rồi cũng qua mau. Đừng phí sức, đừng bận tâm với
các pháp sanh diệt của thế gian.
- * *
- 7) Trong Kinh A
Hàm, Đức Phật có dạy:
- "Chư pháp tùng
nhân duyên sanh".
- "Chư pháp tùng
nhân duyên diệt".
- Nghĩa là: Muôn
sự muôn vật trên đời tùy theo nhân duyên mà sanh ra, cũng tùy theo
nhân duyên mà diệt đi. Không có việc gì, vật gì, có thực tướng,
tồn tại vĩnh viễn. Người ta chửi mình do mình gây nghiệp bất
thiện cảm với người. Người ta chửi mãi mỏi miệng thì cũng ngưng
thôi, tức giận làm chi cho mệt! Đừng đưa cái bản ngã của mình,
tức là cái tôi, cái ta, tây phương gọi là "EGO", ra hứng những
ngọn lửa của thế gian, thì mình đâu có bị đốt cháy, đâu có bị
nhiệt não, đâu có bị khổ tâm, đâu có bị ngày ăn không ngon, tối
ngủ chẳng yên. Ngọn lửa không thể đốt hư không được, sẽ tự dập
t?t thôi. Vô ngã đơn giản là như vậy đó, an lạc là như vậy đó!
- * *
- 8) Trong Kinh
Thủ Lăng Nghiêm và Kinh Đại Bát Niết Bàn, Đức Phật có dạy:
- "Sanh diệt ký
diệt, tịch diệt hiện tiền".
- "Sanh diệt diệt dĩ,
tịch diệt vi lạc".
- Nghĩa là: Khi
nào các tâm sanh diệt, tức là tâm tham sân si, nổi lên rồi lắng
xuống, sanh khởi rồi diệt đi, không còn nữa, gọi là: sanh diệt,
thì tâm trí bình yên lặng lẽ, không xáo trộn, gọi là: tịch diệt
hiện tiền, hay tịch diệt vi lạc, tức là cảnh giới an lạc, niết bàn
tự tại, hiện ngay trước mặt. Tâm trạng bất an vì những niệm sanh
diệt, gọi là: tâm chúng sanh. Tâm sanh diệt diệt rồi, không còn
lăng xăng lộn xộn nữa, trở nên tâm không tịch, trống không và tịch
tịnh, hoàn toàn thanh tịnh, gọi là: bản tâm thanh tịnh, hay: tâm
bình thường, chính là: tâm Phật.
- Điều này thực
dễ hiểu, ví như khi cặn cáu lắng xuống hết, ly nước đục trở thành
ly nước trong. Mặt biển sóng động trở thành mặt biển thái bình.
Tâm loạn động trở thành tâm thanh tịnh. Không cần phải tìm tâm
Phật đâu xa. Nhưng thực hiện được điều này là cả một đời tu tập,
tu tâm dưỡng tánh, giữ gìn giới luật, lánh dữ làm lành, quán sát
tâm ý. Chúng ta cần phải hành trì các pháp môn, dù thiền tông,
tịnh độ tông, hay mật tông, tức là: thiền quán, tọa thiền, thiền
hành, tứ oai nghi thiền, tụng kinh, niệm Phật, trì chú, cho đến
mức rốt ráo, đạt được trạng thái: nhứt tâm bất loạn.
- * *
- 9) Trong Kinh
Thủ Lăng Nghiêm, Đức Phật có dạy:
- "Lục căn chính
là cội gốc của sanh tử luân hồi".
- "Lục căn cũng
là cội gốc của giải thoát niết bàn".
- Tại sao vậy?
Bởi vì, lục căn của chúng ta, tức là sáu giác quan, gồm có: nhãn,
nhĩ, tĩ, thiệt, thân và ý, khi tiếp xúc với lục trần, tức là sáu
trần cảnh bên ngoài, gồm có: sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp,
mà không đắm nhiễm, không dính mắc, không sanh lục thức, trong
kinh sách gọi là: lục tặc, thì chúng ta đâu có bị phiền não, trong
lòng đâu có nổi sóng gió, gọi là: tam bành. Dù hằng ngày vẫn tiếp
xúc với mọi người, mọi cảnh trong cuộc đời, chúng ta không tham,
không sân, không si. Giữ gìn được như vậy tức là chúng ta giải
thoát khỏi phiền não khổ đau, sống trong cảnh giới niết bàn an
lạc, ngay hiện đời vậy.
- Mắt trông thấy
hình sắc thì nhận biết rõ ràng người nào là người nào, món nào là
món nào, nhưng tâm không khởi niệm thương hay ghét, ưa hay không
ưa. Tai nghe thấy tiếng thì nhận biết rõ ràng đó là tán thán hay
phê phán, nhưng tâm không khởi niệm khoái chí hay bực bội. Mũi
ngửi thấy mùi thì nhận biết rõ ràng là mùi hương gì, nhưng tâm
không khởi niệm thích hay không thích. Lưỡi nếm vị thì nhận biết
rõ ràng là vị gì, nhưng tâm không khởi niệm khen ngon hay chê dở.
Thân xúc chạm thì biết rõ ràng là tốt hay xấu, nhưng không khởi
niệm dễ chịu hay khó chịu. Tâm ý nghĩ suy thì nhận biết rõ ràng
là đúng hay sai, phải hay quấy, nhưng tâm không khởi niệm kỳ thị,
đố kỵ, so sánh, hơn thua, tranh chấp. Do đó, chúng ta đâu có bị
kéo lôi, đâu có bị cột trói vào chuyện thương thương ghét ghét,
đấu tranh tranh đấu, lặp đi lặp lại, nói tới nói lui, nói xuôi nói
ngược, được mất khen chê, nghĩa là chúng ta đã thoát khỏi vòng
trầm luân sanh tử khổ đau đó vậy.
- * *
- 10) Trong Kinh
Thủ Lăng Nghiêm, Đức Phật có dạy:
- "Căn bản của
sanh tử luân hồi là: Vọng tâm".
- "Căn bản của bồ
đề niết bàn là: Chân tâm".
- Nghĩa là: Chúng
sanh sở dĩ bị trầm luân sanh tử, bởi vì suốt ngày này qua ngày nọ,
luôn luôn sống với vọng tâm, tức là tâm lăng xăng lộn xộn, luôn
luôn thay đổi, khi vui khi buồn, khi thương khi ghét, khi khen khi
chê, khi tán thán khi phê phán. Muốn tâm trí sáng suốt thanh
tịnh, an nhiên tự tại, chúng ta cần quán sát tâm chính mình: Khi
các vọng tâm nổi lên, chúng ta liền biết, không theo, như vậy vọng
tâm lắng xuống, diệt mất, chân tâm hiện ra rõ ràng.
- Bản tâm thanh
tịnh, hay chân tâm bất sanh bất diệt, không sanh không diệt,
thường hằng, vĩnh viễn, luôn luôn hiện hữu. Chỉ có vọng tâm: tham
lam, sân hận si mê, mới có sanh và diệt, mà thôi. Chẳng hạn như
khi gặp chuyện bất như ý, tâm liền khởi sanh bực tức oán giận.
Lúc đó, chúng ta quên mất bản tâm thanh tịnh của mình, tức là quên
mất mình là ai, chỉ biết tức tức giận giận. Lâu sau nguôi dần,
tâm trở lại trạng thái bình thường, tâm sân hận diệt đi, không còn
nữa. Sanh diệt có nghĩa là như vậy.
- Chân tâm, tức là bản tâm thanh
tịnh mà người nào cũng có, không phân biệt tôn giáo, nam nữ, màu
da, sắc tộc, ngôn ngữ, học thức, giàu nghèo, địa phương, quốc gia,
thời gian hay không gian. Giáo lý của đạo Phật cao siêu mầu nhiệm
ở chỗ chỉ bày rõ ràng chân lý không phân biệt, không kỳ thị, tất
cả mọi người đều có thể hiểu một cách rõ ràng.
- Muốn làm được
điều này, muốn chân tâm hiển hiện, chúng ta cần phải thấu hiểu và
tu tập bốn tâm rộng lớn, trong kinh sách gọi là tứ vô lượng tâm,
đó chính là: từ, bi, hỷ, xả. Khi có tâm từ và tâm bi, chúng ta sẽ
dễ cảm thông với muôn loài, nhứt là với loài người, với những
người chung quanh, gần như cha mẹ, vợ chồng, con cháu, xa hơn như
bà con, láng giềng, bạn bè. Do đó tâm giận tức, tâm sân hận có
thể giảm bớt, nhẹ bớt đi. Khi có tâm hỷ và tâm xả, chúng ta sẽ
bớt được các tâm ganh tị, tâm đố kỵ, tâm hơn thua, tâm cố chấp.
Cho đến khi nào tứ vô lượng tâm tròn đầy, vọng tâm tan biến, tâm ý
trở nên an nhiên tự tại, chân tâm hiển hiện. Đây mới chính là ý
nghĩa thiết yếu của việc tu tâm dưỡng tánh theo đạo Phật:
-
Trong tâm khởi niệm,
-
nếu giác kịp thời,
-
liền biết không theo,
-
đó là: chân tâm.
-
Trong tâm khởi niệm,
-
nếu còn mê muội,
-
không giác kịp thời,
-
liền theo niệm đó,
-
trở thành: vọng tâm.
- Cũng ví như
là:
-
Khi có gió thổi,
-
mặt biển nổi sóng,
-
gọi là biển động,
-
ví như cái tâm
-
lăng xăng lộn xộn.
-
Mặc dù gió thổi,
-
mặt biển vẫn yên,
- là biển thái
bình,
- cũng ví như là:
- bản tâm thanh
tịnh,
- hay: tâm bình
thường.
- Điều đáng quan
trọng không phải là vọng tâm thay đổi bất chợt, bất thường nói
trên, mà chính là cái chân tâm, không sanh không diệt, không dơ
không sạch, không tăng không giảm, của tất cả chúng ta vậy. Hiểu
được, nhận được: thế nào là chân tâm, chính là mục đích cứu kính
của đạo Phật, được Đức Phật giảng giải rõ ràng trong Kinh Thủ Lăng
Nghiêm, Kinh Tâm Địa Quán, Bát Nhã Tâm Kinh, và trong nhiều bộ
kinh khác.
- * *
- 11) Trong Bát
Nhã Tâm Kinh, Đức Phật có dạy:
- "Chiếu kiến ngũ
uẩn giai không độ nhứt thiết khổ ách".
- Nghĩa là: Khi ngộ được bản tâm
thanh tịnh, soi xét thấy rõ năm uẩn đều không, tâm không còn
ngăn ngại, không còn sợ hải, chúng ta sẽ vượt qua được tất cả
mọi khổ ách, xa lìa điên đảo mộng tưởng, đạt được cứu kính niết
bàn. Thế nào là: "Xét thấy năm uẩn đều không"? Năm uẩn gồm có:
sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Phần thân xác, có hình tướng, nhận
thấy được bằng mắt thường, gọi là: sắc. Phần tinh thần, hay tâm
linh, không hình tướng, không nhận thấy được bằng mắt thường,
gồm có: thọ, tưởng, hành, thức. Chúng ta nên biết rằng: nguồn
gốc của mọi sự đau khổ trên thế gian này đều do tâm cố chấp mà
ra. Chúng ta cố chấp điều gì? Chúng ta cố chấp rất nhiều thứ.
- * *
- 12) Trong Kinh
Viên Giác, Đức Phật có dạy:
-
Con người vì
vô minh cho nên có hai thứ chấp:
-
chấp ngã và chấp pháp.
-
Đó là hai nguyên nhân chính
gây ra
-
phiền não và khổ đau của
cuộc đời.
- Khi nào hiểu
được một cách rõ ràng và phá trừ được hai nguyên nhân chính gây ra
khổ đau này, chúng ta sẽ tìm được an lạc và hạnh phúc thực sự,
ngay trong cuộc sống hiện tại.
- Chấp ngã có
nghĩa là: Con người thường chấp cái sắc thân giả tạm và cái vọng
tâm vô thường, trong kinh sách gọi chung là: ngũ uẩn, lại cho là
thực, lại tưởng chính là mình, cho nên mới phiền não và khổ đau.
Cái sắc thân giả tạm nặng mấy chục ký lô này của con người bao gồm
bốn thứ: đất, nước, gió, lửa, trong kinh sách gọi đó là: thân tứ
đại, không phải là thực. Tại sao vậy? Bởi vì nếu sắc thân tứ đại
này thực là của con người, thì nó phải tuân lệnh và tùy thuộc
quyền xử dụng của con người. Con người ai ai cũng muốn cái thân
tứ đại này trẻ mãi không già, khỏe mãi không đau, còn mãi không
hoại. Nhưng, từ xưa đến nay, từ đông sang tây, từ hoàng gia đến
dân chúng, từ giàu sang đến nghèo hèn, từ học thức đến bình dân,
có ai được toại nguyện như vậy đâu? Vậy mà ai động đến nó, con
người liền nổi xung, nhứt định ăn thua đủ, nhứt định vác đơn kiện,
nhứt định đòi bồi thường, nhứt định làm tới luôn, cho hả giận cho
đã nư, không thể nhịn nổi, chỉ nhằm bảo vệ cái thân tứ đại vốn giả
tạm, vốn không thực này, để rồi một ngày kia, dù-muốn-hay-không,
mọi người đều phải bỏ lại, để đi sang thế giới khác, để tái sinh
kiếp khác, với cả một đống nghiệp báo bất thiện chẳng lành chồng
chất! ? ngoài nghĩa trang, đâu phải chỉ có mộ phần các cụ trăm
tuổi mà thôi! Khi hiểu được sắc thân tứ đại không thực, thì những
thứ phụ thuộc như: nhà cửa, tiền bạc, danh vọng, địa vị, còn có ý
nghĩa gì nữa đâu, mà ham muốn tranh chấp, đấu đá sát phạt, hơn
thua được mất, cho đời thêm đau khổ? Cái thân tứ đại còn phải bỏ
lại, thì có thứ gì đem theo được chứ? Có đem theo chăng, chẳng
qua là tội, là nghiệp, đã tạo trong đời mà thôi.
- Sắc thân tứ đại
mấy chục ký lô là như vậy đó, còn vọng tâm thì sao? Cái vọng tâm
thì lăng xăng lộn xộn, thay đổi liên miên. Con người bị khổ đau
nhiều đời nhiều kiếp, bởi vì, chấp lầm vọng tâm lăng xăng lộn xộn,
thay đổi liên miên, cho đó là mình, rồi nương theo đó, chợt vui
chợt buồn, chợt cười chợt khóc, suốt ngày suốt đêm, suốt tháng
suốt năm, suốt cả đời này, và những đời sau! Vọng tâm gồm có: tâm
thọ, tâm tưởng, tâm hành, tâm thức. Cái tâm nghĩ suy, tính toán
hơn thua, lăng xăng lộn xộn, suốt ngày suốt đêm, lúc sanh lúc
diệt, không phải thực là chúng ta, đó chỉ là vọng tâm. Xét thấy
năm uẩn đều không, sắc tướng và vọng tâm đều không thực, con người
phá được sự quan trọng của bản ngã, dẹp được tự ái, thoát được
phiền não, không còn khổ đau, cho nên tâm trí an nhiên tự tại. Đó
là giáo lý vô ngã của đạo Phật.
- Chấp pháp nghĩa
là: Đối với tất cả các pháp trên đời, bao gồm mọi sự mọi việc thế
gian, con người chấp chặt ý kiến cá nhân, thành tích khả năng, suy
nghĩ hiểu biết, kiến thức sở học, kinh nghiệm bản thân, không muốn
thay đổi, không muốn cải thiện, không muốn sửa chữa, không muốn
chuyển hóa, không muốn nghe ai, bịt cả hai tai, chỉ mở cái miệng.
Thậm chí biết rằng mình đã nghĩ sai, làm sai nói sai, tin bậy hiểu
lầm, cũng vẫn chấp chặt!
- Đời người chẳng
qua chỉ là hơi thở, khi thở hơi ra mà chẳng hít vào được nữa, thì
ô hô tử vong! Đời người chỉ là tạm vay mượn đất, nước, gió, lửa,
từ bên ngoài, để bồi bổ cho đất, nước, gió, lửa, bên trong thân,
từng ngày từng giờ, từng phút từng giây. Khi không vay mượn nữa,
con người không tồn tại được. Chỉ vì cuộc sống quay cuồng, con
người mãi lo kiếm tiền, bận lo hưởng thụ, bo bo giữ gìn của cải,
mặt mũi, danh vọng hão huyền, lúc nào cũng tưởng: "đời còn dài
mà", cho nên hơn thua từng câu từng lời, kiếm chuyện đấu
tranh, chiếm đoạt tài sản, danh lợi phù du, giành giựt miếng ăn,
dựng chuyện thưa kiện, đòi hỏi bồi thường, tiền bạc phi nhân, chỉ
biết lợi mình, bất kể hại người, đem lại khổ đau, cho bao người
khác. Bởi vậy chính mình cũng chịu đau khổ phiền não, tâm trí
luôn luôn bất an.
- * *
- 13) Trong Kinh
Tịnh Danh, Đức Phật có dạy:
- Mặt trời mặt
trăng vẫn thường sáng tỏ, tại sao người mù lại chẳng thấy?
- Cũng vậy, bởi
vì nghiệp thức che đậy, chúng sanh thường biết mà cố phạm, cho nên
chẳng thấy thế giới Như Lai thanh tịnh trang nghiêm, chẳng nhận ra
bản tâm thanh tịnh thường hằng.
- 14) Trong Kinh
Đại Bát Niết Bàn, Đức Phật có dạy:
- Tất cả chúng
sinh đều có bản tâm thanh tịnh.
- Chúng sinh
chẳng nhận thấy được, vì bị vô minh che lấp.
- Nghĩa là: Con
người ai ai cũng có bản tâm thanh tịnh, cũng như mặt trời mặt
trăng luôn luôn sáng tỏ. Chỉ vì tâm tham lam của cải tiền bạc,
hoặc vì tâm sân hận tự ái cao độ, hoặc vì tâm si mê cố chấp, ví
như mây đen che lấp mặt trời mặt trăng, cho nên con người mới tạo
tội tạo nghiệp, làm cho tâm trí loạn động, thường xuyên bất an,
điên đảo loạn cuồng, để rồi trôi lăn vào vòng sanh tử luân hồi, đã
muôn kiếp trước, và sẽ tiếp tục trôi lăn, muôn kiếp về sau, nếu
như không chịu dừng nghiệp và chuyển nghiệp. Với số tiền nho nhỏ,
quyền lợi không đáng kể, con người còn có thể tỉnh thức, dừng được
nghiệp, dẹp tâm tham, không thưa kiện người khác, không gây não
loạn cho người, và gia đình của họ. Nhưng khi kiện thưa đòi tiền
bồi thường vài triệu đô la, con người thành ma, tối tăm mặt mũi,
liều mạng đưa chân, hết biết lẽ phải, nhắm mắt làm càng, tới đâu
cũng được. Mãnh lực của đồng đô la quả thực là vạn năng, thượng
đế chẳng bằng, đã lôi kéo không biết bao nhiêu chúng sanh u mê,
vào vòng tội nghiệp, từ xưa đến nay!
- Chính vì biết
mà cố phạm, nghiệp thức che đậy, vô minh che lấp, con người chẳng
thấy được thế giới Như Lai trang nghiêm, bản tâm thanh tịnh.
Chúng ta là người tỉnh thức, đang tu học chánh pháp, đang muốn trở
về nguồn cội, đang muốn chuyển hóa cuộc đời của mình, đang muốn
thoát ly sanh tử luân hồi, càng phải nên hết sức cẩn trọng, cẩn
trọng và cẩn trọng!
- * *
- 15) Trong Kinh
Kim Cang, Đức Phật có dạy:
-
Quá khứ tâm bất khả đắc,
-
hiện tại tâm bất khả đắc,
- vị lai tâm bất
khả đắc.
- Nghĩa là:
Chuyện quá khứ qua rồi đừng luyến tiếc, đừng nhớ nghĩ làm gì cho
bận tâm, chỉ gieo thêm nghiệp chướng chứ chẳng ích lợi gì. Muốn
làm được điều này, ở trong gia đình hay ngoài xã hội, chúng ta cần
phải có tâm vị tha, độ lượng, biết tha thứ, biết cảm thông, nói
chung là tâm từ bi. Chuyện hiện tại rồi cũng qua mau, cố níu kéo
cũng chẳng được, có lo âu phiền muộn cũng chẳng ích lợi gì.
Chuyện tương lai chưa đến, lo lắng, ưu tư, sầu muộn cũng chẳng ích
lợi gì. Chi bằng chúng ta giữ gìn tâm trí được như như, bình
tĩnh, thản nhiên, có phải khỏe hơn không? Chuyện gì phải tới nó
sẽ tới, lo sợ cũng chẳng ngăn cản được đâu. Đó chính là nghiệp
quả, nghiệp báo, còn gọi là: quả báo.
- Hiểu sâu được
luật nhân quả, chúng ta sẽ bình tĩnh thản nhiên chấp nhận quả báo
xảy đến. Nếu không muốn có quả báo xấu, chúng ta phải chấm dứt
gây nghiệp nhân xấu, tức là chấm dứt tâm tham sân si, tức là dừng
ba nghiệp thân khẩu ý bất thiện. Trong kinh sách gọi là: dừng
nghiệp và chuyển nghiệp.
- * *
- 16) Trong Kinh
Tịnh Danh và Kinh Tâm Địa Quán, Đức Phật có dạy:
- "Tâm tịnh thì
độ tịnh".
- "Tâm địa bình
thì thế giới bình".
- Nghĩa là: Khi
những vọng tâm vọng tưởng, vọng thức vọng niệm đã dứt sạch, người
tu tập không còn tham, không còn sân, không còn si. Đến đây,
người tu tập đạt được cảnh giới bất nhị, tức là không còn kẹt hai
bên, không còn thị phi, không còn phải quấy, không còn tranh chấp,
không còn hơn thua, không còn tạo tội, không còn tạo nghiệp, không
còn cố chấp. Trong kinh sách gọi đó là cảnh giới: vô tâm vô niệm,
hay là cảnh giới: nhứt tâm bất loạn.
- Lúc đó, tâm
tịnh, tâm địa bình, tâm vô quái ngại, vô hữu khủng bố, viễn ly
điên đảo mộng tưởng, tức là tâm an nhiên tự tại, không còn điều gì
có thể ngăn ngại được, gây lo sợ khủng khiếp được. Do đó, chúng
ta xa rời những thứ điên đảo, lìa bỏ được mộng tưởng, đạt được cứu
kính niết bàn. Mọi người chung quanh cảm thấy an ổn, yên tâm, khi
sống gần người tu tập có tâm tịnh, tâm địa bình. Thế giới chung
quanh thanh bình, quốc độ an ninh, chính là nghĩa như vậy.
- * *
- 17) Trong Kinh
Di Giáo, Đức Phật có dạy:
- "Chủng chủng hý
luận kỳ tâm tắc loạn".
-
"Nhược đắc định giả tâm
tắc bất tán".
- Nghĩa là: Người
nào bàn luận một cách vô ích những chuyện thị phi, đúng sai phải
quấy, tranh đua hơn thua, tâm ý của người đó tức nhiên loạn động.
Còn người nào khắc chế được tâm niệm của mình, người đó đắc được
cảnh giới thiền định, dù là sơ thiền, nhị thiền tam thiền, hay
được tứ thiền, tức nhiên tâm ý không còn tán loạn nữa. Khi tâm
địa, hay tâm thức của con người, hoàn toàn không tịch, trống rỗng
lặng lẽ, lẵng lặng thanh tịnh, không còn chứa chấp những vọng tâm,
vọng tưởng, vọng thức, vọng niệm nào cả, thì trí tuệ bát nhã tự
bừng sáng. Tâm được thanh tịnh thì cảnh vật cũng thanh tịnh,
chúng sanh chung quanh cũng được bình yên.
- * *
- 18) Trong Kinh
Vị Tằng Hữu, Đức Phật có dạy:
- Tâm trước nghĩ
ác,
- như đám mây đen
che khuất mặt trời.
-
Tâm sau ăn năn nghĩ thiện,
-
như ngọn đuốc sáng tiêu trừ
hắc ám.
- Nghĩa là: Cái
tâm ý điên đảo đảo điên, cái vọng tưởng lăng xăng lộn xộn, tạo tội
tạo nghiệp này, luôn luôn nghĩ đến các điều ác, điều bất thiện,
lợi mình hại người, là nguyên nhân chính dẫn chúng sanh vào vòng
sanh tử luân hồi, vào cảnh giới đen tối, như đám mây đen che khuất
mặt trời. Khi giác ngộ chánh pháp con người biết ăn năn sám hối,
bỏ ác làm thiện, tâm trí bình yên sáng suốt, tam đồ ác đạo lánh
xa, con người gần với cảnh giới niết bàn hơn, như ngọn đuốc sáng
tiêu trừ hắc ám. Cho nên làm sao hàng phục và an trụ được cái tâm
ý này chính là trọng tâm của đạo Phật.
- * *
- 19) Trong Kinh
Pháp Cú, Đức Phật có dạy:
- "Thắng vạn quân
không bằng tự thắng mình".
- "Tự thắng tâm
mình là điều cao quí nhứt".
- Thắng được vạn
quân, con người tóm thu được quyền lực, danh vọng, tiền tài, của
cải vật chất, đủ mọi thứ trên trần đời. Nhưng tâm người đó vẫn
sống trong tam giới: dục giới, sắc giới, và vô sắc giới, cho nên
vẫn còn phiền não khổ đau, vẫn còn sanh tử luân hồi. Muốn xuất
được tam giới gia, chúng ta phải luôn luôn quán sát tâm chính
mình: Khi nào tâm tham, tâm sân, tâm si nổi lên liền biết, không
theo. Lúc đó chúng ta đã tự thắng mình: tức là tự kềm chế hành
động, ngôn ngữ, ý nghĩ của chính mình. Người ta công kích, khích
bác, vu khống, phỉ báng, phê phán, mạ lỵ, sỉ nhục, mắng nhiếc,
người nào phản ứng nhanh, trả đũa nặng nề thì dễ quá, thường quá.
Người nào tự thắng tâm mình, nhẫn nhịn được mà không thấy nhục
nhằn, nhịn mà không nhục, tâm trí vẫn an nhiên tự tại, mới đáng
kính phục, mới là điều cao quí nhứt.
- Muốn làm được
như vậy, tức là muốn tự thắng tâm mình, chúng ta cần phải tu tập
ba môn học giải thoát, còn gọi là tam vô lậu học, đó là: Giới,
Định, Tuệ. Giới là ranh giới, là hàng rào ngăn ngừa chúng ta tạo
tội tạo nghiệp. Phật Tử tại gia có 5 giới phải giữ, đó là: sát,
đạo, dâm, vọng, tửu. Tức là: không sát sanh, không trộm cắp, không
tà dâm, không nói dối, không uống rượu. Phật Tử phát tâm xuất
gia, trở thành tu sĩ, phải giữ 10 giới, 250 giới, hay 348 giới,
tùy theo thời gian và công phu tu tập. Nhờ giữ gìn nghiêm ngặt
các giới luật, cho nên không tạo tội tạo nghiệp, tâm mới được an
nhiên tự tại, trong kinh sách gọi là: tâm thiền định. Khi tâm an
định được bao nhiêu, trí tuệ bát nhã phát sanh bấy nhiêu, nhờ đó
chúng ta thêm tinh tấn, thấu rõ chánh pháp, tiến nhanh trên con
đường giác ngộ và giải thoát.
- * *
- 20) Trong Kinh
A Hàm, Đức Phật có dạy:
- "Không hạnh
phúc nào có thể so sánh với sự yên tĩnh của tâm trí".
- Nghĩa là: Trên
thế gian, con người cảm thấy hạnh phúc dưới nhiều khía cạnh khác
nhau. Có người cho rằng: giàu sang quyền thế, nhiều tiền lắm của,
danh vọng địa vị, đó là hạnh phúc. Thực sự, những người như vậy
vẫn còn khổ đau phiền não và sanh tử luân hồi, vẫn sống với vọng
tâm điên đảo, trong tâm trí không thực sự được an lạc. Cho nên,
hạnh phúc tối thượng chính là sự yên tĩnh của tâm trí. Tại sao
vậy? Bởi vì, sự yên tĩnh của tâm trí có thể giúp đỡ con người đạt
được giác ngộ và giải thoát.
- * *
- 21) Trong Kinh
A Hàm, Đức Phật có dạy:
-
"Tâm khẩu nhứt như".
- Nghĩa là: "Tâm
khẩu không khác".
- Tâm nghĩ sao,
miệng nói vậy. Miệng thường nói tốt, tâm nên nghĩ tốt. Như vậy,
cuộc sống mới được an lạc. Ngược lại, tâm nghĩ một đàng, miệng nói
một nẻo, miệng nói như vậy, tâm không như vậy, nên sách có câu:
Miệng thì nói tiếng nam mô. Trong lòng chứa cả một bồ dao găm. Ở
trên đời này, đố ai lấy thước để đo lòng người. Trong sách có
câu: Tri nhân tri diện bất tri tâm, nghĩa là: biết người chỉ biết
mặt, không biết được tâm địa. Cho nên chư Tổ có dạy: Phản quan tự
kỷ, nghĩa là: hãy quay lại, quán sát tâm chính mình, để giữ tâm
khẩu nhứt như.
- * *
- 22) Trong Kinh
Di Giáo, Đức Phật có dạy:
- "Chế tâm nhứt
xứ, vô sự bất biện".
- Nghĩa là: Khi
khắc chế được tâm ý, trụ tâm ở một chỗ, bằng cách tụng kinh, niệm
Phật, thiền quán, qua sự hiểu biết chánh pháp, tâm trí bình tĩnh
thản nhiên, không còn chuyện gì để cãi vã nữa, để tranh chấp nữa,
cho nên không có sự việc gì người tu tập không hiểu biết sáng tỏ,
rõ ràng, không biện luận được một cách thông suốt. Điều này giải
thích rằng: không có vị Phật nào không biết thuyết pháp độ sanh.
- * * *
- b .- chữ tÂM
qua lời d?y của chư tổ:
- 1) Trong Kinh
Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ Huệ Năng có dạy:
-
"Tâm thông thì thuyết
thông".
- Hành giả nào
thực tâm tu học, không phân biệt tại gia cư sĩ, hay xuất gia tu
sĩ, tâm trí thông suốt, đạt được đến đâu, thuyết giảng thông suốt,
đến mức độ đó, lợi ích chúng sanh. Ví như trước có học hành nghiêm
túc, chân tu thực học, sau đó mới có thể làm thầy chỉ dạy người
khác.
- * *
- 2) Thiền sư Bá Trượng
Hoài Hải có dạy:
-
"Tâm địa nhược không, tuệ
nhựt tự chiếu".
- Nghĩa là: Khi
tâm địa, hay tâm thức, hoàn toàn trống rỗng, lặng lẽ, lẵng lặng,
thanh tịnh, không còn chứa chấp những vọng tâm, vọng tưởng, vọng
thức, vọng niệm nào cả, thì trí tuệ bát nhã tự bừng sáng. Cũng
như mây đen tan biến hết, tức là phiền não không còn nữa, tâm thức
không tịch, thì mặt trời trí tuệ tự chiếu sáng. Tâm được thanh
tịnh thì cảnh vật cũng thanh tịnh, chúng sanh chung quanh cũng
được bình yên.
- Một căn phòng
tăm tối ngàn đời, nhưng chỉ cần bật điện một cái, hay đem vào một
ngọn đèn, thì liền sáng tỏ ngay, đâu cần đợi ngàn năm sau nữa, mới
chịu sáng lại. Cũng vậy, khi con người chịu mồi ngọn đuốc trí tuệ
của mình với ngọn đuốc chánh pháp của chư Phật, chư Tổ, thì ngọn
đuốc trí tuệ của mình cũng bừng sáng lên ngay. Giây phút bừng
sáng đó, trong thiền tông, gọi là: ngộ đạo.
- * * *
- 3) Thiền sư Bá
Trượng Hoài Hải có dạy:
-
"Tâm cảnh không dính nhau
là: giải thoát".
- Nghĩa là: Chúng
ta vẫn thấy, vẫn nghe, vẫn hiểu, vẫn biết tất cả các cảnh trên
trần đời, trong kinh điển gọi là: kiến văn giác tri, nếu tâm không
dính mắc, thì không phiền não. Không phiền não tức là giải thoát.
Thật là hết sức đơn giản! Lý lẽ tuy cao siêu vi diệu, nhưng hết
sức thực tế. Bất cứ ai cũng có thể làm được, không cần phải thờ
lạy, cúng kiến, không phân biệt tôn giáo, sắc tộc, ngôn ngữ, nghề
nghiệp, xuất xứ, học thức, nam nữ, già trẻ, bé lớn, giàu nghèo,
sang hèn. Tâm không phan duyên theo cảnh trần là: giải thoát!
- * *
- 4) Sơ Tổ Thiền
phái Trúc Lâm Trần Nhân Tông có dạy:
- "Đối cảnh vô
tâm mạc vấn thiền".
- Nghĩa là: Khi
nào đối trước cảnh trần, tâm không còn dính mắc, không khởi bất cứ
tâm niệm gì, trong kinh sách gọi là: vô tâm vô niệm, tức là không
còn khởi tâm tham sân si, thản nhiên trước sự thịnh suy, thăng
trầm của đời sống, bình thản trước những lời khen tiếng chê, vượt
qua được sóng gió của cuộc đời, tức nhiên tâm sẽ được khinh an, tự
tại, đó là: thiền định niết bàn
- Con người sống
trên đời, mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý, thường xuyên tiếp xúc
với các cảnh trần: hình ảnh, âm thanh, mùi hương, mùi vị, xúc chạm
và ký ức. Khi con người tiếp xúc với các trần cảnh, mà bị dính
mắc, tức là: trong tâm khởi niệm thương hay ghét, khen hay chê, ưa
thích hay tức giận, đều gọi là: loạn tâm vọng tâm. Không khởi bất
cứ tâm niệm nào cả, gọi là: định tâm, hay: tâm thiền định. Đây
chính là cốt tủy, là mục đích cứu kính của đạo Phật vậy.
- * *
- 5) Chư Tổ có
dạy:
- "Lục căn tiếp
xúc lục trần,
-
không sanh lục thức, là:
giải thoát".
- Nghĩa là:
Thường ngày, khi sống trong cõi đời này, sáu căn tiếp xúc với sáu
trần, mà không sanh tâm dính mắc, không sanh tâm loạn động vì tham
sân si, trong kinh sách gọi là: lục thức hay lục tặc, thì chúng ta
sẽ được tự tại, giải thoát ngay hiện đời. Mắt trông thấy sắc, tai
nghe thấy tiếng, mũi ngửi biết mùi, lưỡi nếm biết vị, nhưng mà
đừng khởi niệm thương hay ghét, thích hay không thích, nếu như có
khởi niệm rồi thì cũng đừng theo. Như vậy chúng ta đâu có gì
gọi là phiền não, khổ đau nữa, tức là được giải thoát.
- * *
- 6) Thiền sư Mã
Tổ Đạo Nhất có dạy:
- "Tức Tâm thị
Phật ",
-
hay: "Phật tức Tâm, Tâm
tức Phật".
- Nghĩa là: Tâm
của chúng ta chính là Phật, Phật chính là tâm của chúng ta. Khi
chúng ta hành động, nói năng hay suy nghĩ bất thiện, lợi mình hại
người, tức là tam nghiệp không thanh tịnh, tâm Phật ẩn mất. Khi
chúng ta hành động, nói năng hay suy nghĩ hiền thiện, lợi mình lợi
người, tức là tam nghiệp thanh tịnh, tâm Phật hiển hiện. Thực là
đơn giản!
- Vì không chịu
học hiểu giáo lý, biết bao nhiêu người gọi là Phật Tử, tại gia hay
xuất gia, tin theo đạo Phật, không khác gì ngoại đạo. Ngoại đạo
nghĩa là: tuy vẫn thờ tượng Phật, tại gia hay là tại chùa, nhưng
vẫn thường ngày ngoài tâm cầu đạo, chỉ biết lo chuyện cúng kiến lễ
nghi, dâng sớ cầu an, cúng sao giải hạn, cầu khẩn van xin, cầu
nguyện khấn vái, đủ thứ mọi điều, nhưng không hiểu không biết Phật
ở nơi đâu?
- Ngoài tâm không
có Phật, cầu Phật ngoài tâm, là nghĩa lý gì? Phật không ở trong
chùa, không ở trong các pho tượng, bằng vàng hay bạc, bằng đồng
hay cây. Phật không ở trên mây, trên non hay trên núi. Phật không
ở dưới suối, dưới sông hay dưới biển. Chúng ta không cần phải đi
đến xứ Ấn Độ xa xôi, hay bất cứ nơi đâu, mới thấy được Phật. Phật
đang ở ngay trong tâm của chúng ta.
- Khi thấy người
nào vào chùa, van xin cầu khẩn chư Phật ban cho điều này điều kia,
chư Tổ thường dạy: Ngươi cõng Phật đi tìm Phật! Nghĩa là: chư
Phật đã bỏ những điều phiền não, chỉ dạy pháp môn tu tập để giải
thoát, để thành Phật, chúng ta không chịu tu học, để tự mình thoát
ly phiền não khổ đau, trái lại chúng ta van xin cầu khẩn những
điều phiền não, chẳng hạn như: tiền tài, danh vọng, ước gì được
nấy, nhứt bổn triệu lợi, buôn may bán đắt, thi đâu đậu đó, bình
yên vô sự, nhà cao cửa rộng, điều cuối cùng là: cầu vãng sanh cực
lạc quốc!
-
Cầu không được, khổ là cái
chắc!
-
Cầu bất đắc, tức khổ không
sai!
- * *
- 7) Chư Tổ có
dạy:
-
"Tâm, Phật, chúng sanh, tam vô sai biệt".
- Nghĩa là: Tâm,
Phật và chúng sanh, cả ba không khác, không sai biệt. Trong kinh
nhựt tụng có câu: Năng lễ sở lễ tánh không tịch, nghĩa là: Phật và
chúng sanh tánh thường rỗng lặng. Tâm của người nào không chất
chứa bất cứ hình ảnh của chúng sanh trong ba cõi, sáu đường, hoàn
toàn trống rỗng, tĩnh lặng, tâm người đó chính là tâm Phật.
- Trong Kinh Hoa
Nghiêm, Đức Phật có dạy:
- "Nhứt thiết
chúng sanh giai hữu Phật tánh", nghĩa là: tất cả chúng sanh đều có
Phật tánh, Phật tâm, chính nghĩa như vậy.
- * *
- 8) Chư Tổ có
dạy:
-
Tam nghiệp hằng thanh tịnh.
-
Đồng Phật vãng tây phương.
- Nghĩa là: Khi
nào ba nghiệp thân khẩu ý thanh tịnh hoàn toàn, tâm của chúng ta
đồng với tâm chư Phật ở tây phương. Biết sống với bản tâm thanh
tịnh thường hằng, ngay hiện tại, đó là cảnh giới niết bàn an lạc.
Nói một cách khác: khi ba nghiệp chưa thanh tịnh, con người sống
đau khổ trong tam giới, khi ba nghiệp hằng thanh tịnh, con người
sống an lạc trong niết bàn, như khi Đức Phật còn tại thế, chứ
không phải đợi sau khi chết mới vãng sanh tây phương.
- Mỗi người đều
có một kho tàng tâm thức, chứa đầy những hình ảnh âm thanh từ ngày
xưa cho đến bây giờ, những chuyện thị phi phải quấy, những định
kiến đúng sai, những người thương kẻ ghét, những lời nói dễ nghe
khó nghe, do tam nghiệp thân khẩu ý gây ra, cho nên tâm trạng lúc
nào cũng bất an, chưa được thanh tịnh, luôn luôn phiền não khổ đau
và trầm luân sanh tử. Nếu phát tâm tu tập, chúng ta phải cố gắng
dọn sạch cái kho tàng tâm thức của mình, mới có thể giác ngộ được
chân lý, giải thoát khỏi tam giới khổ đau. Kho tàng tâm thức đã
được dọn sạch, trống trơn, trong kinh sách gọi là: Như Lai Tạng.
- * *
- 9) Chư Tổ cũng
có dạy:
-
"Nội cần khắc niệm chi
công".
- "Ngoại hoằng
bất tranh chi đức".
- Nghĩa là: Bên
trong tâm, người tu tập cần khắc chế tạp niệm, tức là không theo
các tâm niệm hổn tạp, lăng xăn lộn xộn, đó mới chính thực là: công
phu tu tập. Bên ngoài, người tu tập giữ gìn đức độ bằng cách không
tranh cãi, nói năng luôn luôn đúng chánh pháp, im lặng cũng luôn
luôn đúng chánh pháp.
- * *
- 10) Chư Tổ có
dạy:
- Tác vô nghĩa
sự. Thị cuồng loạn tâm.
- Tác hữu nghĩa
sự. Thị tỉnh ngộ tâm.
- Nghĩa là:
- Làm việc vô
nghĩa: đem lại phiền não khổ đau, lợi mình hại người. Là tâm
cuồng loạn.
-
Làm việc có nghĩa: đem lại
an lạc hạnh phúc, cho mình và cho người. Là tâm tỉnh ngộ.
- * * *
- Tóm lại, trên
cuộc đời này, dù giàu sang hay nghèo khó, dù trí thức hay bình
dân, dù nam phụ lão ấu, dù da trắng da đen hay da màu, dù vua chúa
hay dân chúng, nói chung, bất cứ người nào cũng có hai thứ bệnh:
thân bệnh và tâm bệnh. Đối với thân bệnh, chẳng hạn như đau răng,
nhức đầu, sổ mũi, cảm cúm, đau tim gan tì phế thận, con người cần
tới khả năng trị bệnh của các vị thầy thuốc, dù đông y hay tây y.
Để phòng ngừa thân bệnh, có những phương pháp tập thể dục, những
cách dưỡng sinh khoa học, những chế độ ăn uống thích ứng với từng
lứa tuổi, và tình trạng sức khỏe cá nhân.
- Còn đối với tâm
bệnh, chẳng hạn như tâm tham sân si, tâm ganh tị đố kỵ, tâm hơn
thua phải quấy, tâm thành kiến cố chấp, tâm lo âu sợ sệt, tâm loạn
động bất an, con người cần phải tìm hiểu chánh pháp và áp dụng
trong đời sống hằng ngày. Ngay đến Đức Phật là bậc toàn giác, trí
tuệ sáng ngời, phước báu vô biên, vẫn CÓ thân bệnh, nhưng KHÔNG
phiền não và khổ đau, tâm trí vẫn an nhiên tự tại, trong mọi hoàn
cảnh. Nói một cách khác: Đức Phật không có tâm bệnh. Bất cứ ai
sống trên đời này, còn mang thân xác con người, là còn khổ vì thân
bệnh, nếu không giác ngộ được chân lý vi diệu nhiệm mầu. Các vị
giáo chủ của các tôn giáo cũng có thân bệnh và rồi cũng chết như
mọi người mà thôi.
- Khi đứng trong
một căn phòng, cầm đèn rọi ra bên ngoài, thì mình sẽ thấy rõ, biết
rõ cảnh vật bên ngoài, còn bên trong căn phòng thì tối thui.
Ngược lại, khi xoay ngọn đèn vào bên trong căn phòng, dĩ nhiên căn
phòng sáng tỏ, một cách rõ ràng, con người có thể thấy mọi thứ đồ
đạc và đi đứng không bị vấp ngã. Cũng vậy, khi phóng tâm quán sát
bên ngoài, con người có thể phê phán người này đúng, người kia
sai, chuyện này phải, chuyện kia quấy.
- Con người có
thể biết chuyện khắp năm châu bốn biển, chuyện thời sự khắp thế
giới, chuyện văn chương kim cổ đông tây, muôn sự mọi việc bên
ngoài đều biết rõ ràng rành mạch. Trái lại, chuyện bên trong tâm
trí của chính mình thì mù tịt, chẳng biết tí gì cả! Mình thực sự
là ai, chẳng biết! Mình thực sự đang muốn gì, chẳng biết! Mình
thực sự đang làm thiện hay bất thiện, chẳng biết! Mình thực sự
đang nghĩ thiện hay bất thiện, chẳng biết! Mình thực sự sống trên
đời để làm gì, chẳng biết! Mình sau này sẽ đi về đâu, nếu vẫn cứ
tạo tội tạo nghiệp hằng ngày, chẳng biết! Chuyện gì thuộc về bên
trong, thuộc về nội tâm, chúng ta cũng đều chẳng biết! Cái tâm ý
điên đảo đảo điên, cái vọng tưởng lăng xăng lộn xộn, tạo tội tạo
nghiệp này, là nguyên nhân chính dẫn chúng ta vào vòng sanh tử
luân hồi.
- Làm sao
hàng phục và an trụ được cái tâm ý này chính là trọng tâm của
đạo Phật. Điều quan trọng trong đạo Phật chính là:
- Tâm trí có
dính mắc hay không dính mắc cảnh trần.
- Nếu tâm
dính mắc, gọi là: tâm phan duyên, tâm loạn động.
- Nếu tâm không
dính mắc, chính là: bản tâm thanh tịnh vậy.
-
--o0o--
|
|