-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Cư Trần Lạc Ðạo
-
(Trọn
bộ 3 tập)
-
Toronto, Canada
1999 - PL 2543
- ---
o0o ---
-
-
Tập 3
- [9]
Luật Nhân quả &
các vấn đề:
- Tái
sinh, số mệnh, cầu an, cầu siêu
- Trong đời sống
hằng ngày, chúng ta có rất nhiều thắc mắc, có nhiều vấn đề cần
phải giải quyết, chẳng hạn như là:
- 1) Luật nhân
quả là một lý thuyết của Phật giáo mà tất cả vạn vật trong vũ trụ
đều hoạt động, vận hành theo quy luật đó. Vậy, luật nhân quả là
gì? Luật nhân quả có phải do Đức Phật chế ra, như một số quốc gia
đặt ra luật đi đường chăng?
- 2) Nếu có
luân hồi thì khi chết rồi một người chỉ tái sanh một người thôi,
tại sao thế giới này ngày xưa thì ít mà nhân loại mỗi ngày thêm
đông?
- 3) Người
và thú hoàn toàn khác nhau, làm sao sau khi chết người có thể tái
sanh thành thú và thú có thể thành người?
- 4) Theo
luật nhân quả thì ai làm nấy chịu. Tại sao có những việc cha làm
con bị ảnh hưởng, hoặc con làm mà cha bị liên can?
- 5) Nếu
"nhân nào quả nấy", tại sao có người cả đời hiền từ mà lại gặp lắm
tai nạn khổ sở, trái lại người hung ác sao vẫn được an lành và
nhiều may mắn?
- 6) Nếu
"nhân nào quả nấy" thì chùa làm lễ cầu an, cầu siêu có đúng với
luật nhân quả không?
- 7) Luật
nhân quả và thuyết định mệnh giống nhau hay có gì khác biệt?
- * * *
- Câu hỏi 1:
Luật nhân quả là một lý thuyết của Phật giáo mà tất cả vạn vật
trong vũ trụ đều hoạt động, vận hành theo quy luật đó. Vậy, luật
nhân quả là gì? Luật nhân quả có phải do Đức Phật chế ra, như một
số quốc gia đặt ra luật đi đường chăng?
- 1) Luật nhân
quả thực ra có trước đạo Phật. Tuy nhiên, khi Đức Phật thành đạo
dưới cội bồ đề, ngài chứng được tam minh, lục thông, thấy được do
nguyên nhân nào con người luân hồi trong sáu nẽo, thấy được vô
lượng kiếp quá khứ, như người đứng trên lầu cao, nhìn xuống ngã
ba, ngã tư, có đông người qua lại. Do đó, luật nhân quả được giáo
lý của đạo Phật hoàn chỉnh và luôn luôn được đề cập trong tam tạng
kinh điển, cho nên luật nhân quả trở thành lý thuyết căn bản, là
chánh kiến quan trọng trong Phật giáo. Luật nhân quả là một chân
lý hiển nhiên, luôn luôn đúng trong ba thời: quá khứ, hiện tại, vị
lai, không lệ thuộc thời gian và không gian, áp dụng cho tất cả
mọi sự sự vật vật.
- Trong khi các
quốc gia đặt ra luật đi đường chỉ để áp dụng trong phạm vi quốc
gia của mình, trong thời hiện tại mà thôi. Về sau, luật đi đường
đó có thể sửa đổi, tu chính cho thích hợp với sự tiến hóa của xã
hội. Quốc gia khác có thể không áp dụng cùng luật đi đường như
vậy, đôi khi còn ngược hẳn lại.
- * *
- Câu hỏi
2: Nếu có luân hồi thì khi chết rồi một người chỉ tái sanh
một người thôi, tại sao thế giới này ngày xưa thì ít mà nhân loại
mỗi ngày thêm đông?
- 2) Thuyết luân
hồi tái sanh ảnh hưởng cho tất cả mọi loài chúng sanh trong sáu
cõi: thiên, nhơn, a tu la, địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, và trong
tam thiên đại thiên thế giới, chứ không phải chỉ áp dụng cho loài
người ở trên quả địa cầu này mà thôi. Do đó, chúng sanh ở cõi
này, thế giới này có thể tái sanh sang cõi khác và thế giới khác,
cho nên số chúng sanh lên xuống, hay thay đổi ở các cõi là vì
vậy.
- * *
- Câu hỏi
3: Người và thú hoàn toàn khác nhau, làm sao sau khi chết
người có thể tái sanh thành thú và thú có thể thành người?
- 3) Người và
thú hoàn toàn khác nhau về hình tướng, về nghiệp thức, qua cái
nhìn của thế gian, nhưng qua con mắt trí tuệ của đạo Phật, người
hay thú cũng đều có thân tứ đại bao gồm đất, nước, gió, lửa như
nhau, và nhất là đều có Phật Tánh, có tâm thức. Sau khi hưởng hết
phước báo, lại tạo tội tạo nghiệp, tức là tạo nghiệp nhân chẳng
lành, con người lãnh nghiệp quả chẳng lành tương ứng, bị đọa vào
ba đường khổ: địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh. Hoặc sau khi đền trả
hết nghiệp báo ba đường khổ, con người được trở về các cảnh giới
thiên, nhơn, a tu la.
- Sự tái sanh
theo luật nhân quả qua lại trong sáu cõi luân hồi như vậy, trong
kinh sách gọi là: trầm luân sanh tử. Tu tập theo đạo Phật có mục
đích cứu kính là giải thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi nói trên.
- * *
- Câu hỏi
4: Theo luật nhân quả thì ai làm nấy chịu. Tại sao có
những việc cha làm con bị ảnh hưởng, hoặc con làm mà cha bị liên
can?
- 4) Đúng là
theo luật nhân quả, ai làm nấy hưởng, ai làm nấy chịu. Đó chính
là sự công bằng tuyệt đối, gọi là biệt nghiệp, tức là nghiệp riêng
của từng người. Nghiệp có ba thứ: thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý
nghiệp. Thí dụ như: nhảy cao thì bị gảy cẳng, nói bậy thì bị
chúng chửi, nghĩ bậy thì bị nhức đầu, đó gọi là biệt nghiệp. Thí
dụ như: ở hiền thì gặp lành, nói hiền thì người thương, nghĩ tốt
thì bình yên.
- Khi người cha
gặp nạn, thì không những người con bị ảnh hưởng, mà cả gia đình
đều chịu khổ sở chung, đó gọi là cộng nghiệp, tức là nghiệp chung
của một số người có liên hệ với nhau về huyết thống, về sắc tộc,
về nghề nghiệp, về địa phương. Còn người con làm mà người cha bị
liên can cũng chính là cộng nghiệp, hoặc theo luật pháp, người cha
không biết dạy dỗ người con vị thành niên, khi người con làm
chuyện phạm pháp thì người cha phải chịu trách nhiệm liên đới.
- Đây là nói về
đời sống hiện tại. Nếu bàn về nhân quả nghiệp báo ba đời thì
người này có thể thiếu nợ người kia, người kia sanh lên làm con
trong đời này, tiêu pha hưởng thụ cho đủ số nợ rồi đi, có khi phá
tan sản nghiệp của cha mẹ nữa!
- * *
- Câu hỏi
5: Nếu "nhân nào quả nấy", tại sao có người cả đời hiền
từ mà lại gặp lắm tai nạn khổ sở, trái lại người hung ác sao vẫn
được an lành và nhiều may mắn?
- 5) Thường
thường, chúng ta thấy gieo nhân nào thì gặt quả nấy, một cách nhãn
tiền. Thí dụ như: sinh sự thì sự sinh, gieo gió thì gặt bão, ở
hiền thì gặp lành, làm thiện thì hưởng phước. Gieo hột cam ngọt
thì gặt quả cam ngọt, gieo hột chanh chua thì gặt quả chanh chua.
- Tuy nhiên, cũng
có nhiều người thắc mắc: Tại sao có người ăn hiền ở lành, tu tâm
dưỡng tánh, thường xuyên đi chùa, hay đi nhà thờ, không làm việc
gì bất nhơn thất đức, nhưng cứ bị nạn, bệnh hoạnliên miên, họa vô
đơn chí, xui xẻo dồn dập? Trái lại, có rất nhiều người, điêu ngoa
hung tợn, lừa thầy phản bạn, làm đủ mọi chuyện tồi tệ, ném đá giấu
tay, không chừa bất cứ thủ đoạn, phương tiện gian manh nào, nhằm
đoạt cho bằng được mục đích vị kỷ của họ, tại sao họ vẫn cứ nhởn
nhơ phây phây, bình yên vô sự, ăn nên làm ra, gặp nhiều may mắn,
tậu nhà sắm xe?
- Luật nhân quả
giải thích được các việc đó trong ba thời: quá khứ, hiện tại và vị
lai. Có những nguyên nhân được tạo ra trong quá khứ, kết quả hay
hậu quả nhận được trong hiện tại. Có những nguyên nhân được tạo
ra trong hiện tại, kết quả hay hậu quả nhận được trong vị lai.
- Người hiền lành
đang gieo nhân lành trong hiện tại, kết quả tốt chưa kịp đến thì
hiện nay phải đền trả quả báo xấu do nghiệp nhân xấu đã gây tạo
trong quá khứ. Khi quả báo xấu hết rồi, vận xui qua rồi, con
người bắt đầu gặp may mắn, gặp vận hên, gặp số đỏ, gặp quới nhơn,
ăn nên làm ra, tiền vô như nước, vạn sự hanh thông. Do đó, sách
có câu: "Hết cơn bỉ cực tới hồi thới lai", chính nghĩa như vậy.
- Những người
hiện đời đang gieo nhân ác, tạo tội tạo nghiệp, hậu quả xấu chưa
kịp trổ, nhưng hiện tại đang thụ hưởng phước báo lành do nghiệp
nhân tốt đã gieo trong quá khứ. Khi hưởng hết phước báo rồi, con
người bắt đầu đền trả nghiệp báo, tai nạn triền miên, tán gia bại
sản, lâm bệnh ngặt nghèo, hay chết thê thảm. Các vị quốc vương,
hay tổng thống bị đảo chánh và ám sát, các tay tài phiệt bị phá
sản phải tự tử, các hoàng gia, công nương, công tử bị bất đắc kỳ
tử trên xa lộ, dưới biển sâu, hay trên núi tuyết, cho thấy rằng
luật nhân quả không chừa bất cứ ai, không có ngoại lệ, không hề
sai chạy!
- Trong Kinh A
Hàm, Đức Phật có dạy:
- Dục tri tiền
thế nhân, đương kim thọ giả thị.
- Yếu tri lai thế
quả, kim sanh tác giả thị.
- Nghĩa là:
- Muốn biết kiếp
trước mình đã gieo nhân gì,
- hãy nhìn việc
mình thọ nhận hiện tại.
- Muốn biết kiếp
sau mình sẽ nhận quả nào,
- hãy nhìn việc
mình đang làm hiện tại.
- Nếu hôm nay
mình dốt nát nghèo nàn khốn khổ, gặp tai nạn liên miên, thậm chí
chết người, thì đó là quả của cái nhân tạo ác nghiệp và không biết
làm việc phước thiện trước đây. Nếu hôm nay mình thông minh, đủ
ăn đủ mặc, thì đó là quả của cái nhân tu tâm dưỡng tánh, tích
phước tích đức trước đây, nhiều đời và đời này. Hôm nay mình được
bình an là quả của cái nhân mình không tạo sự bất an cho kẻ khác,
dù đó là kẻ thù. Hôm nay mình được hạnh phúc là quả của cái nhân
mình không phá hoại hạnh phúc kẻ khác, dù đó là kẻ thù.
- Tùy theo "cái
nhân" là hạt giống loại nào, sau khi được gieo xuống đất, phải chờ
đủ "thời tiết nhân duyên", mới gặt hái "cái quả" của nó, có khi
sớm, cũng có khi muộn. Cũng có khi gặt phải quả chanh chua, nhưng
có thể đem bán đi, mua quả cam ngọt. Đó là trường hợp chúng ta đã
"lỡ" gieo nhân xấu, nhưng nhờ thiện hữu tri thức nhắc nhở, chúng
ta biết phục thiện, quay trở về chánh đạo, chuyển ba nghiệp xấu ác
thành ba nghiệp thiện lành, làm nhiều việc phước đức, tu tâm dưỡng
tánh, chúng ta có thể gặt "quả tốt", hay ít ra cũng giảm bớt được
"quả xấu".
- Tức là chuyện
khó hóa dễ, chuyện lớn hóa nhỏ, chuyện nhỏ hóa không. Cũng ví như
gieo nhân biết tiết kiệm, con người có thể gặt quả giàu có, hay
giảm bớt được nợ xưa đó vậy.
- * *
- Câu hỏi
6: Nếu "nhân nào quả nấy" thì chùa làm lễ cầu an, cầu siêu
có đúng với luật nhân quả không?
- 6) Ngoài các
tính chất triết học, tín ngưỡng, đạo đức, luân lý, tâm lý, duy
thức, Phật giáo cũng là một tôn giáo. Cho nên Phật giáo cũng có
những nghi thức, nghi lễ để truyền bá chánh pháp một cách rộng rãi
trong mọi tầng lớp dân gian.
- Dân chúng đông
đảo có nhiều căn cơ trình độ khác nhau. Chư Tổ sư nhận biết điều
đó, nên đặt ra rất nhiều nghi thức, nghi lễ, như là: cầu an, cầu
siêu, sám hối, thích hợp với từng hoàn cảnh, từng trường hợp của
mọi người trong dân chúng. Chẳng hạn như là: trong gia đình có
một người lâm trọng bệnh, ngoài việc cố gắng chữa trị theo y học
đông hay tây, thân nhân cần có thêm niềm tin vững mạnh, để giúp đỡ
người bệnh lên tinh thần, bệnh tình chóng khỏi. Thân nhân bèn đến
chùa mong được quí sư làm lễ cầu nguyện chư Phật, chư Bồ Tát gia
hộ cho người bệnh chóng bình phục, tai qua nạn khỏi. Do đó nhà
chùa có lễ cầu an để giúp đỡ dân chúng về mặt tín ngưỡng, trong
hoàn cảnh mọi người đang bối rối, để đuợc an tâm phần nào trong
lúc điều trị cơn bệnh.
- Nếu chẳng may,
trong gia quyến có người qua đời, thân nhân xót thương đau khổ,
tìm đến chùa để mong được quí sư làm lễ cầu nguyện chư Phật, chư
Bồ Tát gia hộ cho người mãn phần được vãng sanh về cõi an lành, về
cõi tịnh độ. Do đó nhà chùa có lễ cầu siêu để giúp đỡ dân chúng
về mặt tín ngưỡng, trong hoàn cảnh mọi người đang bối rối, để được
an tâm phần nào trong lúc lo lắng hậu sự cho thân nhân của mình.
- Nhân các cơ hội
đó, quí sư đem chánh pháp giảng giải cho dân chúng được thấu rõ về
lý nhân quả, về sự vô thường trên thế gian, nâng cao trình độ hiểu
biết chánh pháp cho những người hữu duyên. Nhờ nhân lành này, dân
chúng được khai ngộ, có được chánh kiến, đó là cái thấy biết như
thật, trở về qui y Tam Bảo, phát nguyện tu tâm dưỡng tánh, hưởng
được quả lành sau đó, được an lạc và hạnh phúc, được giác ngộ và
giải thoát, nhờ công phu tu tập của chính bản thân.
- Tuy nhiên,
nhiều khi có những người ngoại đạo, ngoại đạo nghĩa là: ngoài tâm
cầu đạo, khoác màu áo của tu sĩ Phật giáo, nhưng không có Phật
Pháp, chuyên làm nghề thợ tụng, lợi dụng kinh kệ, lợi dụng lòng mê
tín, lợi dụng sự đau khổ trong hoàn cảnh bối rối của người khác,
để kiếm lợi dưỡng mưu sinh, như vậy chẳng ích lợi gì cho chánh
pháp, chẳng ích lợi gì cho dân chúng. Tệ nạn này thực đáng nên
bài trừ!
- Tóm lại, các
buổi lễ cầu an, cầu siêu trong chùa hoàn toàn đúng với chánh pháp,
áp dụng luật nhân quả một cách khéo léo, đã được chư vị Tổ sư từ
bi đặt ra để hướng dẫn dân chúng bước vào ngưỡng cửa từ bi của nhà
Phật, trong khi và sau khi gặp hoàn cảnh khổ đau trong đời sống
hằng ngày, nhằm truyền bá rộng rãi chánh pháp vào trong dân gian,
đem lại sự bình an trong tâm hồn của mọi người đang sống trên thế
gian đầy dầy sự bất trắc này.
- ***
- Câu hỏi
7: Luật nhân quả và thuyết định mệnh giống nhau hay có
gì khác biệt?
- 7) Thuyết định
mệnh chủ trương con người có một linh hồn cố định và một số mệnh,
hay số mạng, đã được định sẵn, đã được an bài, đã được quyết định,
đã được xếp đặt, do một đ?ng tối cao, gọi là thượng đế hay tạo hóa
hay bất cứ tên gọi gì khác, và con người phải chịu chấp nhận cái
định mạng, định mệnh sắp sẵn này, không phương né tránh, không có
cách gì thay đổi, tất cả mọi cố gắng hay nỗ lực của con người đều
vô ích, vô dụng! Nếu thuyết định mệnh là đúng sự thực thì con
người trở thành tiêu cực, thụ động, yếu hèn, yên phận, yếm thế, vô
trách nhiệm, việc làm nào, thiện cũng như bất thiện, cũng cho là
do ý muốn của thượng đế, và lắm khi trở nên hung dữ, bạo tàn, bất
nhân, để chống lại định mệnh đen tối, bất công, do tạo hóa áp đặt,
an bài, định sẵn, do đó con người tạo tội tạo nghiệp, và làm cho
bản thân và xã hội thêm đau khổ.
- Đạo Phật dạy
rằng: chúng sanh chỉ có "tâm thức" luôn luôn thay đổi, mang theo
"nghiệp báo" từ nhiều kiếp trước. Do dòng nghiệp lực chi phối,
dẫn dắt, trói buộc, lôi cuốn, tâm thức luân hồi sanh ra trên nhân
gian này làm con người. Nhưng do nghiệp báo khác nhau, cho nên
hình tướng mỗi người khác nhau: đẹp xấu, mạnh yếu, nam nữ, khôn
ngu, lớn nhỏ, giàu nghèo, sang hèn, thậm chí anh chị em trong gia
đình cũng khác nhau.
- Nếu có ý chí
mạnh mẽ, thấu rõ luật nhân quả, thấu hiểu được chân lý, con người
có thể vượt thoát được dòng nghiệp lực này, chuyển hóa được nghiệp
báo này.
- Trong kinh sách
gọi đó là: giác ngộ và giải thoát.
- Chẳng hạn như
là: con người thường bị tam nghiệp thân khẩu ý sai khiến, lôi cuốn
cho nên gây ra không biết bao nhiêu là sự đau khổ trên thế gian
này cho chính mình và cho những người chung quanh. Con người do
lòng tham lam đi cướp của giết người, sang đoạt tài sản, giựt hụi
quịt nợ, lập mưu toan tính kế gian, thưa gửi kiện tụng người khác
để đòi tiền bồi thường bạc triệu. Con người do lòng sân hận đi
trả thù kẻ hãm hại mình bằng các thủ đoạn tàn nhẫn hơn, chửi mắng
rủa xả người khác bằng những lời nói cay độc hơn. Con người do
lòng si mê đi tạo tội tạo nghiệp, gây thù chuốc oán, tạo ra biết
bao điều đau khổ cho người khác.
- Nếu con người
hiểu rõ, tin sâu luật nhân quả, cộng thêm ý chí giác ngộ mạnh mẽ,
con người có thể dừng nghiệp và chuyển nghiệp, tức là con người có
thể chấm dứt dòng nghiệp lực, chuyển đổi số mệnh, chuyển hóa cuộc
đời khổ đau của mình, tu tập các nghiệp lành, tức nhiên sẽ gặt các
quả báo lành. Do nghiệp lực quá khứ, con người sanh ra trên cõi
đời này là không thay đổi được, gọi là định nghiệp, chỉ có điểm
này giống với thuyết định mệnh mà thôi. Nhưng sau khi sanh ra
trên cõi đời này, mọi sự việc xảy ra đều tương ứng với nhân duyên
từ trước, đó là nghiệp báo, chứ không phải là số mệnh định sẵn hay
định mệnh.
- Luật nhân quả,
nhân duyên, hay thuyết nghiệp báo, thúc đẩy con người luôn luôn
sống trong đạo đức, nâng cao giá trị, nhân phẩm của con người,
tránh mọi điều ác, làm mọi điều lành, giữ tâm ý trong sạch, nếu
được hiểu sâu rộng, tường tận và đem thực hành, áp dụng vào đời
sống hằng ngày, chắc chắn sẽ đem lại bao nhiêu điều tốt đẹp cho
bản thân, cho gia đình và xã hội. Trong sách có câu: "Đức năng
thắng số", nghĩa là: công đức và phước đức do nghiệp nhân lành, có
khả năng thắng, có khả năng chuyển đổi số phận hay vận mệnh của
con người, tức là chuyển đổi nghiệp báo vậy. Vận mệnh của con
người bao gồm bốn yếu tố: thiên mệnh, thời mệnh, địa mệnh và nhân
mệnh.
- Trong kinh
sách, có ghi trường hợp của Angulimala, vốn là một tên cướp tàn
bạo ở vương quốc Kosala, nhưng sau khi gặp Phật, được nghe thuyết
pháp và thành tâm ăn năn hối lỗi, cải tà qui chánh, tu hành không
bao lâu chứng được thánh quả. Nhiều người sanh ra với nghiệp báo
thân thể yếu đuối, trí tuệ kém cỏi, nhưng với ý chí mạnh mẽ, rèn
luyện thân thể và chăm chú học hành cũng có cơ hội trở thành lực
sĩ, trở nên các nhà bác học, các bậc triết gia.
- Quá khứ đã qua
rồi, không thể thay đổi được, tương lai thì chưa đến, không nên
quá lo lắng, con người hãy sống trong hiện tại tỉnh giác, nhận
chân thiện ác, giữ gìn chánh niệm, hành động lành, lời nói lành, ý
nghĩ lành, đó chính là nghiệp nhân lành, nhất định nghiệp quả lành
chắc chắn sẽ đến với con người ngay trong đời này và luôn cả đời
sau.
- Trong kinh
sách, Đức Phật dạy: "Mỗi người tùy theo nghiệp của mình tạo ra, mà
có được thân phận hạnh phúc hay bất hạnh".
-
- --- o0o ---
|
|