-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Cư Trần Lạc Ðạo
-
(Trọn bộ 3 tập)
-
Toronto, Canada
1999 - PL 2543
- ---
o0o ---
-
-
Tập 3
- [11]
- Phước Tuệ
Song Tu
- Trong đời sống
này, chúng ta thường nghe, nói đến chữ "TU". Chẳng hạn như là: tu
bổ tu sửa, tu chính tu chỉnh, tu tỉnh tu thân, tu nhân tích đức,
tu tâm dưỡng tánh. Những từ ngữ đó, có nghĩa chung là: sửa chữa
sửa đổi, rèn luyện trau giồi, cho được mới hơn, cho tốt đẹp hơn,
cho đúng đắn hơn, cho chính xác hơn, cả hai phương diện, vật chất
tinh thần.
- Còn như nói về,
phương diện tín ngưỡng, từ ngữ đi tu, thường có nghĩa là: rời bỏ
đời sống, tại nơi thế gian, sống đời tu sĩ, trong các tự viện, hay
là tu viện, thanh tịnh trang nghiêm, hoặc đến những nơi, núi rừng
vắng vẻ.
- Phạm vi bài
này, chỉ đề cập đến, công phu tu tập, có thể áp dụng, giáo lý đạo
Phật, cho người tại gia, để tạo an lạc, hạnh phúc hiện tiền, ngay
trên đời này. Ở trong đạo Phật, chúng ta thường bàn, đến các vấn
đề: "tu phước tu tuệ".
- Tu phước là
gì? Tu tuệ là gì? Giá trị tu phước, giá trị tu tuệ, khác như thế
nào? Làm sao có thể, áp dụng vào trong, đời sống hằng ngày, của
người tại gia, phát tâm tu tập, tu tâm dưỡng tánh?
- * * *
- Trước hết là
việc, chúng ta cần biết, đạo Phật xưa nay, có những nghi lễ, hình
thức cúng kiến, của một tôn giáo, dành cho đại chúng, đa số tín
đồ, những người chưa thấu, giáo lý thâm sâu, của Đức Thế Tôn.
- Chẳng hạn như
là: cúng kiến lễ lạy, chuông trống khánh mõ, cầu an cầu siêu, cầu
phước lộc thọ, cầu nguyện hòa bình, cầu cho chúng sanh, vạn dân bá
tánh, an lạc hạnh phúc. Những hình thức này, rất là cần thiết, có
thể giúp cho, những người sơ cơ, tin theo đạo Phật, bởi do ông bà,
cha mẹ tin Phật, thỉnh thoảng đến chùa, vào các dịp lễ, lớn nhỏ
hằng năm, hái lộc đầu xuân, dịp tết nguyên đán, hoặc vào các dịp,
quan hôn tang tế, nhưng không hiểu gì, giáo lý đạo Phật.
- Hoặc gặp những
lúc, phong ba bão tố, dồn dập trong đời, tâm thần điên đảo, đời
sống chao động, con người cần có, cảnh chùa thanh tịnh, để được
tĩnh tâm, cần có buổi lễ, cầu an cầu phước, để tạm an tâm, cần có
những người, thiện hữu tri thức, hết lòng an ủi, giảng giải nghĩa
lý, đem lại chánh kiến, giúp đỡ người đó, thoát khỏi những cảnh,
khổ đau như vậy.
- Từ các dịp đó,
con người đến chùa, sinh hoạt thường xuyên, và hiểu được rằng: bởi
vì kém phước, thiếu phước ít phước, hết phước không phước, thường
gọi "vô phước", cho nên cuộc đời, chịu nhiều thăng trầm, cuộc sống
gặp nhiều, khó khăn bất trắc, khốn khổ đau thương, hoạn nạn điêu
đứng, người thương không có, kẻ ghét thì đông. Do đó con người,
phát tâm "tu phước", tạo thêm phước báu, để cho cuộc đời, vơi bớt
phiền não, giảm thiểu khổ đau.
- Phước báu là
do, chính chúng ta tạo, chứ không phải do, thượng đế ban cho, hay
do cầu nguyện. Người nào tích phước, từ trước đến nay, không cần
cầu nguyện, cuộc đời cũng an, ít gặp sóng gió, ít có trắc trở, đở
bớt phiền muộn, tai qua nạn khỏi, chuyện lớn hóa nhỏ, chuyện nhỏ
hóa không, chuyện khó hóa dễ.
- Trong Kinh A
Hàm, Đức Phật có dạy, thí dụ như sau: Nếu người phải bị, nuốt một
nắm muối, thì sẽ đau khổ, biết là dường nào. Nhưng nếu đem bỏ,
nắm muối đó vào, một tô nước nhỏ, rồi mới phải uống, thì sẽ dễ
chịu, hơn một chút xíu. Nếu bỏ nắm muối, vào một lu nước, rồi mới
phải uống, thì sẽ dễ chịu, nhiều hơn chút nữa. Nếu bỏ nắm muối,
vào hồ nước lớn, rồi mới uống vào, thì chuyện sẽ không, thành vấn
đề nữa.
- Nắm muối tượng
trưng, cho các nghiệp nhân, bất thiện chẳng lành, con người đã
tạo, từ trước đến nay, bây giờ phải lãnh, nghiệp quả nghiệp báo,
nói chung đó là: quả báo khổ đau, không sao tránh khỏi. Chỉ có
phước báo, ít hay là nhiều, tượng trưng tô nước, lu nước hồ nước,
có thể giúp đỡ, con người vượt qua, khổ đau mà thôi.
- Đó mới thực là:
chí công vô tư.
- Mình làm mình
hưởng. Mình làm mình chịu.
- Cầu nguyện van
xin, dù tin hay không, thực sự chẳng giúp, chẳng ích gì đâu. Tại
sao như vậy? Bởi vì thực ra, chính vị giáo chủ, giáo phẩm chức
sắc, giáo quyền cao cấp, cũng phải trả nghiệp, đã tạo trước kia,
nhiều đời nhiều kiếp, ngay trong kiếp này, cũng bị nguyền rủa, vu
khống cáo gian, xử án khổ nạn, ám sát giết hại, một cách thê thảm,
không ai thay được!
- Trong khi xảy
ra, tai nạn xe hơi, xe lửa tàu thủy, hay là phi cơ, có người nằm
mơ, cầu nguyện đức Mẹ, hằng đi cứu giúp, có người cầu nguyện, đức
Quán Thế Âm, cứu khổ cứu nạn. Nếu như hai người, cùng thoát tai
nạn, thực sự vị nào, đã cứu giúp họ? Còn nếu hai người, cùng bị
thảm tử, thì cả hai vị, đều bỏ rơi họ? Có phải vậy chăng?
- Thực ra không
phải! Không có vị nào, cứu họ giúp họ, theo lời cầu nguyện.
- Chỉ có phước
báo, của chính cá nhân, đã cứu chính họ!
- Người có phước
báo, nhiều hơn một chút, thì được thoát nạn, một cách an ổn.
Người có phước báo, ít hơn một chút, thì được thoát nạn, một chút
xây xát. Những người vô phước, không còn phước báo, thường gọi
tới số, thì đã mạng vong.
- Chí công vô tư, là
luật nhân quả.
- Trong Kinh A
Hàm, Đức Phật có dạy:
- Chỉ có phước báo, mới
có thể làm, giảm thiểu nghiệp báo.
- Nếu như chúng
ta, phát tâm tu phước, tạo thêm phước báu, chúng ta thường làm,
tất cả việc thiện, cứu người giúp đời, thường được gọi là: những
việc "phước thiện". Chẳng hạn như là: bố thí cúng dường, hùn
phước cất chùa, tạo tượng đúc chuông, ấn tống kinh sách, đi chùa
lễ Phật, vào chùa công quả, tham gia hoạt động, từ thiện xã hội,
cứu trợ nạn nhân, thiên tai bão lụt, giúp đỡ người nghèo, bần cùng
khốn khổ.
- Tuy nhiên cũng
có, những người tu phước, thường hay mong cầu, phước báu trở lại,
với bản thân mình, với gia đình mình, qua các dạng như: thới hên
may mắn, tai qua nạn khỏi, giàu sang hạnh phúc, ăn nên làm ra, cửa
nhà êm ấm, con cái thành tài, buôn may bán đắt. Như vậy nghĩa là:
mặc dù tu phước, người rất hiền lương, ăn hiền ở lành, việc ác
không làm, chỉ làm việc thiện, nhưng mà tâm niệm, của người tu
phước, chưa được quảng đại, còn hay vị kỷ, hơn là vị tha, chưa
được thanh tịnh.
- Do đó cho nên,
phước báu có được, rất là hạn chế, theo như tâm lượng, hạn hẹp của
mình. Khi không như ý, những người tu phước, thường hay nổi giận,
bực bội bất an, tâm trạng hoang mang, làm cho nhiều người, mất dần
tín tâm, bỏ theo ngoại đạo.
- * * *
- Trong Kinh Kim
Cang, Đức Phật có dạy:
- "Nhược Bồ Tát ư
pháp, ưng vô sở trụ, hành ư bố thí. Sở vị bất trụ sắc bố thí, bất
trụ thinh, hương, vị, xúc, pháp bố thí. Bồ Tát ưng như thị bố
thí, bất trụ ư tướng. Nhược Bồ Tát bất trụ tướng bố thí, kỳ phước
đức bất khả tư lượng" .
- Nghĩa là: nếu
như chúng ta, không chấp bốn tướng: ngã, nhơn, chúng sanh, thọ
giả, và không chấp sáu trần: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp, mà
thực hành hạnh bố thí, thì phước đức không thể nghĩ, không thể
lường được.
- Nếu người tu
phước, làm việc phước thiện, mà không vụ lợi, không tâm phân biệt,
kỳ thị thân sơ, xuất xứ sang hèn, nam nữ sắc tộc, không mong cầu
lộc, hay được báo đáp, không hề trông chờ, đền ơn đáp nghĩa, không
hề thấy mình, là người làm phước, không thấy người khác, thọ nhận
ơn phước, nếu làm như vậy, tạo được phước báu, vô lượng vô biên,
không thể nghĩ bàn.
- Tại sao như
vậy? Bởi vì tâm lượng, của người tu phước, ngay lúc bấy giờ, trở
nên quảng đại, vô cùng vô tận, cho nên phước báu, trở nên to lớn,
vô lượng vô biên, tương ứng rõ ràng. Trong lúc thực hiện, hành
động tạo phước, lời nói tạo phước, ý nghĩ tạo phước, không hề nghĩ
rằng: mình đang làm phước.
- Giúp đỡ người
khác, chỉ vì tình thương, từ bi bác ái, lòng tốt tự nhiên, tâm bất
vụ lợi, vì người quên mình, đó chính thực là: hành động tạo phước,
cao thượng hạng nhứt, đem lại "phước báu", vô lượng vô biên, không
thể nghĩ bàn.
- Chúng ta nên
biết: chúng ta có phước, nếu như chúng ta, đầy đủ sức khỏe, lục
căn hoàn bị, tay chân lành lặn, đi đứng tự nhiên, mắt mũi tinh
tường, trí óc minh mẫn, sống trong hạnh phúc, gia đạo bình an,
trên thuận dưới hòa, thuận vợ thuận chồng, con cháu ngoan ngoãn,
hiền lành dễ dạy, cuộc sống bình yên, ít gặp sóng gió, ít có trắc
trở, tai qua nạn khỏi, mọi việc suôn sẻ, mọi sự hanh thông, gặp
được thầy lành, gặp được bạn tốt.
- Phước báu hơn nữa, nếu như chúng
ta, gặp được chánh pháp, ngộ được chánh đạo, giác ngộ giải thoát,
không còn trầm luân, sanh tử luân hồi.
- Người trí thực
hành, hạnh nguyện bố thí, chẳng cầu báo ân, chẳng cầu lợi mình,
chẳng vì giúp đỡ, cho kẻ bỏn sẻn, chẳng vì quả báo, sanh cõi nhơn
thiên, giàu sang sung sướng, hưởng thụ dục lạc, chẳng vì danh
tiếng, đồn đãi khắp nơi, chẳng vì có của, dư dùng không xài, chẳng
vì bắt chước, làm theo người khác.
- Người trí thực
hành, hạnh nguyện bố thí, chỉ vì từ tâm, giúp người cần đến, khiến
người an vui, qua cơn khốn khó, bớt cơn phiền não, khiến cho người
khác, sanh tâm bố thí, nhứt tâm hồi hướng, công đức phước đức, cho
khắp muôn loài, pháp giới chúng sanh. Làm được như vậy, trí tuệ
khai mở, tâm niệm hòa bình, chúng sanh an lạc, mọi người hạnh
phúc.
- Người thích bố
thí, chẳng thích tu tuệ, sanh ra giàu có, nhưng tâm trí kém.
Người thích tu tuệ, chẳng thích bố thí, sanh ra thông thái, nhưng
nghèo xác xơ. Tuy nhiên rõ ràng, trong khi tu phước, nếu chúng ta
làm, với tâm chính trực, bất tùy phân biệt, kết quả đồng thời,
cũng có nghĩa là: chúng ta tu tuệ.
- Chẳng hạn như
là: chúng ta thực hành, hạnh nguyện bố thí, với tâm đại từ, tâm
bất vụ lợi, chúng ta được phước, đồng thời kết quả, tâm tham bỏn
sẻn, dần dần giảm bớt, thiểu dục tri túc, biết đủ bớt tham, không
còn phạm giới, không còn tạo nghiệp, tâm trí ổn định, dần dần
thanh tịnh, trí tuệ phát sanh.
- Như vậy nghĩa
là: thực tâm tu tập, tu phước tu tuệ, đồng thời kết quả. Nếu như
chúng ta, tu tập tinh tấn, sẽ nhận thấy rằng: trong phước có tuệ,
trong tuệ có phước. Phước báu giúp ta, bớt gặp chướng ngại, trên
đường tu tập. Trí tuệ giúp ta, tu tiến nhanh thêm, chóng đến bến
bờ, giác ngộ giải thoát, lai đáo bỉ ngạn.
- Tu tập nghĩa
là: áp dụng giáo lý, ngay trong cuộc sống, luôn luôn nhớ nghĩ, sửa
đổi tâm tánh, của chính bản thân, ngày một an hơn, ngày một vui
hơn, cho đến một ngày, giác ngộ giải thoát.
- Trong Kinh Pháp
Cú, Đức Phật có dạy:
- Hãy tự thắp
đuốc, tự mình bước đi.
- Thắp sáng trí
tuệ, ngọn đuốc chánh pháp.
- Trí tuệ bát
nhã, giúp đỡ chúng ta, thoát khỏi phiền não, giảm thiểu khổ đau,
không ngoài giáo pháp, của Đức Thế Tôn. Do đó chúng ta, phát tâm
tu tập, nên học giáo lý, mở mang trí tuệ, mới tỏ chánh đạo, mới có
chánh kiến, mới đặng chánh tín, tâm được thanh tịnh, tránh được tà
đạo, tránh cảnh tu mù, lọt hầm sụp hố, từ bỏ tâm ma, đạt được giác
ngộ, thấu rõ chân lý, giải thoát khổ đau, sống trong cảnh giới,
niết bàn hiện tại, ngay trong cuộc sống, hằng ngày của mình. Đó
mới chính là: tu tuệ thực sự.
- * *
- Ở trong cuộc
sống, thế gian hằng ngày, có nhiều cơ hội, có rất nhiều cách, có
nhiều phương pháp, để cho con người, làm phước tạo phước, kiếm
phước tích phước. Dù đó là phước: hữu lậu vô lậu, đều có công
năng, giúp cho con người, có được cuộc sống, bình yên an ổn, ít
đau khổ hơn, bớt đi phiền não, để tiến tới chỗ, giải thoát khỏi
vòng, sanh tử luân hồi.
- Phước báu hữu
lậu, do những việc làm, tạo sự an vui, thoải mái yên bình, ích lợi
cho người, gặp lúc khó khăn, về mặt vật chất, hay về tinh thần.
Phước báu hữu lậu, còn có công năng, đem lại may mắn, tai qua nạn
khỏi, chuyện lớn hóa nhỏ, chuyện nhỏ hóa không, chuyện khó hóa dễ,
hễ chịu làm phước, oan trái bớt đi, nghiệp báo giảm thiểu. Người
nào làm phước, với lòng ước mong, hưởng phước về sau, đó được gọi
là: phước báu hữu lậu, vẫn còn trong vòng, sanh tử luân hồi.
- Phước báu vô
lậu, do những việc làm, lời nói ý nghĩ, ích lợi cho người, nhưng
đồng thời cũng, giúp chuyển hóa được, con người chính mình, thí dụ
như là: bố thí cúng dường, tụng kinh niệm Phật, tư duy thiền quán,
nghiên tầm kinh điển, tu tâm dưỡng tánh. Người nào làm phước, với
bốn tâm lớn: từ bi hỷ xả, tứ vô lượng tâm, lòng không cầu mong,
hưởng phước về sau, chỉ chuyên cố gắng, tu tập tinh tấn, tiến dần
đến chỗ: giác ngộ giải thoát, là phước vô lậu, vượt thoát khỏi
vòng, sanh tử luân hồi.
- Phước báu hữu
lậu, như tiền tiết kiệm, có khả năng giúp, con người giàu sang,
sung sướng tấm thân, bình yên may mắn. Hưởng phước báo này, có
ngày cũng cạn, cũng dứt cũng hết. Khi đó là lúc, con người sẽ
phải, đền trả nghiệp báo, đã tạo trước kia, trong lúc giàu sang,
quyền uy thế lực, tạo nhiều nghiệp ác, quên mất việc thiện, tu
nhơn tích đức.
- Chúng ta từng
thấy, các vị quyền uy, ông vua bà chúa, hoàng hậu thái phi, hoàng
tử công nương, tổng thống thủ tướng, bộ trưởng toàn quyền, các nhà
giàu có, trưởng giả cao sang, danh vang tột đỉnh, thế lực quyền
quí, lãnh tụ chính trị, lãnh tụ tôn giáo, khi hưởng hết phần,
phước báo hữu lậu, họ phải chịu nhiều, tai nạn khổ ách, tán gia
bại sản, thân bại danh liệt, thậm chí có thể, mất mạng thê thảm,
không ai thay được, ở nơi hoàng cung, hay trên xa lộ, hoặc dưới
biển sâu, hay trên núi tuyết!
- Trong Kinh A
Hàm, Đức Phật có dạy:
- "Con người khi
nào, đang hưởng phước báo, cũng như mũi tên, bắn lên không trung.
Mũi tên bay lên, rất nhanh rất mạnh, cũng như con người, gặp được
mọi sự, may mắn tốt đẹp.
- Đến khi phước
hết, con người bắt đầu, đền trả nghiệp báo, ví cũng như là, mũi
tên hết trớn, thì rơi xuống đất, cũng nhanh như vậy".
- Đó chính là
nghĩa: phước báu hữu lậu.
- Bởi vậy cho
nên, ở trong kinh sách, Đức Phật có dạy: chúng ta làm phước, đừng
có mong cầu, hưởng phước về sau, mà nên phát nguyện: đời đời kiếp
kiếp, đầy đủ phước duyên, gặp được chánh pháp, gặp được thầy lành,
gặp được bạn tốt, giúp đỡ trợ duyên, tu tâm dưỡng tánh, cho đến
cái ngày: giác ngộ giải thoát.
- Đó chính là
nghĩa: phước báu vô lậu.
- * * *
- Tóm lại nên
biết, trong khi tu phước, đồng thời tu tuệ, mỗi ngày một tiến,
nhứt định không lùi, con người cảm nhận, an lạc hạnh phúc, ở trong
tầm tay, ngay trong hiện đời, đi đứng nằm ngồi, sinh hoạt hằng
ngày, không tìm đâu xa, không đợi kiếp sau, vãng sanh cực lạc,
hoặc lên thiên đàng.
- Tu tập nghĩa
là: áp dụng giáo lý, vào trong cuộc sống, hằng ngày của mình, giữ
thân khẩu ý, luôn luôn thanh tịnh. Ngay trong cuộc sống, nếu như
chúng ta, sinh hoạt bình thường, đi đứng nằm ngồi, tất cả hành
động, lời nói ý nghĩ, đều thể hiện được, tứ vô lượng tâm: từ bi hỷ
xả, tâm không phiền não, an nhiên tự tại, an vui tu tập, sống
trong chánh niệm: niệm Phật niệm Pháp, niệm Tăng chi tâm, tức là
chúng ta, đạt được phước báu, trí tuệ viên mãn.
- Tu đúng như
vậy, chúng ta đạt tới, niết bàn giải thoát, không còn trầm luân,
sanh tử luân hồi. Tam bảo thường trụ, phước tuệ lưỡng toàn. Kinh
sách có câu:
- "Phước Tuệ
lưỡng toàn, thì phương tác Phật".
- Nghĩa là chúng
ta, muốn được làm Phật, an nhiên tự tại, thì phải tu phước, tu tuệ
song song, đều đặn như nhau. Ví như con chim, phải đủ hai cánh,
mới có thể bay. Chư Phật là bậc "PHƯỚC TRÍ NHị NGHIÊM", phước báu
trí tuệ, thảy đều trang nghiêm, chính nghĩa như vậy.
- Chư Tăng thường
được, mọi người xưng tán, là bậc "TÔN TÚC", nghĩa là các ngài, là
bậc tu hành, đáng tôn đáng kính, bởi vì đầy đủ: phước báu trí tuệ,
PHƯỚC tUệ song tu.
- Tội nghiệp
- Trên thế gian
này, chúng ta từng chứng kiến các cảnh phiền não khổ đau, nhiều
hơn là bình yên vui sướng. Ngay trong cuộc đời của chúng ta,
những sự bất trắc, bất như ý, bất toại nguyện, cũng nhiều hơn
những việc vui vẻ, vừa ý, toại nguyện.
- Cho nên, nhận
định cuộc đời "khổ nhiều vui ít", đó là sự thực rõ ràng, nhưng
trong chúng ta ít người dám mạnh dạn nhìn nhận. Con người vì mãi
mê đấu tranh, vật lộn với cuộc sống hằng ngày, nên không có thời
giờ để suy tư, tìm hiểu. Có người không muốn nhìn nhận sự thực
đó, tự kỷ ám thị, tự lừa dối mình, cho rằng cuộc đời là vui đẹp,
là đáng hưởng thụ, với mục đích tạm quên đi những đau khổ, bất
hạnh trong cuộc sống, không biết ngày mai mình sẽ ra sao, không
biết làm sao cho đời bớt khổ, cho đời hết khổ.
- Khi gặp hoàn
cảnh khổ đau, khi có điều bất trắc, bất như ý, bất toại nguyện,
con người chỉ biết than trời trách đất, hoặc trách cứ tổ tiên,
trách cứ ông bà cha mẹ, ăn ở bất nhơn thất đức, cho nên cháu con
mới ra nông nổi này!
- Đôi khi, có
người chỉ biết đặt niềm tin nơi đấng thiêng liêng nào đó, để cầu
nguyện, van xin, khấn vái cho được tai qua nạn khỏi, cho được bình
an, mà không chịu tìm hiểu hư thực, không chịu tìm hiểu Chân Lý,
không chịu học hỏi Chánh Pháp, cho nên những người biết lợi dụng
lòng mê tín dị đoan dễ gạt gẫm, dễ lợi dụng, dễ sai khiến, hậu quả
khó mà lường trước được.
- Thường thường
khi thấy người nào gặp hoàn cảnh không may, gặp điều bất hạnh, bất
như ý, đau khổ hoặc ngộ nạn, có người xúc động, tỏ lòng thương
xót, thốt lên: "Tội nghiệp quá!". Điều này có nghĩa là khi ở
trong trạng thái "tâm bình thường", con người ai cũng có sẵn "tâm
từ bi bác ái", thấy người đau khổ thì động lòng trắc ẩn, xót
thương.
- Cũng trong trường hợp đó, người
khác lại nói: Đáng đời chưa! Gieo gió thì gặt bảo! Làm tội thì
phải đền tội! Cũng có người nói: Nghiệp của họ nặng quá, nên họ
mới khổ nạn như vậy! Hoặc có người khác nói: Trời phạt họ đó!
Những sự suy nghĩ như vậy do tập quán, thói quen mà thốt nên lời.
- Vậy chúng ta
hãy thử tìm hiểu: "Tội" là gì, "Nghiệp" là gì? "Tội báo, Nghiệp
báo" là gì? Làm gì mà phải "tội nghiệp"? Làm sao cho hết "tội
nghiệp"? Làm sao "dừng nghiệp và chuyển nghiệp"?
- * * *
- Theo luật nhân
quả, chúng ta biết rằng: "gieo nhân nào thì gặt quả nấy". Thí dụ
như gieo nhân là hạt cam, chúng ta sẽ được cây cam và gặt quả
cam. Khoa học đã thí nghiệm và chứng minh điều này rõ ràng, không
có gì đáng nghi ngờ cả. Nghĩa là làm thiện gặp thiện, làm ác gặp
ác, ở hiền gặp lành, gieo gió gặt bão, có lửa có khói, sinh sự sự
sinh.
- Tuy nhiên, cũng
có thắc mắc: Tại sao có người gieo thật nhiều gió mà chẳng thấy họ
gặt bão, hay nói cách khác, những người đó làm nhiều điều bất
thiện, gây nhiều tội ác, mà tại sao họ vẫn bình yên, an ổn, ăn nên
làm ra, sống trong cảnh giàu có sung sướng? Trái lại, có người
làm thật nhiều việc phước thiện phước đức, như bố thí cúng dường,
hùn công góp của ấn tống kinh sách, quyên góp cho các hội từ
thiện, xây cất chùa chiền, lập nhà thương trường học, đắp đường
xây cầu, mà tại sao chẳng thấy phước báo đâu, chỉ thấy quả báo
xấu, gặp nhiều nạn tai, gặp nhiều điều bất trắc, bất như ý, bất
toại nguyện?
- Chúng ta biết rằng: có những hạt
giống gieo trồng, thì gặt được quả sớm, nhưng cũng có những hạt
giống gieo trồng xong, phải đợi một thời gian sau, hay một thời
gian lâu sau, mới gặt được quả. Cũng vậy, có những việc chúng ta
làm đời trước, đời này mới nhận kết quả hay hậu quả. Có những việc
chúng ta làm đời này, đời sau mới có kết quả hay hậu quả. Do làm
ác đời trước, nên con người gặp khổ đau đời này, chớ có oán hận,
than trời trách đất, bởi lẽ "mình làm mình chịu", không có ông
trời nào, thượng đế nào trừng phạt mình, một cách tùy tiện, một
cách vô căn cứ cả.
- Chúng ta thường
có tánh đổ thừa kẻ khác, kể cả ông bà cha mẹ, đã tạo nghiệp, rồi
cháu con phải lãnh hậu quả, chứ không bao giờ chịu nhìn nhận
"chính mình đã làm", đã gây ra những lỗi lầm trong kiếp trước, cho
nên kiếp này "chính mình gánh chịu".
- Còn những việc
phước thiện, phước đức mình làm trong đời này, vì quá ít quá nhỏ,
chưa kịp có kết quả. Hoặc đôi khi việc phước thiện, phước đức đã
có kết quả, đã làm cho nhẹ bớt đi những nạn tai, mà mình phải gánh
chịu, chỉ tại mình không biết đó thôi. Nếu không biết làm những
việc thiện tạo phước báu như thế, để bù đắp những tội lỗi đã gây
ra trước kia, con người có thể đã gặp nhiều phiền não khổ đau hơn,
nhiều tai nạn nặng nề hơn. Nếu việc phước thiện đã làm nhiều hơn
tội lỗi đã tạo, chắc chắn con người được hưởng sự sung sướng, sự
may mắn. Nghĩa là sự sung sướng, sự may mắn do phước báo chính
mình đã tạo ra, từ nhiều kiếp trước hay kiếp này, chứ không do ông
trời, hay thượng đế nào thương mình, mà ban cho cả.
- Như vậy, chúng
ta phải hiểu luật nhân quả được áp dụng trong ba thời: quá khứ,
hiện tại và vị lai. Cũng có những quả báo nhãn tiền, tức là kết
quả hay hậu quả có ngay trước mắt, gieo nhân đời này, gặt quả cũng
trong đời này. Thí dụ như ăn trộm thì bị bắt, ở dơ thì sanh bệnh,
làm biếng thì nghèo khó, đánh người thì người đánh, hại người thì
người hại, kiện thưa thì tốn tiền, tiết kiệm thì có dư, chăm học
thì đỗ đạt, siêng năng, chăm chỉ, cần cù, nhẫn nại, nếu không
thành công thì cũng thành nhân.
- * *
- Chúng ta thữ
nghĩ xem: Tội là gì?
- Tội lỗi là
những điều bất thiện, những việc ác do chính mình nói, chính mình
làm, chính mình suy nghĩ, chính mình gây ra, chính mình tạo tác,
do thân khẩu ý của chính mình. Tội lỗi cũng do sự sai khiến, xúi
giục, chỉ dẫn, bày cách cho người khác làm, thi hành, thực hiện
những điều bất thiện, những việc ác. Tội lỗi cũng do sự vui mừng,
tán đồng, khen ngợi, khi thấy kẻ khác làm những điều bất thiện,
những việc ác.
- Nghĩa là: "Nhược
tự tác, nhược giáo tha tác, kiến tác tùy hỷ", đều tội lỗi như
nhau. Tại sao vậy? Bởi vì chính mình làm, chỉ bảo người khác
làm, hay thấy người khác làm mà vui theo, những điều bất thiện,
những việc ác, thì tâm của chúng ta đều bị náo động, đều bị hoen
ố, đều ghi nhận chủng tử sanh tử luân hồi như nhau.
- Đạo Phật luôn
luôn chú trọng đến "tâm", chính là cái "thực tướng" bất sanh, bất
diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm của con người, chứ
không quan trọng đến cái giả tướng khác biệt bên ngoài của mỗi
người. Cái giả tướng khác biệt đó chỉ là cái thân tứ đại sanh
diệt, nay còn mai mất, chúng ta đang mượn tạm, trong kiếp sống này
mà thôi. Bởi vậy cho nên, đọc kinh điển của đạo Phật, muốn hiểu
được pháp vô lượng nghĩa, pháp vô thượng thậm thâm vi diệu, chúng
ta hãy tìm hiểu qua lăng kính của một chữ, đó là chữ: "TÂM".
- Chư Tổ có dạy:
- "Tâm tức Phật,
Phật tức Tâm", chính là nghĩa đó vậy.
- Đức Phật là bậc
vô thượng y vương, vô thượng dược vương chuyên trị "tâm bệnh" của
tất cả chúng sanh, chứ không phải "thân bệnh". Đức Phật hiểu rõ
tâm bệnh của tất cả chúng sanh, vì sao con người trôi lăn trong
sanh tử luân hồi, cho nên Đức Phật chỉ dẫn con đường thoát ly sanh
tử luân hồi. Đó mới chính là trọng tâm cốt yếu của đạo Phật.
- Sách có câu:
- "Tướng tự tâm
sanh, tướng tùng tâm diệt".
- Bất cứ ai giải
quyết được tâm bệnh, thì thân bệnh có còn gì đáng nói nữa đâu.
Cái thân tứ đại giả tạm này chỉ có tuổi thọ một trăm năm hay hơn
chút đỉnh là nhiều. Còn cái tâm bất sanh diệt của tất cả mỗi
chúng ta có tuổi thọ vô lượng mà Đức Phật đã chỉ bày trong các
kinh điển thì ít người hiểu thấu!
- Người nào chỉ
hiểu kinh điển nhà Phật qua nghĩa đen: cầu bình an, cầu siêu sanh,
là những người chỉ đứng bên ngoài cổng rào, chứ chưa vào được đến
trong sân chùa, nói chi đến ngưỡng cửa nhà Phật. Người nào chỉ
hiểu đạo Phật qua các hình thức cúng kiến, lễ nghi thường thấy, là
người chưa hiểu đạo Phật là gì cả!
- Thậm chí, có
người đến với đạo Phật, vì muốn cầu gì được nấy, muốn vạn sự như
ý, muốn tùy tâm mãn nguyện, muốn buôn may bán đắc, muốn nhất bổn
vạn lợi, muốn thi đâu đậu đó, muốn sở cầu như nguyện, muốn tình
duyên may mắn, muốn đủ thứ chuyện trên trần đời, thì than ôi, đạo
Phật còn gì là Phật đạo nữa! Thật đáng thương xót! Thật đáng
"tội nghiệp" lắm thay!
- Trong Kinh Hoa
Nghiêm, Đức Phật có dạy:
- "Nhất thiết duy tâm
tạo".
- Nghĩa là chúng
ta nên biết tội lỗi nặng hay nhẹ tùy theo tâm trạng, tâm tánh của
con người khi tạo tác. Thí dụ như một người nghèo khó đi câu con
cá, để ăn qua ngày, tội nhẹ hơn người no đủ, đi câu con cá vì thú
vui. Con người vì si mê nên cảm thấy vui thích trên sinh mạng của
chúng sanh! Khi xưa, những người có quyền thế, xem việc giết
người, giết dân chúng hay giết tù nhân, như thú vui tiêu khiển.
Ngày nay, ở các nước gọi là văn minh, con người xem việc săn bắn
thú vật như là môn thể thao, coi cảnh đấu bò giết bò như là trò
giải trí!
- Thật đáng "tội
nghiệp" lắm thay! Con người đang hưởng phước ở các xứ văn minh,
lại tìm cách tạo tội tạo nghiệp vì vô minh. Một người giết một
con thú dữ để tự vệ trong hoàn cảnh sợ hãi, tội nhẹ hơn một đứa bé
tay cầm cây cầm roi, thi đua với các đứa bé khác, đánh đập một con
gà, rụng lông tơi tả, máu đổ dầm dề, cho đến chết, một cách nhanh
nhứt, để được khen thưởng, để được lãnh giải, trong cuộc thi do
người lớn tổ chức!
- Dĩ nhiên, kẻ chủ tâm cố ý giết
người vì tư thù, vì quyền lợi, tội nặng hơn kẻ sát nhân trong cơn
điên loạn, hãi hùng hay vô ý thức. Kẻ giết con vật lớn như trâu
bò, tội nặng hơn kẻ giết côn trùng, con gián, con kiến. Giết
người, giết con vật lớn, con vật có nhiều linh tánh hơn, tức
nhiên, kẻ giết phải có chủ ý, dụng tâm, dụng công, dụng sức nhiều
hơn, nên tội nặng hơn. Giết côn trùng, con gián, con kiến không
do cố ý, không do thích thú, bởi vì con người không thể sống chung
với những sinh vật này được, theo phép vệ sinh chung của xã hội,
nên nhẹ tội hơn. Tuy nhiên, tìm giết vô cớ con gián, con kiến
ngoài đồng, ngoài đường lại là chuyện khác.
- Việc trộm cắp
cũng vậy. Người trộm cắp vì nghèo túng, phải giúp gia đình qua
cơn đói khổ, vì tạm thời, không còn phương cách nào khác, tội nhẹ
hơn một kẻ cố ý chủ tâm dùng thủ đoạn, dùng luật pháp, để chiếm
đoạt tài sản, sang đoạt bản quyền của người khác, thưa kiện người
khác với mục đích kiếm tiền, muốn mình sung sướng, làm giàu nhanh
chóng, người khác thì đau khổ vì sạt nghiệp! Việc nói dối để an
ủi, giúp đỡ tinh thần người đang bị bệnh, người đang khổ đau,
khủng hoảng, sợ hãi, không thể đem so sánh với việc nói dối để gạt
gẫm người khác vì ích kỷ, vì tư lợi, vì thù oán hại người, vì muốn
kết bè kết đảng.
- Càng tệ hại hơn
nữa vì tự ái, vì tự lợi, vì danh dự hão, vì chính nghĩa cuội, vì
công lý một chiều, vì lẽ phải phiến diện, vì mê tín dị đoan, vì
quá khích, có người đặt điều vu cáo vu khống, phỉ báng mạ lỵ người
khác, lộng giả thành chơn, nước lã khuấy nên hồ, để ám hại người
khác, viết bài đả kích, khen mình khinh người, lôi kéo phe phái,
thì những người đó làm sao tránh khỏi luật nhân quả, làm sao thoát
khỏi "lưới trời" lồng lộng, tuy thưa mà không lọt, tuy không thấy
mà chẳng sai chạy! Trong nhà Phật, "lưới trời" đó chính là "quả
báo" con người phải lãnh, vì các việc đã làm, đã nói, đã nghĩ,
trước đây.
- * *
- Chúng ta thường
nghe nói đến chữ "nghiệp" trong cuộc sống hằng ngày, cũng như
trong đạo Phật, như là: nghề nghiệp, tội nghiệp, nghiệp báo,
nghiệp chướng, nghiệp nhân, nghiệp quả.
- Vậy chúng ta
thử tìm hiểu: "Nghiệp" là gì?
- Nghiệp là thói
quen hành động, nói năng hay suy nghĩ hằng ngày của chúng ta trong
cuộc sống, trong khi làm việc, trong khi giao tiếp, ở tại nhà, ở
tại sở làm hay bất cứ nơi đâu.
- Nghĩa là nghiệp
do thân hành động, khẩu nói năng và ý suy nghĩ, nên thường được
gọi là tam nghiệp: thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp.
- Theo nguyên
tắc, có hai loại nghiệp: thiện và bất thiện. Tuy nhiên, khi nói
đến chữ "nghiệp", người ta thường nghĩ đến những nghiệp ác hay
nghiệp bất thiện.
- 1) "Thân
nghiệp" là những thói quen hành động, do thân tạo tác hằng ngày.
Có người luôn luôn thích giúp đỡ kẻ khác, làm việc phước thiện,
làm việc xã hội. Có người luôn luôn thích đi chùa, lễ Phật, tụng
kinh, đi nhà thờ xem lễ, cầu nguyện. Cũng có người luôn luôn
thích đánh nhau, đánh đập súc vật, giết hại sinh mạng chúng sanh,
chơi đấu bò, đi câu cá, đi săn bắn, như thú vui tiêu khiển. Có
người luôn luôn thích hút thuốc, uống rượu, bài bạc. Có người luôn
luôn thích việc trộm vặt dù họ không túng thiếu. Có người luôn
luôn thích kiện tụng, thích xúi người khác thưa kiện để thủ lợi.
Có người luôn luôn thích hăm dọa người khác, theo thói chưa đậu
ông nghè đã đe làng tổng, họ gửi bài đăng báo, tòa báo không đăng
nguyên văn, sửa bản thảo, họ bảo xin lỗi, viết thư dọa làm con
kiến đi kiện củ khoai!
- 2) "Khẩu
nghiệp" là những điều mình thường nói ra hằng ngày, có khi ngọt
ngào dễ nghe, có khi chanh chua chát khế, kinh khủng khiếp luôn!
Cổ nhơn có dạy: "Lời nói chẳng mất tiền mua. Lựa lời mà nói cho
vừa lòng nhau". Có người luôn luôn thích nói chuyện đạo lý,
chuyện ích lợi cho người. Có người luôn luôn thích thuyết pháp,
tụng kinh, niệm Phật. Có người luôn luôn thích an ủi, khuyên lơn,
đem sự an ổn tâm thần đến cho người khác. Có người luôn luôn nói
lời hòa nhã, êm ái, dịu dàng, ai ai cũng thích nghe, thích gặp
mặt, thích trò chuyện. Đó là những người lựa lời mà nói cho người
an vui, và đang tu theo hạnh Đức Quán Thế Âm Bồ Tát, hay tu theo
hạnh Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát.
- Cũng có người
luôn luôn thích nói suốt ngày, không biết mệt, không ngừng nghỉ.
Có người luôn luôn thích nói chuyện thị phi, chuyện thiên hạ,
chuyện phải quấy, chuyện hơn thua, chuyện tranh chấp, chuyện kiện
tụng, chuyện thưa gửi, chuyện phiền não, chuyện khổ đau. Có người
luôn luôn thích văng tục, chửi thề, bới móc người khác, kê tủ đứng
vào miệng người khác, móc họng cho người ói ra, mỗi khi khai khẩu,
mỗi khi mở miệng. Có người thốt xong một lời, người nghe phải đi
xức dầu cù là, hoặc uống thuốc nhức đầu, thậm chí ngất xỉu, hay
giã từ luôn cõi đời. Có người thốt xong một lời, người khác phải
đi tù, gia đình xào xáo, vợ chồng chia ly, lục đục, cãi vã, nghi
ngờ lẫn nhau, tiêu tan hạnh phúc.
- Bởi vậy, chúng
ta mới biết khẩu nghiệp nặng nề biết bao, lời nói độc hại đến
chừng nào, lời nói có khả năng hại người còn hơn vũ khí. Đó là
lời nói của những kẻ "lựa lời mà nói cho người giết nhau", hoặc là
những kẻ "lựa lời mà nói cho người tiêu luôn"!
- Những người
biết tu tâm dưỡng tánh rất dè dặt với khẩu nghiệp, không dám phát
ngôn bừa bãi, luôn luôn nhớ lời cổ nhơn dạy: "Lời nói là bạc, im
lặng là vàng". Có người bèn áp dụng tu pháp môn "tịnh khẩu", suốt
ngày không muốn nói bất cứ chuyện gì, với bất cứ ai. Tuy nhiên,
bên ngoài phẳng lặng, mà trong lòng dậy sóng, thì cũng như không!
Có khi nói năng để truyền bá Chánh Pháp, lời nói đầy pháp vị, nói
lời chuyên chở đạo lý. Có khi sự im lặng cũng đúng Chánh Pháp,
cũng đượm nhuần đạo lý.
- Cổ nhơn có dạy: "Ngữ ngôn đạo
đoạn".
- Nghĩa là còn
phải dùng lời nói, thì không thể diễn tả được đạo lý một cách tột
cùng, khi lên tiếng thì đạo mất rồi. Người hiểu đạo là người có
tâm cảm thông sâu sắc, không cần dùng lời nói, có thể thấu hiểu
mọi sự mọi việc một cách dễ dàng, không có gì ngăn ngại. Trong
kinh sách có câu: "Đạo cảm ứng giao nan tư nghì" chính là nghĩa đó
vậy.
- Cũng có câu:
"Đạo bổn vô ngôn".
- Nghĩa là gốc
của đạo không thể dùng lời lẽ của thế gian mà diễn tả được. Đạo
là chỗ cứu kính tuyệt đối bất khả tư nghì, đạo cảm thông không thể
nghĩ bàn được. Đó chính là chỗ im lặng của Cư sĩ Duy Ma Cật thời
Đức Phật còn tại thế, đó chính là sự lặng thinh của Nhị Tổ Huệ
Khả, khi trình kiến giải lên Sơ Tổ Bồ Đề Đạt Ma vậy.
- 3) Tuy nhiên,
quan trọng hơn cả chính là "ý nghiệp". Chính ý nghiệp chủ động
điều khiển thân nghiệp và khẩu nghiệp. Tại sao vậy? Bởi vì nếu
như tư tưởng luôn luôn có ý nghĩ thế nào thì hành động và lời nói
sẽ y theo đó mà ra, không sai khác chút nào. Chính tư tưởng phát
xuất ra hành động và lời nói. Thí dụ nếu trong tâm ý chúng ta
nghi ngờ người nào ăn cắp đồ, thì từ hành động cho đến lời nói của
người đó đều có vẻ khả nghi, đáng ngờ, và hành động cũng như lời
nói của chúng ta đều không bình thường đối với người đó.
- Thí dụ nếu
chúng ta luôn luôn có tư tưởng, có ý nghĩ là kẻ nào ác thì phải bị
tiêu diệt, phải bị đọa địa ngục, phải bị trừng phạt nặng nề, cho
nên khi có cơ hội, có phương tiện, có quyền hành, có thế lực,
chúng ta sẽ dễ dàng mắng chửi, mạt sát, giết hại, trừ khử, thanh
toán kẻ đó không chút xót thương, không chút bận tâm! Nghĩ như
vậy, nói như vậy, làm như vậy, tâm của chúng ta không từ bi, không
bác ái chút nào, và như vậy chúng ta có khác gì kẻ ác kia đâu?
Giết người phải đền mạng, có luôn luôn hẳn là lẽ công bằng tuyệt
đối chăng, có giúp nạn nhân sống lại chăng, có giúp xã hội an
ninh, trật tự chăng, có giúp tình người thêm tốt đẹp chăng? Con
người thường nhân danh cái thiện, nhân danh thế thiên hành đạo, để
thi hành, thực hiện việc ác, việc trả thù ngay sau đó. Chính vì
vậy mà oan oan tương tục không biết đến bao giờ mới dứt được.
Thiệt là "tội nghiệp" thay!
- Trên thế gian
này, sân hận không bao giờ dập tắt sân hận. Duy có tình thương,
tâm từ bi mới diệt được tâm sân hận. Đó là định luật trường cửu.
Cho nên, trong Kinh Pháp Cú, Đức Phật có dạy:
- Lấy oán báo
oán, oán nghiệp chập chùng.
- Lấy ân báo oán,
oán nghiệp tiêu tan.
- Đây là cách
dừng nghiệp và chuyển nghiệp hữu hiệu nhất. Thí dụ vì nghiệp
duyên đời trước, có người nào đó khi gặp chúng ta, liền không có
cảm tình, không ưa thích, có thái độ thù nghịch, chống đối. Nếu
như chúng ta không hiểu luật nhân quả, bèn có thái độ tương ứng
đáp lại, thì càng ngày quan hệ giữa chúng ta và người đó càng tệ
hại thêm mà thôi. Còn nếu như khi họ gặp hoàn cảnh không may nào
đó mà mình có thể giúp được và thực tâm giúp đỡ họ, thì có phải
"oán nghiệp" trước đây tiêu tan hay không?
- Thí dụ trong gia đình, nếu người
cha hay người mẹ, vì tức giận người con đối xử tệ bạc với mình,
không như mình mong ước, nên cũng đối xử lạnh lùng, hằn học, bực
dọc đáp lại, thì thử hỏi câu chuyện sẽ đi đến đâu, sẽ kết thúc ra
sao? Nếu cha mẹ có lòng từ bi, không chấp chặt những điều đó, vẫn
thương yêu, chăm sóc người con, như lúc con còn nhỏ dại, thì ít ra
còn hy vọng người con chuyển đổi tâm ý, gia đình hòa vui trở lại.
- Chuyện này "nói ra thì dễ, làm
được mới khó". Nhưng thử hỏi chuyện gì trên đời này mới là chuyện
dễ làm đây ?
- * *
- Bây giờ, nói về
vấn đề: "dừng nghiệp và chuyển nghiệp".
- Chúng ta đã
biết rằng chính ba nghiệp thân khẩu ý là động cơ dẫn dắt chúng
sanh vào vòng trầm luân sanh tử luân hồi nhiều đời nhiều kiếp.
Cho nên, muốn thoát ly sanh tử luân hồi, con người phải biết dừng
nghiệp và chuyển nghiệp. Nghĩa là chúng ta phải dừng tất cả những
nghiệp ác, nghiệp bất thiện, từ thân khẩu ý của mình, chuyển ba
nghiệp thân khẩu ý bất thiện, thành ba nghiệp thiện lành. Đó chính
là trọng tâm tu hành của đạo Phật, chứ không phải những hình tướng
bên ngoài, những nghi lễ rườm rà, những van xin cầu khẩn.
- Người có nghiệp
cờ bạc thì luôn luôn tìm tới các sòng bài bạc để vui chơi trong
chốc lát, rồi sau đó đau khổ dài dài. Người có nghiệp hút thuốc
thì đi đâu cũng luôn luôn để ý đến chỗ nào bán thuốc lá và giá cả
ra sao. Người mang nghiệp nào thì sẽ bị dẫn theo con đường ấy,
cũng như kim loại bị nam châm hút vậy. Con người khi chết đi,
thân xác, danh vọng, của cải, thân bằng quyến thuộc, tất cả mọi
thứ đều phải bỏ lại thế gian, chỉ mang theo cái "nghiệp báo"
tái sanh kiếp sau. Chính cái nghiệp báo này là nguyên nhân làm cho
chúng ta sung sướng hay đau khổ vậy. Khi biết được điều đó, liễu
tri được điều đó, giác ngộ được điều đó, chúng ta cần phải tìm
cách dừng nghiệp, tìm cách chuyển ba nghiệp bất thiện thành ba
nghiệp thiện.
- Trong kinh
sách, Đức Phật dạy pháp môn để dừng nghiệp và chuyển nghiệp, chính
là "Pháp Sám Hối".
- Người biết ăn
năn sám hối mới thực là người biết tu chân chính, không cần phải
có hình tướng như thế nào, chỉ cần chúng ta kiên trì, cố gắng tu
tâm dưỡng tánh, đúng theo Chánh Pháp, thì đạt được kết quả mỹ
mãn. Kết quả đó là cảnh giới an lạc và hạnh phúc hiện đời, kết
quả đó là cảnh giới tây phương cực lạc hay thiên đàng sau này.
Chánh Pháp không dành riêng cho những người theo đạo Phật hay bất
cứ ai. Chánh Pháp là chân lý cứu kính mà bất cứ ai có "tâm
bình thường" cũng có thể tìm hiểu được và thực hành được, một
cách bất tùy phân biệt.
- Nếu không có "pháp
sám hối chơn thực" thì không có thánh nhơn trên đời, không có
thiên đàng, hay cảnh giới tây phương cực lạc. Biết bao nhiêu bậc
thánh hiền xưa nay có quá khứ bất thiện, xấu ác, gian tà, nhưng
nhờ các ngài giựt mình tỉnh thức, qua được cơn mê, quày đầu hướng
thiện, cho nên trở thành đại đức thánh nhơn. Bởi vậy, chúng ta noi
gương các ngài, chỉ nên quán xét chính mình, không cần thiết phải
bận tâm biết quá khứ của người khác ra sao. Người ta trước đây tạo
nghiệp xấu thiệt, nhưng nay đã biết sám hối, đã biết dừng nghiệp
và chuyển nghiệp, còn mình thì sao, vẫn đi soi mói việc riêng của
người khác để làm gì?
- Trong kinh
sách, Đức Phật có dạy:
- Tội tùng tâm
khởi tương tâm sám.
- Tâm nhược diệt
thời tội diệc vong.
- Tội vong tâm
diệt lưỡng câu không.
- Thị tắc danh vi
chơn sám hối.
- Nghĩa là muốn
tội lỗi thực sự không còn nữa, thì chúng ta phải tiêu diệt cái
nguyên nhân chính gây ra tội lỗi, xúi giục mình làm bậy nói bậy
nghĩ bậy, đó là vọng tâm lăng xăng, lộn xộn, loạn động, suy nghĩ,
tính toán, suy lường, hằng ngày của chúng ta. Một khi đã thực tâm
sám hối thì không còn tâm muốn làm, muốn nói, muốn nghĩ những
chuyện bậy đó nữa. Mỗi khi vọng tâm khởi lên, xui khiến mình làm
chuyện bậy, bất cứ chuyện gì lợi mình hại người, bảo mình nói lời
bậy, bất cứ lời nào gây phiền não cho người khác, giục mình nghĩ ý
bậy, bất cứ ý nghĩ nào khen mình khinh người, thì chúng ta phải
nhận biết ngay, dừng lại, không theo. Lâu dần, vọng tâm đó lặng
đi rồi, thì tội lỗi cũng không còn gây ra nữa. Cũng giống như mỗi
lần trong đầu nhớ tới bản nhạc nào quen thuộc, nếu chúng ta ư ử
hát theo thì sẽ nhớ hoài nhớ lâu, còn nếu chúng ta không hát theo,
thì ít lâu sau, sẽ quên bẳng đi, không còn nhớ nữa. Đó mới thực
là "chơn sám hối", tức là sám hối chơn chính, chơn thực, thực lòng
vậy.
- * *
- Pháp sám hối
chơn chính có hai phần:
- Lý Sám Hối
và Sự Sám Hối.
- Trước hết,
chúng ta nói về "Sự Sám Hối".
- Khi tâm của
chúng ta còn mê mờ, chưa được giác ngộ Chân Lý, chưa hiểu biết
Chánh Pháp, chúng ta phải hành theo sự sám hối. Nghĩa là đối
trước tôn tượng chư Phật, chư Bồ Tát, chúng ta phải hành lễ bái,
tỏ bày sám hối, mong diệt nghiệp chướng, tội chướng, siêng năng
tinh tấn, mỗi tháng hai lần.
- Mỗi lần như
vậy, chúng ta đọc bài kệ như sau:
- Ngã tích sở tạo
chư ác nghiệp.
- Giai do vô thủy
tham sân si.
- Tùng thân khẩu
ý chi sở sanh.
- Nhứt thiết ngã
kim giai sám hối.
- Nghĩa là chúng
ta đã tạo không biết bao nhiêu ác nghiệp từ xưa đến giờ, đều do ba
điều độc hại: tham lam, sân hận và si mê, thể hiện qua ba hình
thức: thân hành động, khẩu nói năng, ý suy nghĩ. Tất cả những tội
lỗi đó, những nghiệp bất thiện, những nghiệp ác đó, chúng ta đều
thành tâm thực lòng, ăn năn sám hối, quyết tâm chừa bỏ, không dám
tái phạm, cố gắng gìn giữ tam nghiệp thân khẩu ý cho được thanh
tịnh.
- Trong kinh sách
có câu:
- "Ngã thân ảnh
hiện chư Phật tiền",
- tức là: "Trước
bảo tọa thân con ảnh hiện".
- Nghĩa là đối
trước tôn tượng chư Phật, chúng ta hiện nguyên hình con người thực
của mình, phản ảnh đúng nội tâm của mình, để thành tâm phát lồ sám
hối, không che dấu bất cứ điều gì cả. Chúng ta có thể che dấu tội
lỗi, che dấu tật xấu, đối với người đời, chứ đối với chư Phật,
đúng ra đối với Phật Tâm của chúng ta, chúng ta chẳng thể giấu
giếm bất cứ điều gì. Ngày xưa, để cho mọi người dễ hiểu, cổ nhơn
giải thích đó chính là lúc chúng ta đứng trước gương chiếu yêu,
trước diêm vương cảnh đài, bất cứ việc gì chúng ta đã làm, đã nói,
đã nghĩ, trong suốt cuộc đời đều hiện ra hết tất cả.
- * *
- Nay nói về "Lý
Sám Hối".
- Trong Kinh Hoa
Nghiêm, Đức Phật có dạy:
- "Nhất thiết duy
tâm tạo".
- Nghĩa là muôn
việc trên thế gian này đều do tâm của chúng ta tạo ra tất cả. Tâm
của chúng ta tạo ra thiên đàng. Tâm của chúng ta tạo ra địa
ngục. Thí dụ chúng ta phát triển các tâm lượng rộng lớn, tốt đẹp
như từ bi hỷ xả, tức là chúng ta phát triển cảnh giới thiên đàng,
cực lạc và sống an lạc trong cảnh giới đó.
- Nếu chúng ta chấp chặt những thành
kiến, định kiến, thiên kiến, biên kiến, tà kiến, ác kiến, thường
kiến, đoạn kiến, phát triển những tâm lượng hẹp hòi, ích kỷ, đố
kỵ, ganh tị, tham lam, sân hận, si mê, khen mình khinh người, lợi
mình hại người, tức là chúng ta phát triển cảnh giới địa ngục và
sống bất an trong cảnh giới đó vậy.
- Sự sám hối ví
như chiếc xe đạp. Nghĩa là người chỉ biết sự sám hối thôi, không
hiểu rõ lý lẽ, thì đường tu tiến chậm. Đi chùa lạy Phật, tụng
kinh bái sám, từ lâu lắm rồi, mà sao vẫn còn bực mình nhiều chuyện
quá, phiền não vẫn còn y nguyên, có khi còn nhiều hơn lúc trước
nữa.
- Lý sám hối ví
như động cơ. Nghĩa là người chỉ biết lý sám hối thôi, không chịu
hành sự, thì đường tu cũng không tiến. Hiểu rõ lý sám hối và năng
hành sự sám hối, nghĩa là "lý sự viên dung", lý sự đầy đủ vẹn
toàn, thì đường tu tiến được rất nhanh, cũng như đi xe có gắn máy
thì chạy nhanh hơn xe đạp vậy.
- Tu tiến có
nghĩa là: giảm bớt phiền não và khổ đau, sống được cảnh giới an
lạc và hạnh phúc ngay hiện đời.
- Dù theo bất cứ
tôn giáo nào chăng nữa, thực ra vị giáo chủ cũng không thể ban
phước cho chúng ta được bình an, sung sướng hay an lạc và hạnh
phúc. Các ngài chỉ cho chúng ta bản đồ, chỉ cho chúng ta phương
pháp, để chúng ta tự thực hành, tự đi đến cảnh giới an lạc và hạnh
phúc mà thôi. Như vậy mới thực là chí công vô tư vậy.
- Vì thế cho nên,
những người có trí tuệ bát nhã, luôn luôn giữ gìn tam nghiệp cho
thanh tịnh, tinh tấn tu tâm dưỡng tánh, phát tâm bồ đề, tiến tu
đạo nghiệp, chứ không phải chỉ biết cầu nguyện, van xin, cầu khẩn,
khấn vái. Tại sao vậy? Bởi lẽ chẳng được lợi ích gì, chỉ thêm
phiền não, vì cầu nguyện hoài mà không được đáp ứng gì cả!
- Cầu không được,
khổ là cái chắc.
- Cầu bất đắc,
tức khổ không sai.
- Có nhiều cách
tu, nhiều phương pháp, nhiều pháp môn để giúp chúng ta dừng nghiệp
và chuyển nghiệp, cho nên Phật giáo có nhiều tông phái. Tịnh độ
tông dùng câu niệm Phật, dùng cách quán tưởng, dùng thời khóa tụng
kinh, để dừng tất cả các nghiệp. Mật tông dùng câu thần chú
đà-la-ni để dừng tất cả các nghiệp. Thiền tông dùng pháp khán
thoại đầu, dùng công án nhà thiền, hay dùng "pháp đối cảnh vô
tâm", hay "pháp tri vọng", để dừng tất cả các nghiệp.
- Dừng được một
phần của "ba nghiệp", chúng ta bớt được một phần "chướng nạn" của
cuộc đời. Dẹp được một phần "nghiệp chướng" của bản thân, chúng
ta hưởng được một phần cuộc sống an lạc và hạnh phúc ngay hiện
đời. Thí dụ như bớt được chút lòng tham lam, chúng ta bớt được
chút khổ nạn, bởi vì tham thì thâm. Thí dụ như bớt chút lòng sân
hận, chúng ta bớt được chút phiền não nhức đầu, bởi vì sân thì
sinh sự. Thí dụ như bớt chút lòng si mê, chúng ta bớt được chút
khổ đau, bởi vì mê thì mất tiền, mất của, mất tất cả!
- * *
- Đến đây, chúng
ta cần hiểu rõ, phân biệt rõ: thế nào là "tội và nghiệp", và thế
nào là "tội báo và nghiệp báo". Sau một thời gian tu hành nào đó,
khi tâm được thanh tịnh, ba nghiệp không còn, thân khẩu ý hoàn
toàn thanh tịnh, "tội và nghiệp" không còn nữa, bởi vì chúng ta
không còn tạo nghiệp, không còn tạo tội.
- Do thành tâm
sám hối, "tội và nghiệp mới" không còn tạo ra nữa, nhưng tội báo
và nghiệp báo, nói chung là quả báo, từ "tội và nghiệp cũ" vẫn
còn. Chúng ta đã tạo "nghiệp nhân" thì nhứt định phải nhận
"nghiệp quả", không thể chạy đâu cho khỏi. Người đời thường gọi
đó là "số trời đã định", hay "định mệnh đã an bài", hoặc "chạy
trời không khỏi nắng", chính là nghĩa đó vậy.
- Trong Kinh Pháp
Cú, Đức Phật có dạy:
- Dù cho lên non,
xuống biển vào hang,
- nghiệp báo đã
mang, vẫn theo con người,
- như hình với
bóng, không ai có thể,
- tránh được
thoát được.
- Các bậc thánh
thiện là những người đã thanh tịnh được tam nghiệp nên có cuộc
sống an nhàn, tự tại trong nội tâm, trong tâm thức. Tuy nhiên,
trên hình thức bên ngoài, chúng ta thấy cuộc sống của các vị giáo
chủ, của các bậc thánh nhơn không phải là không có sóng gió, không
phải là không có chuyện bất trắc xảy ra. Có khi các ngài vẫn bị
vu cáo, nhục mạ, phỉ báng, xét xử, kết án và thậm chí, bị hành
hình như những tội phạm hình sự.
- Tại sao vậy?
Bởi vì, các ngài tuy đã dứt hết các "tội và nghiệp" đời này, nhưng
tội báo và nghiệp báo, nói chung là "quả báo", từ nhiều đời và
nhiều kiếp trước vẫn còn, các ngài vẫn phải trả. Các ngài, cũng
như bất cứ ai, không thể đứng ngoài luật nhân quả được.
- Chẳng hạn như:
Vào cuối thế kỷ thứ ba, vị tổ thứ hai mươi bốn là Aryasimha tuy đã
đắc đạo, nhưng vẫn bị vua Kế Tân chém đầu. Vào đầu thế kỷ thứ
bảy, vị tổ thứ hai mươi chín, là Tổ Sư Huệ Khả, bị vu cáo và bị
giam đến chết trong ngục, thọ 107 tuổi! Tổ Bá Trượng Hoài Hải
trong một buổi thuyết giảng, có gặp một ông lão, nguyên là một vị
Hòa Thượng, vì hiểu sai và giảng sai luật nhân quả, cho là một khi
con người đắc đạo rồi, thì không phải trả quả báo, thoát ngoài
luật nhân quả, cho nên phải bị đọa 500 kiếp chồn.
- Chúng ta cũng thường hay nghĩ như
vậy, cho là sám hối xong thì sạch tội và sẽ được bình an, không
tai nạn gì nữa cả, không phải trả quả báo! Hiểu như vậy là sai!
Chúng ta thường lầm lẫn "tội nghiệp mới" với "quả báo cũ". Chúng
ta cần nên biết rằng chúng ta không thể nhờ bất cứ ai tha tội, xóa
tội, miễn tội, gánh tội thay thế cho chúng ta được. Tại sao vậy?
Bởi vì như vậy trái với luật nhân quả, lẽ công bằng và không hợp
tình, hợp lý chút nào.
- Trong tam tạng
kinh điển, Đức Phật chỉ dạy rất rõ ràng vấn đề "tội và báo" này.
Khi nào chúng ta không còn tâm si mê muốn quịt nợ, chúng ta sẽ
nhận biết được dễ dàng hơn, thấu đáo hơn, không còn bị dối gạt,
không còn lầm lẫn nữa.
- Chúng ta thử
xét thí dụ sau đây, để hiểu biết thêm về "tội báo, nghiệp báo, quả
báo, và phước báo". Theo luật nhân quả, do hậu quả của tội lỗi đã
làm, gọi là "nghiệp nhân", con người gặp những bệnh tật, những tai
nạn, những bất trắc ở đời, gọi là "nghiệp quả hay nghiệp báo".
Con người phải gánh chịu "quả báo hay tội báo" như vậy, ví như
phải ăn một nắm muối. Phải ăn một nắm muối thì khổ biết là bao
nhiêu. Nếu như con người có thể bỏ nắm muối vào tô nước rồi uống
thì có lẽ dễ chịu hơn chút đỉnh. Nếu như con người có thể bỏ nắm
muối vào lu nước rồi uống thì dễ chịu hơn chút nữa. Nếu như con
người có thể bỏ nắm muối đó vào hồ nước lớn rồi uống thì chắc là
câu chuyện không thành vấn đề nữa rồi.
- Nắm muối bị bắt
buộc phải ăn tượng trưng cho "tội báo, nghiệp báo, hay quả báo",
do những tội lỗi chúng ta đã làm từ nhiều đời trước hay đời này.
Nước trong tô, trong lu, trong hồ tượng trưng cho "phước báo" ít
hay nhiều, chúng ta đã tạo được từ những việc làm phước thiện,
phước đức, trong các đời trước hay đời này. Như vậy, nếu con
người phải đền trả hoàn toàn đầy đủ những tội lỗi do chính mình
gây ra, đời trước hay đời này, thì có khi phải tán gia bại sản,
bệnh tật ngặt nghèo, nguy hại tánh mạng. Nhưng nhờ đã làm các
việc phước thiện, nên có "phước báo" để bù đắp, cho nên hoàn cảnh
khổ đau, tai nạn có thể được giảm bớt hay hóa giải đi. Chuyện lớn
hóa nhỏ, chuyện nhỏ hóa không. Ví như con người có tiền tiết kiệm
để dành, có thể đem trả, trừ bớt nợ hay trừ dứt nợ xưa vậy.
- Bởi vậy, làm
việc phước thiện, tạo phước đức, có phước báo, để tiêu trừ tội
nghiệp là thái độ tích cực và hợp đạo lý, đối với bất cứ ai trên
thế gian này, hơn là việc cầu nguyện thượng đế để xin xá tội, để
chạy tội, hoặc đổ hết tội lỗi của mình cho thượng đế gánh giùm!
Thật là thảm thương thay cho thượng đế do con người đặt ra, tưởng
tượng ra, để gánh vác hết tội lỗi của nhân loại trên thế gian
này! Con người vốn hay muốn quịt nợ, muốn trốn tránh trách nhiệm,
không sợ nhân chỉ sợ quả, không bao giờ nhìn nhận những việc sơ
sót, sai trái, tội lỗi, lỗi lầm, chính mình đã làm, chỉ biết trách
cứ người khác, đổ thừa tại người này, đổ thừa tại việc kia, không
bao giờ dám nhận là "tại mình", không bao giờ chịu nhận là "lỗi
tại tôi mọi đàng". Tại sao vậy? Bởi vì con người không hiểu thấu
đáo, không biết tin sâu luật nhân quả vậy.
- * * *
- Tóm lại, trong
kinh sách, Đức Phật có dạy:
- Tam nghiệp hằng
thanh tịnh.
- Đồng Phật vãng
tây phương.
- Nghĩa là nếu
như lúc nào ba nghiệp của chúng ta đều thanh tịnh, lặng yên, trong
sáng, thân không sát sanh, trộm cắp, tà dâm, khẩu không nói dối,
không nói lời thị phi, không đâm bị thóc thọc bị gạo, không xuyên
tạc phỉ báng, không vu khống cáo gian, ý không còn tham lam, sân
hận, si mê, thì chắc chắn chúng ta sẽ được an lạc và hạnh phúc
hiện đời, sẽ cùng chư Phật về cõi tây phương cực lạc sau này.
Những người không thấu hiểu lẽ này, nên nghĩ là có thể "đới nghiệp
vãng sanh", tức là còn mang nghiệp mà vẫn có thể vãng sanh tây
phương, nhờ vào câu niệm Phật A Di Đà. Đó là một sự suy nghĩ sai
lầm lớn lao của người tu đạo, không đúng Chánh Pháp.
- Trong Kinh Hoa
Nghiêm, Đức Phật có dạy:
- Tất cả nghiệp
chướng đều do vọng tưởng,
- nếu muốn sám
hối,
- hãy ngồi tĩnh
tâm quán sát thực tướng.
- Nghĩa là khi quán sát
thực tướng, nếu người nào biết được tánh chúng sanh là tánh niết
bàn thì người ấy cùng cực giải thoát.
- Trong kinh sách
có câu:
- "Phật và chúng
sanh tánh thường rỗng lặng",
- hay: "Năng lễ
sở lễ tánh không tịch".
- chính là nghĩa
này vậy.
- Xét cho đến
ngọn nguồn, tội nghiệp đều do vọng tưởng điên đảo mà sinh ra.
Nhưng tâm vọng tưởng điên đảo ấy cũng như luồng gió giữa chốn hư
không, chẳng có chỗ nào trụ, chẳng có chỗ nào dính mắc.
- Khi chưa thấu
hiểu chân lý, mang mang mờ mờ mịt mịt, cho nên chúng ta mới gây
tội nghiệp, nhưng lại chỉ thấy tội nghiệp của người khác. Đến khi
rõ lý lẽ, tất cả tội lỗi trước đây thảy đều tiêu diệt, bởi chúng
ta đã thấy tội nghiệp của chính mình. Lúc ấy mới biết một cách
rốt ráo, tất cả đều là không: không có tội lỗi gì để mà tiêu diệt,
không có tội nghiệp gì để mà tạo tác, không thấy có nghiệp báo gì
để mà gánh chịu, cũng không còn sanh tử luân hồi nữa vậy.
--o0o--
|
|