-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Cư Trần Lạc Ðạo
-
(Trọn bộ 3 tập)
-
Toronto, Canada
1999 - PL 2543
- ---
o0o ---
-
-
Tập 3
- [7]
- Giá trị của
con người
-
- Từ ngàn xưa cho
đến ngày nay, từ phương đông sang đến phương tây, từ Á châu sang
đến Âu châu, Mỹ châu, Phi châu và Úc châu, khi bàn về vấn đề giá
trị của con người, người ta có vô số cách nhận định, có vô số căn
cứ, có vô số cơ sở, có vô số thước đo, có vô số tiêu chuẩn, có vô
số khía cạnh và có vô số căn bản, để bàn bạc, để thảo luận, để
tranh cãi, để thẩm định giá trị của con người.
- Không ai đồng ý
với ai. Không thời điểm nào giống thời điểm nào. Không địa phương
nào hợp với địa phương nào. Không sắc tộc nào đồng quan điểm với
sắc tộc nào. Không tôn giáo nào đồng ý với tôn giáo nào.
- Trong phạm vi
xã hội, phải chăng con người có nhiều tài sản, tiền bạc, của cải
thì có giá trị hơn? Phải chăng con người có nhiều quyền thế, lắm
chức tước, địa vị cao thì có giá trị hơn? Phải chăng con người có
kiến thức rộng, hiểu biết sâu thì có giá trị hơn? Phải chăng con
người có nghề nghiệp chuyên môn, bằng cấp cao thì có giá trị hơn?
Phải chăng con người có nhiều danh vọng, nhiều tiếng tăm thì có
giá trị hơn? Phải chăng con người có sắc đẹp mỹ miều, duyên dáng
thì có giá trị hơn? Phải chăng con người có nhiều tài năng, khéo
léo thì có giá trị hơn?
- Trong phạm vi
tín ngưỡng hay tôn giáo, phải chăng người tu sĩ có giá trị hơn
quảng đại quần chúng tín đồ? Phải chăng vị tu sĩ nào tu nhiều
năm, hay có phẩm trật cao thì có giá trị hơn? Phải chăng tín đồ
nào đi cúng kiến, lễ bái, xem lễ, cầu nguyện nhiều thì có giá trị
hơn? Phải chăng người nào biết làm việc phước thiện, biết làm công
quả, biết làm đồng công, biết giúp đỡ nhiều người, biết bố thí kẻ
nghèo, biết cúng dường các bậc tôn túc, biết phân biệt phải trái,
trắng đen thì có giá trị hơn?
- Trong muôn ngàn
câu hỏi đó, trong muôn ngàn ý kiến của muôn triệu người, tự cổ chí
kim, từ đông sang tây, từ Á sang Âu, vấn đề cần suy tư hiện nay
của chúng ta là gì? Đó chính là hai câu hỏi:
- Đâu là giá trị
chân thật của con người?
- Tìm hiểu giá
trị chân thật của con người được ích lợi gì?
- * * *
- trong khi bàn
về vấn đề giá trị của con người, thông thường người ta có thể xem
xét về hai phương diện: vật chất và tinh thần.
- Về phương diện
vật chất, người đời thường đánh giá cao những con người ăn mặc
lịch sự, sang trọng, đúng thời trang, những con người sống trong
những ngôi nhà cao, cửa rộng, những tòa biệt thự đồ sộ, nguy nga,
tráng lệ, những con người đi trên những chiếc xe hơi lộng lẫy, đắt
tiền, đầy đủ tiện nghi, những con người rộng rãi, hào phóng, xài
tiền như nước.
- Bên cạnh đó,
người đời cũng thường đánh giá cao những con người có sắc đẹp
quyến rủ, những con người dung mạo tuyệt trần, những con người có
thân hình lực lưỡng, cân đối, những con người khỏe mạnh, tráng
kiện, những con người có uy quyền, có thế lực, có danh vọng, những
con người có địa vị trong xã hội, những con người có tài sản kếch
sù, những con người có nhiều cơ sở làm ăn, buôn bán, kinh doanh
khắp nơi, những con người hét ra lửa mửa ra khói, những con người
tiền hô hậu ủng, những con người có kẻ ăn người ở, có kẻ hầu người
hạ, phục dịch trong ngoài, những con người có sức mạnh vô địch,
những con người có võ công tuyệt luân.
- Những con người
như vậy sở dĩ được đánh giá cao, bởi vì đó là mục tiêu nhắm đến,
là niềm mơ ước đạt được của hầu hết mọi người nam nữ, già trẻ, lớn
bé, trên thế gian này. Bằng đủ mọi cách, mọi thứ, mọi phương
pháp, mọi phương tiện, mọi mưu mô, mọi kế sách, mọi thủ đoạn, mọi
chiến thuật, mọi chiến lược, mọi sách lược, con người trên thế
gian này đều chỉ mong đạt được, đoạt được những điều mơ ước đó, dù
có phải chà đạp lên sanh mạng hay nhân phẩm của người khác hay
nhiều người khác. Lắm khi con người bất chấp sanh mạng và tiền đồ
của cả một dân tộc, hay của cả nhân loại trên quả địa cầu này, chỉ
vì những tiêu chuẩn giá trị trên đây. Thật thảm thương thay!
- Về phương diện
tinh thần, người đời thường đánh giá cao những con người có nhiều
bằng cấp chuyên môn, những con người có kiến thức rộng rãi, thông
thuộc lịch sử đông tây kim cổ, những con người có sự hiểu biết bao
quát mọi vấn đề trong cuộc sống, những con người có nhiều năng
khiếu đặc biệt, những con người đạt được nhiều thành tích trong
mọi lãnh vực, những con người có hình tướng trang nghiêm, đạo mạo,
đàng hoàng, bề ngoài đứng đắn, từ tốn, chậm rãi, những con người
thực hiện được những chuyện cao cả, những chuyện dị thường, những
chuyện huyền bí, những chuyện kinh dị, những chuyện kinh thiên
động địa, những chuyện không ai làm nổi, những chuyện không ai
tưởng tượng nổi.
- Tất cả những
con người kể trên được đánh giá là những con người có giá trị
trong xã hội. Nói cách khác, giá trị của con người trong thế gian
hiện nay được xem xét không ngoài hai phương diện: vật chất và
tinh thần. Nếu không giàu sang thì cũng phải tài giỏi. Nếu không
quyền thế thì cũng dòng dõi quý phái, danh gia, vọng tộc. Nếu
không có chức thì cũng phải có bằng. Nếu không tốt tướng, khỏe
mạnh, đẹp đẽ, mặn mà thì cũng phải nết na, duyên dáng, thùy mị,
đạo đức. Chính vì những tiêu chuẩn qui định giá trị của con người
như trên, cho nên cuộc đời trên thế gian này đầy dẫy những bất
công, gian trá, phiền não và khổ đau.
- Nếu tiêu chuẩn
qui định giá trị của con người là tiền tài, của cải, giàu sang thì
tức nhiên những con người thuộc giới bình dân sẽ bị khinh khi, chà
đạp. Như vậy, nhân phẩm không còn được tôn trọng, nhân quyền không
còn được bình đẳng. Những con người không có nhiều tiền tài, của
cải, giàu sang thường mang mặc cảm tự ti, thấp kém, dễ tự ái, cho
nên lúc nào cũng sẵn sàng phản ứng, đối phó, đôi co, cãi cọ, bực
bội, khi "thấy" người khác khinh dể mình, khi "nghe" người khác
khinh dể mình, khi "nghi" người khác khinh dể mình. Đôi khi chưa
thấy ai khinh dể mình, chỉ nghe thoang thoáng, nghe đồn đại, nghe
phong thanh người khác khinh dể mình, hoặc nghi người khác khinh
dể mình, thì mình đã nỗi trận lôi đình, nỗi giận đùng đùng, ầm ầm,
tam bành lục tặc nỗi lên cuồn cuộn. Bởi vậy mới biết trong lòng
mỗi người chúng ta, ai ai cũng đều có một ngọn hỏa diệm sơn cả.
- Tâm trạng của những người không có
nhiều tiền tài, của cải, giàu sang thường bất an, xáo trộn. Chỉ
cần một lời nói, một cử chỉ hay một ý nghĩ "vô ý" nào đó cũng có
thể làm bùng nổ những cuộc tranh luận, những cuộc tranh chấp,
những cuộc tranh biện, những cuộc tranh đấu, những cuộc cãi vã
giữa hai người, giữa hai nhóm người, giữa hai đoàn thể. Và như vậy
thường dẫn đến chuyện ấu đả nhau, tìm cách chơi nhau cho đến chết,
cho tán gia bại sản, cho sạt nghiệp luôn, cho dẹp tiệm luôn, cho
đóng cửa báo luôn, cho tơi bời hoa lá nhà người, cho chúng khỏi
ngóc đầu lên nổi. Hoặc con người tìm cách kiện tụng nhau, lôi
nhau ra trước ba tòa quan nhớn quan nhỏ, tóc quăn mũi lõ, nhờ phân
xử những bạn bè cũ người đồng hương, nếu như lời nói, cử chỉ hay ý
nghĩ đó là "cố ý" miệt thị người khác nghèo hơn mình, ít tiền tài
hơn mình, miệt thị nhóm người khác ít của cải, ít vốn liếng, ít
tiền bạc hơn mình, miệt thị đoàn thể khác ít uy tín hơn đoàn thể
mình.
- Trái lại, những
con người nhiều tiền lắm bạc thường kiêu căng, ngạo mạn, phách
lối, coi trời bằng nắp vung, dễ gây ác cảm, thù hận đối với mọi
người. Những con người thừa tiền lắm của thường có thái độ mục hạ
vô nhân, họ nhìn đời bằng nửa con mắt, họ nhìn đời bằng cặp kiếng
đen; dù rằng tiền bạc và của cải, họ đang sở hữu, không có xuất xứ
trong sạch, không có xuất xứ rõ ràng, minh bạch và thực là không
đáng hãnh diện, không đáng khoe khoang, không đáng tự hào chút nào
cả! Chính vì tiêu chuẩn qui định giá trị của con người là tiền
tài, của cải, giàu sang, gây nên hậu quả an ninh của xã hội cũng
bấp bênh, đạo đức suy đồi, tranh chấp triền miên. Cuộc đời đầy
dẫy những phiền não và khổ đau, cho cả hai hạng người "có hay
không có" tiền tài, của cải, giàu sang.
- Nếu tiêu chuẩn
qui định giá trị của con người là quyền thế, địa vị, chức tước,
phẩm hàm, danh giá, kiến thức, bằng cấp, tài năng, thì tức nhiên
những con người thuộc giới bình dân sẽ bị khinh khi, chà đạp. Như
vậy, nhân phẩm không còn được tôn trọng, nhân quyền không còn được
bình đẳng. Những con người không có quyền thế, địa vị, chức tước,
phẩm hàm, danh giá, kiến thức, bằng cấp, tài năng, thường mang
mặc cảm tự ti, thấp kém, dễ tự ái, cho nên lúc nào cũng sẵn sàng
phản ứng, đối phó, đôi co, cãi cọ, bực bội, khi "thấy" người khác
khinh dể mình, khi "nghe" người khác khinh dể mình, khi "nghi"
người khác khinh dể mình.
- Tâm trạng của
những người không có quyền thế, địa vị, chức tước, phẩm hàm, danh
giá, kiến thức, bằng cấp, tài năng, thường bất an, xáo trộn. Chỉ
cần một lời nói, một cử chỉ hay một ý nghĩ "vô ý" nào đó cũng có
thể làm bùng nổ những cuộc tranh luận, những cuộc tranh chấp,
những cuộc tranh biện, những cuộc tranh đấu, những cuộc cãi vã
giữa hai người, hai nhóm người, hai phe phái. Và như vậy thường
dẫn đến chuyện ấu đả nhau, tìm cách chơi nhau cho đến chết, cho
tán gia bại sản, cho sạt nghiệp luôn, cho dẹp tiệm luôn, cho đóng
cửa báo luôn, cho tơi bời hoa lá nhà người, cho chúng khỏi ngóc
đầu lên nổi. Hoặc con người tìm cách kiện tụng nhau, lôi nhau ra
trước ba tòa quan nhớn quan nhỏ, tóc quăn mũi lõ, nhờ phân xử
những bạn bè cũ người đồng hương, nếu như lời nói, cử chỉ hay ý
nghĩ đó là "cố ý" miệt thị người khác ngu hơn mình, miệt thị người
khác bằng cấp thấp hơn mình, miệt thị người khác ít tài năng hơn
mình, miệt thị nhóm người khác ít danh giá hơn mình, miệt thị phe
phái khác ít quyền thế hơn mình.
- Trái lại, những
con người quyền thế, địa vị, chức tước, phẩm hàm, danh giá, kiến
thức, bằng cấp, tài năng, thường kiêu căng, ngạo mạn, phách lối,
dễ gây ác cảm, thù hận đối với mọi người. Những con người quyền
cao chức trọng, những con người ăn trên ngồi trước, những con
người bằng này cấp kia, những con người có chức có tước, thường có
thái độ mục hạ vô nhân, họ nhìn đời bằng nửa con mắt, họ nhìn đời
bằng cặp kiếng đen; dù rằng quyền thế, địa vị, chức tước, phẩm
hàm, danh giá, kiến thức, bằng cấp, tài năng của họ chỉ là dõm, là
hư, là giả tạm, là hão huyền, và thực là không đáng hãnh diện,
không đáng khoe khoang, không đáng tự hào chút nào cả!
- Chính vì tiêu
chuẩn qui định giá trị của con người là quyền thế, địa vị, chức
tước, phẩm hàm, danh giá, kiến thức, bằng cấp, tài năng, gây nên
hậu quả an ninh của xã hội cũng bấp bênh, đạo đức suy đồi, tranh
chấp triền miên. Cuộc đời đầy dẫy những phiền não và khổ đau, cho
cả hai hạng người "có hay không có" quyền thế, địa vị, chức tước,
phẩm hàm, danh giá, kiến thức, bằng cấp, tài năng.
- Nếu tiêu chuẩn
qui định giá trị của con người là bề ngoài sang trọng, đẹp đẽ, quí
phái, hình tướng trang nghiêm, đạo mạo, uy nghi, thì tức nhiên
những con người thuộc giới bình dân sẽ bị khinh khi, chà đạp. Như
vậy, nhân phẩm không còn được tôn trọng, nhân quyền không còn được
bình đẳng. Những con người không có bề ngoài sang trọng, đẹp đẽ,
quí phái, hình tướng trang nghiêm, đạo mạo, uy nghi, thường mang
mặc cảm tự ti, thấp kém, dễ tự ái, cho nên lúc nào cũng sẵn sàng
phản ứng, đối phó, đôi co, cãi cọ, bực bội, khi "thấy" người khác
khinh dể mình, khi "nghe" người khác khinh dể mình, khi "nghi"
người khác khinh dể mình.
- Tâm trạng của
những người không có bề ngoài sang trọng, đẹp đẽ, quí phái, hình
tướng trang nghiêm, đạo mạo, uy nghi, thường bất an, xáo trộn. Chỉ
cần một lời nói, một cử chỉ hay một ý nghĩ "vô ý" nào đó cũng có
thể làm bùng nổ những cuộc tranh luận, cãi vã giữa hai người, hai
nhóm người, hai tông phái. Và như vậy thường dẫn đến chuyện ấu đả
nhau, tìm cách chơi nhau cho đến chết, cho tán gia bại sản, cho
sạt nghiệp luôn, cho dẹp tiệm luôn, cho đóng cửa báo luôn, cho tơi
bời hoa lá nhà người, cho chúng khỏi ngóc đầu lên nổi. Hoặc con
người tìm cách kiện tụng nhau, lôi nhau ra trước ba tòa quan nhớn
quan nhỏ, tóc quăn mũi lõ, nhờ phân xử những bạn bè cũ người đồng
hương, nếu như lời nói, cử chỉ hay ý nghĩ đó là "cố ý" miệt thị
người khác xấu xí hơn mình, không sang trọng bằng mình, không oai
phong bằng mình, không nỗi tiếng bằng mình, miệt thị nhóm người
khác không quí phái bằng nhóm mình, miệt thị tông phái khác không
được chính tông, chính phái, chân truyền như mình, không trang
nghiêm, đạo mạo, uy nghi, đĩnh đạc như mình.
- Trái lại, những
con người có bề ngoài sang trọng, đẹp đẽ, quí phái, hình tướng
trang nghiêm, đạo mạo, uy nghi, thường kiêu căng, ngạo mạn, phách
lối, dễ gây ác cảm, thù hận đối với mọi người. Những con người bộ
vó trang nghiêm, những con người ra vẻ quí phái, những con người
có tướng oai phong, những con người có tiếng có tăm, thường có
thái độ mục hạ vô nhân, họ nhìn đời bằng nửa con mắt, họ nhìn đời
bằng cặp kiếng đen, dù rằng bề ngoài sang trọng, đẹp đẽ, quí phái,
hình tướng trang nghiêm, đạo mạo, uy nghi của họ chỉ là cái võ
không ruột và thực là không đáng hãnh diện, không đáng khoe
khoang, không đáng tự hào chút nào cả!
- Chính vì tiêu
chuẩn qui định giá trị của con người là bề ngoài sang trọng, đẹp
đẽ, quí phái, hình tướng trang nghiêm, đạo mạo, uy nghi, gây nên
hậu quả an ninh của xã hội cũng bấp bênh, đạo đức suy đồi, tranh
chấp triền miên. Cuộc đời đầy dẫy những phiền não và khổ đau, cho
cả hai hạng người "có hay không có" bề ngoài sang trọng, đẹp đẽ,
quí phái, hình tướng trang nghiêm, đạo mạo, uy nghi.
- Như vậy, chúng
ta phải công nhận rằng các yếu tố, các căn cứ, các tiêu chuẩn qui
định giá trị của con người trên đây thường dẫn đến những vụ xáo
trộn, những vụ tranh cãi, những vụ tranh chấp, những vụ tranh đấu,
những vụ tranh biện, những vụ tranh luận, những vụ tranh đua,
những vụ kiện tụng, những vụ con kiến đi kiện củ khoai, những vụ
vạch áo cho người xem lưng, những vụ vạch lá tìm sâu, những vụ
đào xới tam đại tổ tiên người khác để sỉ vả, nhục mạ, mắng nhiếc,
chửi bới, bêu riếu, những trận bút chiến, những sự chia rẽ, những
hiện tượng phân hóa, những bất công trong xã hội. Đồng thời, các
tiêu chuẩn qui định giá trị của con người trên đây cũng dẫn đến
những phiền não và khổ đau trong tâm tư của tuyệt đại đa số con
người trên thế gian này trong mọi hoàn cảnh.
- Thí dụ như chỉ
cần nghe người nào đó chê mình nghèo, chê mình bất tài, chê mình
ngu, chê mình dốt, dù là chê trước mặt hay chê sau lưng, thì chúng
ta cũng khó mà nhịn được. Đôi khi, chưa nghe trực tiếp người nào
nói, chỉ cần nghe đồn, nghe nói, hay tưởng tượng người nào đó nói
xấu mình điều gì đó, mình chẳng bao giờ bận tâm dành một phút để
suy xét xem mình có thực xấu như người ta nói đó hay không, nhiều
khi chưa kịp suy nghĩ phải trái gì hết, thì ngọn hỏa diệm sơn
trong lòng chúng ta đã bùng lên dữ dội, khó mà ngăn nổi. Cho dù
có nhịn được bề ngoài, làm tỉnh ngoài mặt, chúng ta cũng khó lòng
dẹp được những niệm sân, khởi lên trong tâm trí. Cho dù có dẹp
được những niệm sân đó trong tâm trí hôm nay, nhưng sau này, mỗi
khi chúng ta nhớ lại cảm giác bị khinh chê đó, tâm trí cũng khởi
những niệm sân, như thể câu chuyện mới vừa xảy ra vậy.
- Thí dụ như chỉ
cần đọc báo, xem phim thấy tác giả hay đạo diễn nào đó viết lách,
kể chuyện, dựng phim, ngụ ý châm biếm, khôi hài, chế giểu, đùa
cợt, chê bai, khích bác, công kích những thói hư tật xấu của một
nhân vật nào đó trong truyện hay trong phim, giống y chang như
mình, hay na ná giống như mình, thì chúng ta khó mà nhịn được, khó
mà dằn được cơn tức giận trào lên như sóng cồn ngoài biển cả, khó
mà nín được, không thể không phản ứng, không thể không viết bài
đáp lại, nhẹ thì đính chánh, thanh minh thanh nga, nặng thì mạt
sát, hèn nhát thì sáng tác thư rơi, ném đá dấu tay, tuyên truyền
rỉ tai, bươi móc đời tư, tam đại nhà người ta cho hả hê cái lòng
dạ hỏa diệm sơn lâu đời của mình, cho đả cơn tức giận vô cùng vô
tận trong lòng mình, còn chưa chịu thôi, nữa là phải nhịn hay
sao?
- Nếu không làm
vậy, chúng cho là mình ngu, không biết gì cả. Chúng nó ngu chứ
mình đâu có ngu dại gì! Nhất định phải làm tới, phải làm cho ra
nhẽ mới thôi. Dại gì mà nhịn chứ! Tại sao lại phải nhịn? Nhịn
thì nhục! Cự thì đục! Có khi người ta thực sự không có ý ám chỉ
mình, nhưng mình cứ la toáng hoáng lên và nhận bừa rằng họ ám chỉ
mình, để rồi tự mình chuốc lấy phiền não và khổ đau, ngày ăn không
ngon, đêm ngủ chẳng được!
- Lúc nào mình
cũng nghi, lúc nào mình cũng nghĩ, lúc nào mình cũng tưởng tượng
và cho rằng người ta luôn luôn chực chờ để "chơi" mình, người ta
luôn luôn muốn đè mình xuống để nâng họ lên, người ta luôn luôn
muốn tìm dịp để hại mình, người ta luôn luôn rình rập, người ta
luôn luôn soi mói, người ta luôn luôn muốn vạch lá tìm sâu, người
ta luôn luôn muốn bới lông tìm vết, người ta luôn luôn muốn vạch
áo mình cho bàng dân thiên hạ, bá tánh trăm họ xem lưng mình cho
biết chơi!
- Trong Kinh Pháp
Cú, Đức Phật có dạy rằng:
- Không nên tìm
lỗi của kẻ khác,
- không nên xét
những việc kẻ khác có làm hay không làm.
- Hãy tìm lỗi của
chính mình,
- hãy xét những
điều đã làm hay không làm
- trong hành động
của chính mình.
- Thực ra, dù
người ta nói mình ngu, mình không ngu thì thôi, hơi đâu phí sức
tức giận cho mệt. Người ta nói mình ngu, mình tức giận lên, thì
đúng là mình ngu quá rồi, còn gì nói nữa! Người ta nói mình làm
bậy, mình không có làm bậy thì thôi, hơi đâu phí sức tức giận cho
mệt. Người ta nói mình dính lọ trên mặt, mình không có dính lọ
trên mặt thì thôi, hơi đâu phí sức tức giận cho mệt. Người ta nói
mình bị mất uy tín, mình đâu có uy tín để mất thì thôi, hơi đâu
phí sức tức giận cho mệt. Người ta nói mình nghèo đến mức không có
khố để che thân, mình không có nghèo đến mức đó thì thôi, hơi đâu
phí sức tức giận cho mệt. Người ta nói mình ngu đến mức không có
chữ nghĩa để đem bán độ nhựt, mình không có ngu, không có dốt đến
mức đó thì thôi, hơi đâu phí sức tức giận cho mệt.
- Trong Pháp Tứ
Y, Đức Phật có dạy: "Y nghĩa bất y ngữ ".
- Nghĩa là muốn
có được cuộc sống an lạc và hạnh phúc, chúng ta đừng cố chấp, đừng
quan tâm đến những "lời nói vô nghĩa" như trên. Chúng ta chỉ có
hai bàn tay, làm sao có thể bụm miệng thế gian cho xuể? Thôi thì
kệ họ đi. Được như vậy thì khỏe quá chừng chừng! Khỏe re! Còn cố
chấp thì nặng như bò kéo xe! Trong thời Đức Phật còn tại thế, khi
Ngài đi khất thực, có người đi theo sau quấy rầy, dùng đủ mọi lời
thô tháo, mắng nhiếc, nhục mạ. Ngài vẫn thản nhiên bước đi trong
chánh định, như không có chuyện gì xảy ra cả. Người đó thấy Đức
Phật tiếp tục lặng thinh, nên tức giận quá, chặn đường và hỏi:
Này ông Cồ Đàm, có nghe ta nói gì không, có chịu thua chưa?
- Lúc đó, Đức
Phật từ tốn nói bài kệ như sau:
- Người hơn thì
thêm oán.
- Kẻ thua ngủ
chẳng yên.
- Hơn thua đều xả
hết.
- Giấc ngủ được
an lành.
- Như vậy, nếu
chúng ta không quan tâm đến chuyện hơn thua, không chấp những lời
nói vô nghĩa, những câu văn, ngôn ngữ, bài viết xuất phát từ lòng
hận thù, ganh tị, đố kỵ, ghen ghét, ai muốn nói gì cũng chẳng sao,
ai muốn nghĩ gì cũng được, thì chắc chắn chúng ta sẽ không phiền
não và khổ đau, ngày ăn cơm ngon lành, tối đến ngủ thẳng giấc.
Chẳng hạn như khi chúng ta đi ăn tiệc, mãn tiệc ra về, chủ nhà gói
quà biếu tặng, nhưng chúng ta không nhận, thì chủ nhà đương nhiên
phải giữ món quà đó lại.
- Cũng vậy, người
đời thường "tặng" chúng ta những lời khen, tiếng chê đầu môi chót
lưỡi, chúng ta "không nhận", thì chẳng ảnh hưởng gì, sẽ được an
giấc ngủ. Nếu nhận lời khen, dù biết là không đúng, thì cũng
khoái chí quá ngủ chẳng được. Nhận tiếng chê, tiếng chì, tiếng
bấc, dù biết là đúng, thì cũng bực dọc quá, bực bội quá, bực mình
quá, bực tức quá, tức nhiên ngủ cũng chẳng được. Như vậy, nếu
chẳng những nhận vào tâm thức những lời khen, tiếng chê, còn quyết
tâm sống để dạ chết mang theo, thì chúng ta ngu hay không ngu? Kệ
họ nói gì, nghĩ gì thì có phải là khỏe biết mấy! Người ta nói lời
khen, tiếng chê xong rồi, họ về nhà quên mất, ngủ thẳng cẳng. Còn
chúng ta cứ nhớ mãi, nhớ mãi, còn đem san sẻ chia sớt cái tâm thần
bất an vì những lời khen, tiếng chê đó cho những người thân trong
gia đình, vợ chồng con cái, để mỗi người mất ngủ vài đêm giống như
mình vậy, thử hỏi chúng ta ngu hay khôn?
- Trong Kinh Pháp
Bảo Đàn, Lục Tổ Huệ Năng cũng dạy:
- Tắng ái bất
quan tâm.
- Trường thân
lưỡng cước ngọa.
- Nghĩa là nếu
những chuyện thương thương ghét ghét chẳng bận lòng, chẳng đem vào
tâm thức, thì chúng ta sẽ nằm thẳng hai chân ra mà an giấc ngủ,
giấc ngủ được an lành, khỏi phải trằn trọc suốt canh trường, nằm
đếm số từ một đến vài trăm ngàn! Thiệt là khỏe re! Khỏe ru bà
rù! Trong tam tạng kinh điển, Đức Phật có dạy về "pháp nhẫn ba la
mật". Nếu thực sự chúng ta biết được, hiểu được và thực hành được
như vậy, thì chắc chắn chúng ta sẽ thoát khỏi phiền não và khổ
đau, chúng ta sẽ sống cuộc đời an lạc và hạnh phúc ngay trên thế
gian đầy tranh chấp này.
- Thế nào là
"pháp nhẫn ba la mật"?
- Đó là phương
pháp nhẫn nhịn, kham nhẫn, chịu đựng mọi chuyện trên đời, mọi cơn
sóng gió của thế gian. Đó là phương pháp "nhẫn nhịn mà không
thấy nhục nhã" như người đời thường nghĩ. Bởi vì, nếu nhẫn
nhịn mà còn thấy là nhục nhã, thì chúng ta chỉ có thể nén giận để
nhịn, chắc là không lâu, không quá ba lần. Chúng ta nên nhận định
một cách sáng suốt rằng những lời thị phi "không có nghĩa" gì cả,
cho nên chúng ta "không cần chấp" làm gì. Chúng ta không chấp vào
những lời nói, phê bình, chỉ trích, mạ lị, miệt thị, vu khống, vu
cáo, thay trắng đổi đen, lộng giả thành chơn, thì chắc chắn chúng
ta sẽ an ổn, bình yên, không ai xâm phạm được.
- Thí dụ như khi
người ta đưa lửa tới đốt, chúng ta đưa bổi ra đón, lửa có điều
kiện cháy lớn hơn. Nếu chúng ta không đón ngọn lửa do người ta
đem tới, thì ngọn lửa đó chỉ đốt hư không mà thôi, hư không không
có gì để đốt cháy được, lúc nào đó lửa cũng sẽ tắt queo, không gây
thiệt hại gì! Cũng vậy, khi bị người khác công kích, chỉ trích,
mạ lị, miệt thị, chúng ta không chấp vào đó, coi chuyện đó là
những chuyện "đương nhiên phải có" ở thế gian đầy tranh chấp, ganh
tị, đố kỵ, chúng ta sẽ an ổn, bình yên, không ai xâm phạm được.
- Trong Kinh Diệu
Pháp Liên Hoa, gọi tắt là Kinh Pháp Hoa, Đức Phật dạy: đó là "thập
như thị", tức là mười thứ như thị, gồm có: như thị tánh, như thị
tướng, như thị thể, như thị lực, như thị tác, như thị nhơn, như
thị duyên, như thị quả, như thị báo, như thị bản mạt cứu cánh.
- Nghĩa là: do
tâm tánh của con người như vậy cho nên hình tướng của con người là
như vậy; do bản thể của con người như vậy cho nên nghiệp lực của
con người là như vậy; do tạo tác của con người như vậy gây ra
nghiệp nhơn như vậy cộng thêm nghiệp duyên như vậy cho nên nghiệp
quả của con người là như vậy; vì nghiệp báo của con người như vậy
cho nên từ xưa đến giờ cứu cánh của con người cũng là như vậy.
Hiểu được mười điều đương nhiên như thị, như thế, như vậy, tức là
chúng ta đã thấy tột chơn tướng của mọi pháp trên thế gian này.
Được như vậy, được như thế, được như thị, chúng ta sẽ sống đời an
lạc và hạnh phúc, bởi vì chúng ta đã giác ngộ và giải thoát.
Nhưng làm thế nào thực hành được pháp nhẫn ba la mật?
- Câu trả lời đó
là: "Người muốn thực hành được pháp nhẫn ba la mật, phải đạt được
trạng thái vô ngã".
- Trước hết,
người đạt được "trạng thái vô ngã" là người không còn chấp "cái
ta" tầm thường, như mọi người trên thế gian này thường chấp.
Người đời thường chấp, thường cho rằng, tấm thân tứ đại mấy chục
ký lô chính là "mình", chính là "ta". Khi được hỏi mình là ai,
người đời thường chỉ ngay ngực, hay chỉ vào tấm thân tứ đại nặng
nề và trả lời: Ta đây nè! Cho nên, hể ai đụng đến "ta", thì phải
phản ứng ngay, phải đối phó ngay, nhịn không nổi, nín không được.
- Trái lại, người
đạt được "trạng thái vô ngã" là người hiểu rõ ràng: tấm thân, do
đất nước gió lửa hợp thành này, không phải là "ta" thực sự. Đó
chỉ là cái trạm dừng tạm thời của kiếp này, trong vô số kiếp, của
"ta" mà thôi. Đến khi mãn kiếp này đời này, "ta" sẽ bỏ lại cái
tấm thân đó mà ra đi, tìm cái thân xác khác, trong sáu nẻo luân
hồi. Nếu không khéo, do lòng tham lam lâu đời dẫn dắt, "ta" lại
chọn nhằm cái thân con heo, hoặc do lòng sân hận lâu đời dẫn dắt,
"ta" lại chọn nhằm cái thân con rắn mãng xà, hay do lòng si mê
lâu đời dẫn dắt, "ta" lại chọn nhằm cái thân con bò, thì khốn khổ
biết là bao nhiêu. Sở dĩ gọi đó là "tấm thân tứ đại", do "đất
nước gió lửa" hợp thành, bởi vì nếu không có những chất từ đất ra
như thức ăn, những chất từ nước như thức uống, những chất từ gió
như dưỡng khí, những chất từ lửa như hơi ấm, bồi bổ liên tục mỗi
giây, mỗi phút, mỗi giờ, mỗi ngày, thì chúng ta đã vong mạng từ
lâu rồi vậy. Đó chỉ là "tấm thân tứ đại", không phải thực là "ta"
vậy.
- Thứ đến, người
đạt được "trạng thái vô ngã" là người hiểu rõ ràng: tâm trạng của
mình luôn luôn thay đổi trong từng sát na, trong từng giây phút.
Những tâm niệm, những suy tư, nghĩ tưởng trong giây phút trước
đây, bây giờ đã khác đi hay không còn nữa. Tâm tánh của mình có
khi hiền thiện như thánh nhơn, cũng lắm khi độc hại còn hơn ác
quỉ. Mình chỉ thấy mọi người khác gian ác, mọi người khác nguy
hiểm, mọi người khác sai lầm, đáng bị trừng phạt, đáng bị bỏ tù,
đáng bị xử tử, để cho xã hội này, cho thế gian này, trong đó có
mình, được sống bình yên, được hưởng sung sướng!
- Con người
thường thấy là mình đúng, khi đòi hỏi phải trừng phạt thật nặng,
đòi hỏi phải bỏ tù rục xương, đày đọa địa ngục, xô xuống hỏa ngục,
những người khác phạm tội ác. Con người thường suy nghĩ, sáng
chế, yêu cầu thi hành những hình phạt ghê rợn nhất để trừng phạt,
trừng trị đích đáng những phạm nhân đã sát hại thân nhân mình và
nghĩ rằng người quá cố sẽ vui lòng nơi suối vàng. Thực ra, đó là
tâm trạng của chính mình muốn như vậy mà thôi. Người đã chết có
nói gì đâu, có yêu cầu gì đâu, có đòi hỏi gì đâu? Bởi vậy có câu:
"Suy bụng ta ra bụng người... chết! ".
- Mấy ai nghĩ
được rằng: nếu làm như vậy, cả hai gia đình phạm nhân và nạn nhân
cũng đều thiệt hại một nhân mạng, đều cùng đau khổ như nhau.
Thỉnh thoảng báo chí cũng có đăng các tin rất cảm động, gia đình
nạn nhân xin giảm tội, xin xử nhẹ tội, hay xin tha tội cho phạm
nhân.
- Trong Kinh Pháp
Cú, Đức Phật có dạy:
- Lấy oán báo
oán, oán nghiệp chập chùng.
- Lấy ân báo oán,
oán nghiệp tiêu tan.
- Con người
thường nhân danh công lý, nhân danh tôn giáo, nhân danh lẽ phải,
nhân danh thượng đế, nhân danh đủ các thứ có thể nhân danh được,
để kết án, kết tội, trừng trị tất cả mọi người khác. Còn nếu mình
phạm tội thì đáng được tha thứ, phải được tha thứ, người khác thì
không đáng được! Cái chỗ bất công này là nguyên nhân chính, đưa
tới xáo trộn, biến loạn trong xã hội là như vậy.
- Cuối cùng,
người đạt được "trạng thái vô ngã" chính là người không còn chấp
"cái ta" tầm thường như mọi người trên thế gian này thường chấp.
Người đạt được"trạng thái vô ngã" là người hiểu rõ ràng rằng: "ta"
không phải là cái thân tứ đại nặng nề, và cũng không phải là cái
tâm suy nghĩ lăng xăng lộn xộn thường ngày, bởi vì những thứ đó bị
vô thường chi phối, nay còn mai mất, chợt hiện chợt biến, không
tồn tại vĩnh viễn.
- Như vậy, "cái
gì" tồn tại vĩnh viễn, không bị vô thường chi phối, "cái gì" bất
cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm, theo như Đức Phật chỉ dạy trong
Bát Nhã Tâm Kinh? Đó chính là "cái ta chơn thật", đó chính là
"con người chơn thật" của tất cả chúng ta. Mục đích cứu kính rốt
ráo tột cùng của Đạo Phật chính là nhằm khai mở, chỉ bày "con
người chơn thật" đó cho mọi người biết được, hiểu được, ngộ được,
nhập được, sống được. Người nào được như vậy tức là được giác ngộ
và giải thoát, được an lạc và hạnh phúc hiện đời.
- Trong kinh
sách, Đức Phật có dạy:
- "Thiên thượng thiên hạ
duy ngã độc tôn".
- Nghĩa là trên
trời dưới đất chỉ có "cái ta chơn thật" là điều độc nhứt đáng tôn
trọng, đáng trân quí mà thôi. Cũng trong Bát Nhã Tâm Kinh, Đức
Phật có dạy:
- Tâm vô quái
ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố,
- viễn ly điên đảo mộng
tưởng, cứu cánh niết bàn.
- Nghĩa là: Nếu
chúng ta ngộ được, nhập được, sống được bằng "con người chơn thật"
không tướng mạo, nên không dơ, không sạch, không tăng, không giảm,
không kẹt nhị biên, thể nhập bất nhị pháp môn, thì tâm chúng ta
không bị bất cứ cái gì có thể khủng bố, nên không còn sợ hãi, do
không còn sợ hãi nên không có gì có thể khiến cho mình kinh khiếp
hoảng sợ, chúng ta xa lìa được tất cả các chuyện điên đảo đảo
điên, các chuyện mộng mơ mơ tưởng, các chuyện không thực ở thế
gian, cuối cùng đạt được cảnh giới niết bàn vô sanh, không còn
phiền não khổ đau, không còn sinh tử luân hồi. Đó mới chính thực
là mục đích cứu kính của người theo đạo Phật bằng trí tuệ bát
nhã.
- Trong Kinh Pháp
Cú, Đức Phật dạy rằng:
- Người nào ôm ấp
tâm niệm nó mắng tôi, nó chửi tôi,
- thì không phải
là người trí, chỉ chuốc khổ vào thân thôi.
- Người nào
không ôm ấp những tâm niệm như vậy,
- thì người đó
dẹp được lòng sân hận.
- Nghĩa là chúng
ta đã thấy rõ như trên, bất cứ ai dù bị mắng chửi, bị mạ lỵ hay
không bị mắng chửi, không bị mạ lỵ, mà cứ ôm ấp tâm niệm đó trong
lòng, thì chỉ chuốc lấy phiền não và khổ đau cho chính mình, có
khi còn đem lại bất an cho gia đình, cho những người chung quanh
nữa mà thôi.
- Trong suốt
những năm dài thuyết pháp độ sanh, Đức Phật luôn luôn khuyến khích
mọi người nên thực hành hạnh nhẫn nại, nhẫn nhịn đến mức rốt ráo,
cao tột, trong kinh điển gọi là "pháp nhẫn ba la mật". Đức
Phật luôn luôn hành pháp nhẫn nại, dù lắm khi Ngài cũng bị chỉ
trích, bị chửi mắng, thậm chí bị tấn công. Nhẫn nại không bao giờ
là dấu hiệu của sự yếu đuối, ươn hèn, kém cỏi, chủ bại, đầu hàng,
nhục nhã. Trái lại, nhẫn nại là sức mạnh bất khuất, sức mạnh vạn
năng, sức mạnh vô song của người tự chủ, của người đã ngộ được và
sống được với "cái ta chơn thật", cho nên không còn sợ bị chúng
khinh khi, không còn sợ chúng "được đằng chân lân đằng đầu", không
còn sợ chúng "được nước làm tới". Tại sao vậy? Bởi vì "cái ta
chơn thật" không phải là tấm thân tứ đại, không có tướng mạo, cho
nên không ai có thể xâm phạm được. Điều nên sợ, đáng sợ chính là
mình không thể kham nhẫn được, không thể chịu đựng nỗi, không thể
tự thắng mình, không thể tự chủ được bản thân và bản tâm mình
trước những thử thách, trước những sóng gió của cuộc đời mà thôi.
- Trong Kinh Pháp
Cú, Đức Phật có dạy:
- Chiến thắng
trăm ngàn quân không bằng tự thắng mình.
- Tự thắng tâm
mình là điều cao quý nhứt.
- Nghĩa là chúng
ta kham nhẫn được, thực hành được "pháp nhẫn ba la mật" là chúng
ta đã "tự thắng tâm mình" rồi vậy.
- Trong Kinh Pháp
Bảo Đàn, Lục Tổ Huệ Năng có dạy:
- Hãy dứt trừ hết
các tâm xấu của chính mình: tâm ghen ghét, tâm tà vạy, tâm vị ngã,
tâm giả dối, tâm ngạo mạn, tâm khinh người, tâm tà kiến, cùng tất
cả những hạnh bất thiện trong mọi thời mọi lúc, hãy luôn luôn thấy
lỗi mình, không nói chuyện tốt xấu của người.
- Thấu hiểu được
và thực hành được lời dạy trên đây của Lục Tổ thì không cần phải
hỏi làm sao để cuộc sống được an lạc và hạnh phúc. Đó chính là an
lạc và hạnh phúc vậy. Trong vô lượng pháp môn tu theo đạo Phật,
chỉ cần tu hạnh "nhẫn nhục ba la mật", nghĩa là "nhẫn mà không
thấy nhục", thì cũng đạt đến chỗ cứu kính gọi là "vô sanh pháp
nhẫn".
- Vô sanh pháp
nhẫn là công phu tu chứng do sức kham nhẫn, sức chịu đựng được
muôn pháp trên thế gian xảy đến, mà chúng ta không sanh khởi một
niệm nào cả trong tâm trí. Tâm trí luôn luôn thanh tịnh, an ổn,
tự tại, không xáo trộn, không lay động. Muôn pháp trên thế gian
này không ngoài tám thứ, chia làm bốn cặp, đó là: "lợi và suy, hủy
và dự, xưng và cơ, khổ và lạc". Tám thứ đó còn gọi là "Bát
Phong", hay tám ngọn gió của thế gian, không bao giờ ngừng thổi,
hết cơn gió này lại đến cơn gió khác.
- Khi gió thổi
hiu hiu, nhè nhẹ, chúng ta có thể kham nhẫn nổi một cách dễ dàng.
Thí dụ như những lúc tai họa xảy tới chút đỉnh, gặp vài chuyện xui
xẻo nho nhỏ, bị các chuyện thị phi không đáng kể, nhưng nhờ có
những phước báo đã làm từ nhiều đời trước và ngay cả đời này, cho
nên chúng ta có thể lướt qua dễ dàng. Hoặc là những lúc được lợi
lộc nho nhỏ tới, được những lời khen tặng tán dương, hay những
chuyện vui nho nhỏ xảy ra, chúng ta cũng bị động tâm, khó giữ được
sự thanh thản bình yên.
- Khi gió thổi
thành những trận cuồng phong, gây tổn thất không thể lường được.
Đó là những lúc tai họa lớn xảy đến dồn dập, họa vô đơn chí, nhẹ
thì tan nhà nát cửa, nặng thì mất mạng. Chẳng hạn như vừa bị bệnh
hoạn, vừa mất công ăn việc làm, vừa gặp tai nạn xe cộ, vừa gặp hỏa
hoạn thiêu rụi nhà cửa, vừa bị chúng kiện đòi bồi thường bạc
triệu! Hoặc những lúc tán gia bại sản, làm ăn thua lỗ, những lúc
bị chúng bêu xấu, làm nhục trước công chúng, làm mất thanh danh,
gây tai tiếng, bị chúng phỉ báng, vu khống, vu cáo, vu oan giá
họa. Trong những trường hợp như vậy, chắc chắn chúng ta thế nào
cũng bị động tâm, loạn tâm, điên cuồng, chán đời, bi quan, yếm
thế, không thể giữ được sự thanh thản, bình yên, thanh tịnh được.
- Người đạt được
"vô sanh pháp nhẫn" là người kham nhẫn, chịu đựng nổi "bát phong"
của cuộc đời, còn gọi là người "bát phong xuy bất động". Nghĩa là
con người trải qua tám gió nói trên mà vẫn như như bất động. Đó
mới chính thực là con người có giá trị chơn thật, bất tùy phân
biệt, nam nữ, học thức, địa vị, tướng mạo, dung nghi, xuất xứ, tôn
giáo, tuổi tác, sắc tộc, địa phương, thời gian, tu sĩ, cư sĩ, đồng
cư trên thế giới ta bà này.
- * * *
- tóm lại, con
người tuy có tiền của nhiều, tài sản to, địa vị tốt, bằng cấp cao,
kiến thức rộng, danh vọng lớn, tài năng giỏi, đến khi bị suy sụp,
đến khi bị hủy báng, đến khi bị phê phán, đến khi bị khỗ nạn,
nhưng không giữ được tư cách, không giữ được nhân phẩm, tâm hồn
không giữ được bình thản, thanh tịnh, thì ắt không phải là con
người có giá trị rồi. Hơn nữa, những thứ như tiền của, tài sản,
địa vị, bằng cấp, kiến thức, danh vọng, tài năng, sắc đẹp, hình
tướng, phẩm trật, đều là những thứ giả tạm, vô thường, không cố
định, luôn luôn biến dịch, luôn luôn thay đổi, cho nên tất cả đều
không thể dùng để thẩm định giá trị của con người.
- Theo giáo lý
của Đạo Phật, con người ở trên thế gian này không được đánh giá
qua các cách nhận định, các thước đo, các tiêu chuẩn, các khía
cạnh và các căn bản trên đây về cả hai phương diện vật chất và
tinh thần. Con người có giá trị là con người biết ngắm nhìn cuộc
đời, biết lắng nghe cuộc đời, biết kham nhẫn và can đảm nhìn thẳng
những phiền và khổ đau, biết chuyển hóa tam chướng thành tam
nghiệp thanh tịnh. Con người có giá trị là con người biết chấp
nhận tất cả những gì xảy đến với mình từ cuộc đời, từ lúc sống cho
đến lúc chết, không mong cầu, không van xin, không sợ hãi, sẵn
sàng đón nhận phiền não hay khổ đau, an lạc hay hạnh phúc.
- Con người có
giá trị là con người biết hàng phục tâm mình bằng cách độ vô biên
chúng sanh trong tâm thức mình vào niết bàn, mà không thấy có
chúng sanh nào được diệt độ và biết an trụ tâm mình bằng cách bố
thí, xả bỏ không chấp bốn tướng ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả,
không dính sáu trần sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp, như lời Đức
Phật dạy trong Kinh Kim Cang.
- Con người có
giá trị là con người biết chiến đấu và chiến thắng nội tâm của
chính mình, biết trưởng dưỡng tứ vô lượng tâm từ bi hỷ xả, biết
lấy ân đức đáp hận thù, như lời Đức Phật dạy trong Kinh Pháp Cú.
- Con người có
giá trị là con người biết sống với "tâm bình thường". Kinh
sách có câu: "Bình thường tâm thị đạo". Con người có giá trị là
con người "đối cảnh vô
tâm", tức là con người vẫn sống trong cuộc đời như bao nhiêu
người khác, nhưng không có tâm tham sân si, cho nên tâm không loạn
động.
- Con người có
giá trị là con người dám bước chân lên con thuyền không đáy, trôi
giạt giữa trời nước mênh mông. Con thuyền đó chính là con thuyền
bát nhã, trời nước mênh mông chính là cảnh giới trầm luân, khổ hải
vạn trùng ba. Con người có giá trị theo quan niệm của nhà Phật là
con người giác ngộ được bản ngã chân thật, bên ngoài không chấp
trước, dính mắc chuyện trần đời, mắt trông thấy sắc rồi thôi, tai
nghe thấy tiếng nghe rồi thì không, cho nên bên trong không có
niệm khởi và giải thoát được những phiền não và khổ đau.
- Con người có
giá trị là con người bát phong xuy bất động, là con người có cuộc
sống an lạc và hạnh phúc hiện đời. Đó chính là đại sự nhân duyên
mười phương tam thế chư Phật thị hiện ở đời, để khai thị cho con
người ngộ nhập vào chân lý bất biến của vũ trụ vậy.
--o0o--
|
|