-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Cư Trần Lạc Ðạo
-
(Trọn bộ 3 tập)
-
Toronto, Canada
1999 - PL 2543
- ---
o0o ---
-
-
Tập 3
- [13]
TU TÂM DƯỠNG TÁNH
- Trên thế giới
hiện nay, từ Âu sang Á, có rất nhiều tôn giáo, tín ngưỡng khác
nhau. Nói chung, đối với mỗi tôn giáo đều có hai hạng người: tu
sĩ và tín đồ. Trong phạm vi bài này, để cho quảng đại quần chúng
cùng theo dõi, chúng ta chỉ nhắc đến Phật giáo. Trong phạm vi đó,
chúng ta thử tìm hiểu một vấn đề thường được đề cập đến trong cuộc
sống hằng ngày, đó là chữ "tu", nhất là vấn đề tu hành dành cho cả
hai giới tín đồ và tu sĩ, hay nói cách khác là Phật Tử tại gia và
xuất gia.
- Về phương diện
vật chất, khi thấy có một công trình kiến trúc lâu năm đang xuống
cấp, hư hao, người ta đề nghị trùng tu hay tu bổ, nghĩa là sửa
chữa công trình đó cho tốt đẹp hơn, khang trang hơn, vững chắc
hơn. Về phương diện tinh thần hay tâm linh, khi gặp một người
hiền lành, biết ăn chay, tụng kinh niệm Phật, tánh tình dễ dãi,
hiền hòa nhã nhặn với mọi người, người ta thường nói người đó "nhờ
biết tu" nên mọi người chung quanh cảm thấy dễ thở, thoải mái.
Niềm an lạc và hạnh phúc có ngay từ trong gia đình người đó, ảnh
hưởng đến ngoài xóm làng, bạn bè và những người quen biết.
- Còn đối với
những người không biết tu, bản thân họ không hưởng được an lạc và
hạnh phúc, không biết được thế nào là "pháp vị" vi diệu tuyệt
vời. Họ thường bị phiền não và khổ đau của cuộc đời chi phối, bức
bách, ngày ăn không ngon, đêm ngủ chẳng yên, bởi những chuyện thị
phi, hơn thua, tranh chấp liên tục, không bao giờ giải quyết được
ổn thỏa. Thêm nữa, gia đình họ khó có được những ngày thực sự êm
đềm hạnh phúc, bởi ảnh hưởng những nhiệt não tỏa ra từ con người
không biết thế nào là tu đúng theo Chánh Pháp, hoặc chỉ biết tu
hình tướng và tin theo những điều mê tín dị đoan.
- Những người
không biết Chánh Pháp để tu, thường cảm thấy bất mãn, bực dọc,
thèm muốn, thích đấu tranh, thích hơn thua, thích tiện nghi, nhàn
hạ, chùa to tượng lớn, phô trương, cung kính, ăn trên ngồi trước,
nghĩa là họ thích đủ mọi thứ trên trần đời. Họ luôn luôn nhìn
thấy cuộc đời đầy phiền não và khổ đau, mọi người trên trần đời là
bần tiện xấu xa, con người và cuộc đời đều đáng lánh xa.
- Họ không bao
giờ nghĩ là họ chưa hoàn toàn, chưa hoàn hảo, họ cũng có một phần
lỗi trong các cuộc tranh chấp ở đời. Lúc nào họ cũng thấy là
"mình đúng người sai". Cho nên họ chạy đi tìm thần linh, tìm
thượng đế để cầu nguyện, khấn vái, cầu khẩn,van xin, hết điều này
đến điều nọ. Nếu mọi chuyện đều được đáp ứng, toại nguyện, tốt
đẹp như ý họ mong cầu, họ cho là "trời thương". Bằng như ngược
lại, họ phiền trách, cho là "trời không thương", hoặc "trời bất
công"!
- Những người
không hiểu biết Chánh Pháp thường nghĩ rằng, cho rằng đạo Phật chỉ
dành cho những người thất tình, bất đắc chí, hay những người già
cả không sống được với con cháu trong gia đình nên cạo đầu vào
chùa để "tu". Lâu ngày cửa chùa biến thành chỗ trốn nợ đời, hay
là viện dưỡng lão, thiền môn biến thành sân khấu cải lương nam bộ
của những kẻ sầu đời, chán ngán thế thái nhơn tình!
- Bởi vậy cho
nên, thiết tưởng chúng ta cũng cần tìm hiểu: "tu" nghĩa là gì, để
làm gì, có ích lợi gì? Những ai cần phải tu? Tại sao phải tu?
Làm sao tu theo Phật? Muốn tu theo Phật phải làm gì?
- * * *
- Trong mọi giới
Phật Tử chúng ta hiện nay, phần đông không hiểu rõ ý nghĩa của chữ
"tu", không hiểu rõ tu để làm gì, cho nên ứng dụng một cách đáng
thương. Có người cho rằng tu là phải cạo râu tóc, mặc áo nâu
sòng, hay áo cà sa, vào ở trong chùa, tức là phải có hình tướng
nhà sư, phải là tu sĩ mới gọi là "người tu". Hoặc rộng rãi hơn
một chút, có người cho rằng phải biết ăn chay, thường xuyên đi
chùa, tụng kinh, niệm Phật, làm công quả, làm Phật sự, làm việc
chùa, mới gọi là người tu. Không làm như vậy thì không phải là
người tu.
- Hiểu như vậy
không hoàn toàn sai, nhưng chúng ta chỉ mới chú ý đến phần "sự",
tức là phần hình thức, hình tướng bên ngoài của một người tu mà
thôi. Hay nói cách khác, những điều đó chỉ là "điều kiện có" của
một người tu, dù là xuất gia tu sĩ hay tại gia cư sĩ, chứ chưa
phải là "điều kiện đủ" để thành một người tu thực sự theo đạo
Phật. Đạo Phật không chú trọng nhiều đến hình thức, hình tướng,
nhưng không phải không cần có hình thức, hình tướng bên ngoài.
Tuy vẫn cần phải có hình thức, hình tướng bên ngoài, một người tu
đồng thời cũng phải có chất lượng, có nội dung bên trong, gọi là
phần "lý", cả hai phải được vẹn toàn, phải "lý sự viên dung" mới
gọi là tu đúng Chánh Pháp .
- Trước hết nói
về phần sự, tức là phần hình thức, hình tướng bên ngoài, chúng ta
thảy đều đồng ý là một người tu cần phải có hình thức trang nghiêm
thanh tịnh. Nghĩa là một người tu cần phải ăn mặc tề chỉnh, đi
đứng đàng hoàng, thái độ chững chạc, cử chỉ khoan thai, nói năng
lễ độ, hòa nhã khiêm tốn. Không ai có thể chấp nhận một người ăn
mặc lôi thôi xốc xếch, đi đứng nghiêng ngửa, nói năng hồ đồ, cử
chỉ thô tháo, là một người tu chơn chính, ngoại trừ trường hợp các
bậc thánh nhơn trong các chuyện cổ tích. Cũng trong phần sự, nói
chung người tu là người ăn hiền ở lành, không làm việc gì bất
thiện, khổ người hại vật, luôn luôn giúp đỡ bất cứ ai, khi cần
đến.
- Tuy nhiên, phần
quan trọng hơn cả chính là phần "lý", tức là phần nội dung bên
trong, phần tâm tánh chủ yếu, phần ý nghĩa của những việc làm bên
ngoài trên đây. Nghĩa là một người tu cần phải giữ gìn giới luật,
tụng kinh, niệm Phật, thiền quán, tu tập thiền định, phát triển
trí tuệ bát nhã, đi chùa, làm tất cả mọi công việc đem lại ích lợi
cho mình và cho người, một cách chí công vô tư, không phân biệt,
không thành kiến. Phần lý này được tóm gọn trong bốn chữ, đó là
TU TÂM DƯỠNG TÁNH vậy.
- Nếu một người
tu chỉ biết lo phần sự, chỉ biết lo trau chuốt hình tướng bên
ngoài, chỉ biết lo làm những việc hình thức, không có phần lý,
không thực sự thông hiểu và không thực hành Chánh Pháp, thì đó chỉ
là cái thùng rỗng, chỉ có cái võ, không có ruột. Một người chỉ
biết tu hình thức như vậy, dù có cạo tóc vào ở trong chùa, trong
tâm vẫn còn đầy dẫy phiền não, chỉ biết học những nghi lễ cúng
kiến mà không hiểu ý nghĩa cao siêu của các nghi lễ đó. Họ không
chịu nghiên cứu tìm hiểu Chánh Pháp, ngọn đuốc trí tuệ tắt ngỏm,
cho nên chư Tổ gọi những người như vậy là "tu mù". Người thế gian
thường gặp họ trong các tang lễ, nên gọi họ là "thầy tụng đám
ma". Một người chỉ biết tu hình thức như vậy, không có ích lợi gì
cho chính bản thân họ, ngoài lợi dưỡng, không có ích lợi gì cho
những người chung quanh, và nhứt là không ích lợi gì cho đạo pháp
cả.
- Khi đến chùa
lễ Phật, tụng kinh, cúng kiến hay thọ tam qui ngũ giới, Phật Tử
chúng ta thường nghĩ rằng: chắc là từ đây về sau, chư Phật sẽ phù
hộ độ trì cho được bình an, mọi mong cầu được vạn sự như ý, và
cuối cùng, sau khi lìa bỏ cõi đời này, chúng ta sẽ được chư Phật
rước về miền cực lạc. Như vậy chúng ta chưa phải là Phật Tử chơn
chánh. Thọ tam qui tức là qui y Tam Bảo, gồm Phật Pháp Tăng, và
nguyện giữ năm giới là sát, đạo, dâm, vọng, tửu. Nói cách khác,
qui y Tam Bảo rồi, chúng ta không sát sanh, không trộm cắp, không
tà dâm, không nói dối, không uống rượu.
- Thực ra, kể từ
ngày đó, việc chúng ta phải làm là cố gắng sửa đổi tâm tánh của
chúng ta, phải quyết chí chừa bỏ những thói hư, tật xấu, phải
chiến thắng những tâm niệm tham lam, sân hận, si mê, phải từ bỏ
những lời nói ác độc, gièm xiểm, ganh tị, đố kỵ, phải từ bỏ những
hành động xấu xa, gian ác, bất thiện, sát nhơn hại vật, phải từ bỏ
những ý nghĩ lợi mình hại người, khen mình khinh người. Kể từ
ngày đó, chúng ta phải sống theo hạnh của chư Phật, chư Bồ Tát,
làm lành lánh dữ, làm theo những lời dạy quí báu của chư Phật, chư
Bồ Tát, chư vị Tổ sư, giữ gìn tâm ý cho thanh tịnh. Đó chính là
tu tâm dưỡng tánh vậy.
- Chúng ta thường
nghĩ tu là nương tựa, là cầu xin với chư Phật để thỏa mãn mọi mong
cầu và qui y Phật, theo Phật, thờ cúng Phật, lạy Phật, sẽ được
bình an suốt đời. Bởi vậy cho nên chúng ta trở thành yếu hèn, ỷ
lại, mất hết ý nghĩa cao đẹp của chữ "tu". Do bản chất của con
người là tham lam, yếu đuối và sợ hãi, dù là Phật Tử thuần thành,
đi chùa lễ Phật, tụng kinh thường xuyên, chúng ta cũng không tránh
khỏi những tâm bệnh nói trên, cho nên không tránh khỏi những phiền
não và khổ đau của cuộc đời.
- Do lòng tham
lam sâu đậm từ vô thủy cho đến ngày nay, chúng ta qui y Phật với
lòng mong cầu thỏa mãn những ước mơ thầm kín, thường là quá sức để
thực hiện. Chúng ta thỉnh thoảng đến chùa, hay thậm chí cạo tóc
vào ở luôn trong chùa hằng chục năm dài, nhưng không chú ý đến
việc học đạo, không màng đến những giáo pháp cao siêu trong các
kinh điển, không học hỏi các bậc thiện tri thức, để tự tu tâm
dưỡng tánh theo lời Phật dạy.
- Chúng ta thường
đến chùa chỉ để cầu bình an, xin may mắn, khấn vái điều này, van
xin điều nọ, khi gặp khó khăn, lâm cảnh khổ nạn, bèn tự kêu lên:
"Phật ơi, cứu con!", người đời quen gọi, đó là "tu hú"! Chúng ta
sống lây lất cho qua ngày tháng trong niềm mê tín như vậy, để chờ
ngày được Phật rước về miền cực lạc. Thật là vô minh, làm uổng
phí cả cuộc đời hiện tại vô cùng quí báu!
- Chỉ mang đến
chùa có một bó nhang, một nải chuối, một bình bông, đóng góp một
ít tiền ấn tống kinh sách, hoặc đăng báo lời nguyện với hai ba câu
niệm Phật và Bồ Tát, chúng ta cầu nguyện, khấn vái, van xin, đủ
thứ chuyện. Nào là thân thể khỏe mạnh, gia đạo bình an, bệnh tiêu
tật hết, con cái giàu sang, buôn may bán đắt, nhứt bổn vạn lợi,
thắng chuyện kiện thưa, được tiền bạc triệu, tình duyên tốt đẹp,
thi đâu đậu đó, tai qua nạn khỏi, vạn sự kiết tường, muôn sự như
ý, tùy tâm mãn nguyện, quyến thuộc siêu sanh, thân nhân trường
thọ, nghĩa là chúng ta mong cầu đủ mọi thứ trên trần đời. Với cái
giá cầu nguyện rẽ mạt như vậy, chúng ta van xin đủ những điều mà
chư Phật đã dứt bỏ, và khuyên chúng ta nên dứt bỏ, để tu tập cho
đến chỗ giác ngộ và giải thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi.
- Vì không chịu
học đạo cho nên chúng ta mới sai lầm như vậy. Làm như vậy, có
phải là chúng ta đã phỉ báng Phật, đã làm sai lời Phật dạy? Chúng
ta không hiểu luật nhân quả, nghĩa là ở hiền gặp lành, gieo gió
gặt bão, sinh sự sự sinh, gieo nhân nào gặt quả nấy, cho nên chúng
ta dễ dàng phạm tội tạo nghiệp, dùng thủ đoạn thưa kiện, kiếm được
nhiều tiền, cúng Phật chút đỉnh, tự kỷ ám thị, để mong cầu hết
tội, chạy tội, xóa tội. Nếu thực tâm muốn sạch tội, chúng ta phải
biết pháp sám hối để diệt trừ nghiệp chướng, phiền não và khổ đau,
tức là phải biết những lời dạy của chư Phật, phải học hỏi Chánh
Pháp.
- Mọi phiền não
khổ đau trên đời đều từ gốc vô minh mà ra. Muốn hết phiền não khổ
đau, muốn được giải thoát, muốn được an lạc và hạnh phúc, chúng ta
phải giác ngộ. Muốn được giác ngộ, chúng ta phải học hỏi giáo
pháp, tức là những lời Phật dạy, để tự ứng dụng tu tập cho đúng
Chánh Pháp, để tự tu tâm dưỡng tánh. Được như vậy, chúng ta sẽ mở
mang trí tuệ bát nhã với ngọn đuốc Chánh Pháp của chư Phật, để
cương quyết, can đảm, kiên trì, nổ lực, tinh tấn tu hành, cho đến
ngày giải thoát khỏi sanh tử luân hồi. Muốn hiểu được lời Phật
dạy, muốn được hưởng pháp vị một cách thấm thía, nồng nàn, chúng
ta phải tận lực suy tư, nghiền ngẫm Chánh Pháp một cách tường tận,
tinh vi. Đồng thời, chúng ta phải áp dụng Chánh Pháp vào trong
đời sống hằng ngày.
- Trong Kinh Pháp
Cú, Đức Phật có dạy:
- Hãy tự thắp
đuốc, tự mình bước đi.
- Thắp sáng trí
tuệ, ngọn đuốc chánh pháp.
- Nghĩa là: Đức
Phật dạy chúng ta hãy tự quán chiếu, tự soi sáng trí tuệ của mình
bằng cách học hỏi giáo pháp, để tự chuyển hóa ba nghiệp thân khẩu
ý của mình cho được thanh tịnh, hay nói cách khác, để tự tu tâm
dưỡng tánh.
- Theo lịch sử,
vào thời đó, lúc Đức Phật còn tại thế, Ngài không thể cứu được các
vị đại đệ tử của Ngài, khi nghiệp báo của họ đến. Ngay bản thân
của Đức Phật cũng bị những khổ nạn, cũng gặp những khó khăn do
ngoại đạo gây nên, thì thử hỏi, chúng ta không chịu tự tu tâm
dưỡng tánh, tự thắp đuốc lên mà đi, tự cứu chính mình, mà chỉ một
mực cầu nguyện, van xin, khấn vái đủ điều như trên, liệu có được
gì chăng?
- Trong Kinh Pháp
Cú, Đức Phật có dạy:
- Dù có lên non,
xuống biển vào hang,
- nghiệp báo đã
mang, vẫn theo con người
- như hình với
bóng, không ai có thể
- tránh khỏi
thoát khỏi.
- Nghĩa là: nếu
chúng ta không biết tự tu tâm dưỡng tánh, để chuyển hóa ba nghiệp,
thì dù cho có van xin, cầu khẩn đến đâu, hay thay hình đổi dạng,
làm vua hay thường dân, làm cư sĩ tại gia hay tu sĩ xuất gia, làm
tín đồ hay làm giáo chủ, dù như thế nào đi nữa, chúng ta cũng
không tránh khỏi khi nghiệp báo đến. Đó chính là luật nhân quả
vậy. Có vị giáo chủ đương thời khi ra tiếp xúc với công chúng,
đứng ở trên xe hơi, trong lồng kính chống đạn, vì sợ bị ám sát.
Thượng đế còn không cứu được khi con người đến lúc phải trả
nghiệp, huống gì là cái lồng kính! Cũng vậy, tục ngữ có câu:
"Chạy trời không khỏi nắng", chính là nghĩa đó vậy.
- Chắc mọi người
ai cũng thừa nhận rằng: tất cả chúng ta đều sẵn có hai thứ tâm
địa, đó là tâm hiền lương và tâm bất lương. Tâm hiền lương là cái
nhân đem lại cái quả an lạc và hạnh phúc cho mình và cho người,
đời này và nhiều đời sau. Tâm bất lương ác độc là nhân đem lại
quả phiền não và khổ đau cho mình và cho người, đời này và nhiều
đời sau. Tu là dẹp bỏ tâm bất lương ác độc, phát triển tâm hiền
lương. Tu là điều kiện tất yếu cho tất cả mọi người muốn hết khổ
được vui, không phân biệt bất cứ ai, bất cứ giới nào. Người nào
còn chất chứa tâm niệm bất lương ác độc, thì cầu nguyện bình yên
chỉ hoài công mà thôi, cũng như người uống nhằm độc dược mà lại
chưa muốn chết!
- Tư tưởng yếu
hèn và ích kỷ khiến chúng ta nghĩ đến việc trao gởi thân mạng của
chúng ta và của gia đình cho chư Phật, nhờ chư Phật phò hộ, độ trì
hết thảy mọi việc được bình an khi còn sống, được về miền cực lạc
khi từ giã cõi đời. Những người này cung kính Đức Phật như một vị
thần linh hộ mạng, tưởng như Đức Phật có quyền năng bảo hộ cho bản
thân họ và gia đình họ suốt đời. Vì thế khi bản thân hay gia đình
họ xảy ra việc gì không may, họ hết sức tha thiết chí thành, cầu
nguyện van xin Đức Phật gia hộ cho được tai qua nạn khỏi. Nếu
được như ý, thì họ cho là Đức Phật linh thiêng, tiếp tục đi chùa
lễ Phật, để cầu khẩn, van xin tiếp chuyện khác.
- Họ không hiểu
rằng do chính họ ăn ở hiền lành, làm việc phước thiện, tạo phước
đức trước đây, và ngày nay nhờ phước báo đó đã cứu họ qua được cơn
hiểm nghèo, hoạn nạn, chứ không phải do van xin, cầu khẩn mà được
đáp ứng đâu.
- Chính phước báo đã làm giảm thiểu
nghiệp báo đó vậy.
- Bằng như không
được toại nguyện, không được tai qua nạn khỏi, do thiếu phước báo,
họ dễ dàng sanh lòng phỉ báng Đức Phật không từ bi, không linh
thiêng, và chạy theo ngoại đạo tà giáo, cúng kiến bất cứ vị thần
thánh nào, mà họ nghe đồn là linh thiêng, là có quyền năng tối
thượng, siêu việt, sẵn sàng chịu chết thay họ, chuộc tội của họ
làm, cho họ được bình yên sung sướng. Với tâm quịt nợ, trốn trách
trách nhiệm, họ bị gạt gẫm, tiền mất tật mang, đánh mất chánh tín,
rơi vào hố sâu mê tín dị đoan, ngày càng xa rời Chánh Pháp.
- Có nhiều người
cầu nguyện van xin Đức Phật không có kết quả, bèn đến các lăng tẩm
của những vị tướng quân bị triều đình ngày trước bức hại, nghe đồn
hiển thánh thành thần, hoặc đến miểu ông miếu bà cốc cô nào đó, để
cầu khẩn khấn vái, ký gửi con cái bệnh hoạn khó nuôi, xin bùa hộ
mạng bình yên, xin phép làm ăn một vốn bốn lời. Thực là đáng
thương vô cùng! Tại sao như vậy?
- Bởi vì những vị
đó lúc đương thời còn giữ không được cái mạng của họ, thì làm sao
mà cứu giúp ai ở đời sau được chứ! Còn những ông đồng bà cốt, cô
hai cô ba, có khả năng nào giải tai giải nạn cho người khác, trong
lúc tự lo thân của họ còn chưa xong, ngày nào không có khách cúng
tiền, không biết lấy gì mà ăn?
- Cuộc sống của
chúng ta đầy dẫy những lo âu, bất trắc. Cho nên chúng ta luôn
luôn sống trong sự sợ hãi. Khi gặp hoạn nạn chúng ta thường tìm
cách nương tựa vào một đấng thiêng liêng tưởng tượng nào đó, để
cầu nguyện, khấn vái, van xin, mong được an tâm. Bởi vậy cho nên,
chúng ta thường nghĩ rằng qui y Phật, đi chùa lễ Phật, tụng kinh
niệm Phật, hay hằng ngày ở nhà tụng kinh, thắp hương, cúng Phật,
là "tu" và sẽ được chư Phật ban cho mọi sự như ý, mọi thứ an lành,
mọi sự sung sướng. Nếu không được toại nguyện, chúng ta sẽ đánh
mất niềm tin và lạc vào ngoại đạo một cách dễ dàng.
- Ở đây chúng ta cần hiểu rõ ràng
rằng:
- "Ngoài tâm cầu
đạo tức là ngoại đạo".
- Tại sao vậy?
Bởi vì chư Tổ có dạy:
- "Phật tức Tâm,
Tâm tức Phật", ngoài tâm không có Phật, Phật ở chính ngay trong
tâm của chúng ta.
- Phật không có ở
trong chùa, không có ở trên non trên núi, không có ở dưới sông
dưới suối, không có ở trong rừng trong hang, không có ở cội cây
hòn đá. Phật không có ở trong các pho tượng hay tranh vẽ. Những
người tự xưng là Phật sống, là đại diện Phật để dâng sớ cúng sao
giải hạn, cầu an cầu siêu, cầu đủ mọi thứ trên trần đời, hoặc thấy
cội cây, hòn đá có hình dáng lạ lùng nào đó, liền cho là Phật
hiện, đổ xô đến lạy lấy lạy để, đều không phải Chánh Pháp, đều là
mê tín dị đoan cả. Thậm chí có người tu đến khi mãn phần, xác
thân tứ đại đem thiêu, thấy có vài chuyện lạ, liền cho là hiển
linh, cho là xá lợi, rủ nhau đến chụp hình, lễ lạy cho có phước,
để cầu xin, van vái. Thật là đáng thương cho những người gọi là
Phật Tử như vậy, dù là tại gia hay xuất gia.
- Ngày xưa, Thái
Tử Tất Đạt Đa rời bỏ hoàng cung, ra đi tìm đạo giải thoát. Sau
một thời gian tu tập thiền định, trí tuệ bát nhã bừng sáng, Ngài
giác ngộ được Chân Lý và thành Phật. Sau đó, Đức Phật chỉ dạy
rằng:
- "Nhứt thiết
chúng sanh giai hữu Phật Tánh".
- Nghĩa là tất cả
mọi chúng sanh ai ai cũng có Phật Tánh, còn gọi là tánh giác ngộ,
đó là tánh sáng suốt hoàn toàn tuyệt đối. Dù là kẻ ngu hay người
trí cũng đều có Phật Tánh như nhau. Chỉ tại sự mê ngộ chẳng đồng,
cho nên mới có kẻ ngu người trí. Người ngộ được Phật Tánh sẽ thấy
cảnh trần càng đẹp càng thuần. Phật Tánh hay tánh giác ngộ chỉ
hiện ra khi tâm phiền não không còn, cũng như khi mây đen tan biến
hết thì mặt trăng sáng hiện ra vậy. Nói một cách khác, do công
phu tu tâm dưỡng tánh, cho nên trong khi vẫn sống ở đời, nhưng
không còn bị cảnh trần chi phối, không còn bị cảnh trần gây phiền
não, thì vọng tâm lăng xăng lộn xộn trước đây của chúng ta chuyển
hóa thành Phật Tánh, trở nên thanh tịnh trong sáng.
- Tất cả mọi
chúng sanh ai ai cũng sẽ trở thành một vị Phật nếu biết tu tâm
dưỡng tánh theo đúng Chánh Pháp, không cần phải qua tận xứ Ấn Độ
tìm Phật, không cần phải vào rừng, trèo non lội suối, không cần
phải làm những chuyện thay đổi hình tướng, không cần phải làm
những chuyện dị hình dị tướng, không cần phải làm những chuyện
khác thường khác đời gì cả. Tất cả mọi chúng sanh ai ai cũng có
thể tu trong mọi hoàn cảnh, ngay tại thế gian này, ngay trên cõi
đời này. Chỉ có điều là chúng ta có phát tâm muốn tu hay không mà
thôi.
- Chúng ta đã
biết là tất cả ai ai cũng đều có những tâm niệm xấu ác cần phải
tu, cần phải sửa, cần phải chừa bỏ, như là tâm tham lam, sân hận,
si mê, kiêu ngạo, nghi ngờ, đố kỵ, tị hiềm, ganh ghét, hơn thua,
cố chấp, che giấu, bỏn xẻn, keo kiệt, ích kỷ, dối gạt, lao xao,
lộn xộn, lười biếng, buông lung, phóng túng. Tại sao vậy? Tại
sao chúng ta cần phải dẹp bỏ những tâm niệm trên mới gọi là tu?
- Bởi vì, trong
Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Đức Phật có dạy: "Những tâm niệm đó chỉ là
vọng tâm". Nghĩa là những tâm niệm đó "tùy duyên mà có", hết
duyên thì lặng mất, chứ không phải là tâm thực của chúng ta, không
phải là "chơn tâm". Chẳng hạn, không có ai đến quấy nhiểu, làm
phiền, chúng ta sẽ hiền lành như bụt vậy. Chỉ khi nào có người
đến, nói điều gì khó nghe, khó lọt vào tai, hay làm điều gì bất
như ý, đụng chạm quyền lợi, xúc phạm tự ái, chúng ta sẽ nổi tam
bành lục tặc ngay tức thì, do nghiệp chướng tích lũy lâu đời nhiều
kiếp, trong kinh sách gọi là "tùy duyên" mà tâm tức giận đó nổi
lên. Nhẹ thì cãi vã, nặng thì ấu đả. Kết cuộc, một bên vào nhà
thương hay ra nghĩa địa, một bên thì vào nhà tù hay ra tòa án.
Bởi vì người đời thường cho là "nhịn thì nhục", cho nên hể ai "cự
thì đục". Thế là sóng gió, thế là phiền não và khổ đau nối tiếp
theo sau đó.
- Nếu người nào
hiểu được là "nhịn chẳng có gì nhục, cự chẳng cần phải đục" thì
người đó sống cuộc đời an lạc và hạnh phúc không nghi. Chỉ e sợ
rằng chúng ta nhịn không nổi mà thôi, chứ có gì gọi là nhục đâu.
Chỉ vì tự ái quá cao, coi mặt mũi quá trọng, nên chúng ta phản ứng
mà chẳng kịp suy nghĩ đến hậu quả xảy ra sau đó.
- Thí dụ như có
người đến mắng chúng ta là đồ ngu như bò, chắc là chúng ta sẽ nổi
tức ngay. Như vậy là người đó nói đúng quá rồi, còn gì nữa mà đôi
co và cãi vã! Bởi vì nếu chúng ta thực sự không ngu và thực sự
không phải là con bò, thì cần gì phải tức giận cho mệt. Lời nói
của người đó không có nghĩa lý gì cả, cho nên chúng ta không cần
phải chấp làm gì. Được như vậy, chắc chắn chúng ta sẽ sống an lạc
và hạnh phúc ngay hiện đời, không nghi. Hơn nữa, lời chửi mắng
chỉ là chuyện nhỏ, còn những chuyện lớn hơn, chẳng hạn như bạn bè
chơi thân với nhau từ lâu, rồi sang đoạt tài sản, bản quyền sách
vở, rồi lại lôi đầu mình ra trước ba tòa quan lớn, thưa kiện cho
sạt nghiệp luôn, thì chúng ta mới phải đối phó sao đây, cư xử sao
đây, cho gọi là phải đạo?
- Trong kinh sách
có câu:
- "Bồ Tát sợ
nhân, chúng sanh sợ quả".
- Nghĩa là người
có trí tuệ bát nhã của bậc Bồ Tát, trước khi hành động, nói năng,
suy nghĩ, đều cân nhắc đắn đo hậu quả, còn phàm phu tục tử, muốn
làm thì làm, muốn nói thì nói, muốn nghĩ thì nghĩ, chẳng cần biết
đến hậu quả ra sao. Trong tam tạng kinh điển, Đức Phật có dạy: Tự
ái tức là chấp ngã, chấp ngã thì khổ đau. Muốn hết phiền não và
khổ đau thì phải đạt được "trạng thái vô ngã", đó là mục đích cứu
kính của đạo Phật. Muốn đạt được trạng thái vô ngã, chúng ta cần
phải tu học và hành trì trong một thời gian không ngắn! Đó chính
là tu tâm dưỡng tánh vậy.
- Chấp ngã nghĩa
là gì? Chấp ngã tức là "chấp cái ta" là thiệt, là ngon lành, hể
ai đụng tới là ăn thua đủ ngay tức thì. Chúng ta có biết đâu rằng
"cái ta" ngon lành đó, chỉ gồm có cái xác thân hôi hám bằng xương
thịt, trong kinh sách gọi là thân tứ đại vì gồm có bốn chất là đất
nước gió và lửa, sẽ bị chúng ta bỏ lại trần thế ngay khi lìa đời.
Cát bụi sẽ trở về với cát bụi. Vậy cái gì là "ta" thực sự đây?
Có phải cái tâm suy nghĩ là "ta" chăng? Cũng không phải! Tại sao
vậy? Bởi vì cái tâm suy nghĩ lăng xăng, lộn xộn đó "tùy duyên mà
có", hết duyên thì lặng mất, cho nên đó chỉ là "vọng tâm", tức là
cái tâm vọng động mà thôi, đâu phải thực là "ta". Nếu đó là "ta",
thì chẳng lẽ, "ta" lúc có lúc không, lúc còn lúc mất?
- Trong Kinh Thủ
Lăng Nghiêm, Đức Phật có dạy:
- "Sanh diệt ký diệt.
Tịch diệt hiện tiền".
- Nghĩa là khi
vọng tâm sanh diệt lặng mất rồi, tức là tâm trạng lúc có lúc không
lắng hết, thì cảnh giới tịch diệt, tức là chơn tâm hiện tiền.
Chơn tâm là một tên gọi khác của Phật Tánh. Chúng ta có thể ví dụ
mặt biển lúc yên lặng, bình thản, im sóng lặng gió như là chơn
tâm. Lúc có gió thổi đến, gió nhẹ sóng nhỏ, gió lớn sóng to. Ví
như vọng tâm điên đảo, nổi sóng tham lam, giận tức, ngu si, khi
đáp ứng với những ngọn gió của đời sống, như bị dụ dỗ danh lợi, bị
chửi mắng nhục mạ, bị chọc tức trêu gan, bị khen chê phê phán, bị
suy sụp cơ nghiệp.
- Nói một cách
khác, mặt biển tùy gió mà nổi sóng.
- Tâm của chúng
ta cũng vậy, tùy duyên mà sanh khởi những tạp niệm, sanh khởi
những vọng niệm xấu xa ích kỷ, lợi mình hại người.
- Mặt biển tượng
trưng cho tâm thể thanh tịnh của chúng ta, trong kinh sách gọi là
Chân Tâm hay Phật Tánh.
- Tu tâm dưỡng
tánh nghĩa là làm sao sửa đổi, chừa bỏ những những tâm niệm trên
đây, làm sao khi có gió thổi đến, mà mặt biển tâm thanh tịnh của
chúng ta không một chút xao động, không một chút gợn sóng, tức là
chúng ta đã đạt được mục đích cứu kính của Đạo Phật rồi. Đó mới
thực là một người chơn chính tu theo đạo Phật, mới thực sự là một
Phật Tử thuần thành, dù là tại gia cư sĩ hay xuất gia tu sĩ.
Ngược lại, đó chỉ là hình tướng bên ngoài không hơn không kém mà
thôi.
- Tục ngữ Pháp có
câu: "L?habit ne fait pas le moine", tức là: "Chiếc áo cà sa không
tạo ra người tu sĩ", chính là nghĩa đó vậy.
- Tục ngữ Việt
Nam ta có câu:
- Thứ nhứt tu tập
tại gia.
- Thứ nhì tu chợ,
thứ ba tu chùa.
- Nghĩa là tu tập
tại gia là việc dễ nhứt, bởi vì trong gia đình toàn là những người
thân thương, nên mọi việc đều được cảm thông dễ dàng hơn, dễ tha
thứ hơn, dễ bỏ qua những lỗi lầm sai trái. Kế đến, khi ra chợ làm
ăn buôn bán, mà muốn tu thực là khó, bởi vì gặp những người ở
ngoài chợ, phần đông người lạ, ý kiến tánh tình, mỗi người mỗi
khác, biết đâu mà lường, làm dâu trăm họ, làm sao tu được? Vào
chùa tu lại càng khó hơn, bởi vì giới luật nhà chùa, khắc khe
nghiêm ngặt, thường bị kiểm soát, canh chừng nhắc nhở, mất hết tự
do.
- Tuy nhiên, có
người giải thích khác hơn như sau: Tu tập tại gia là việc khó khăn
nhứt, bởi vì người trong gia đình quá quen thuộc, cho nên lờn mặt,
khó tu khó sửa, không người nhắc nhở, khuyến khích tu tập, bụt nhà
không thiêng. Hơn nữa tại gia, đủ thứ cám dỗ, đủ thứ phiền não,
khổ đau cuộc đời, bận rộn suốt ngày, không có thời giờ, làm sao tu
được? Tu chợ thì ít khó hơn, bởi vì mỗi ngày chỉ đi chợ vài tiếng
đồng hồ là nhiều, có khi mỗi tuần chỉ đi chợ một lần, chuyện gì tu
được thì tu, chuyện gì tu không được thì thôi! Tu ở chùa là dễ
dàng nhứt, bởi vì không phải lo chuyện sinh nhai, không ai dám xúc
phạm, không bận rộn chuyện thế gian, có thầy lành bạn tốt sách tấn
đồng tu.
- Vậy quan niệm
nào mới thực là đúng? Câu trả lời tương đối là: "tùy duyên", tức
là tùy người, tùy hoàn cảnh, tùy địa phương, tùy pháp môn, tùy
thời đại, tùy giáo phái, tùy nhiều điều kiện, không có gì nhứt
định đúng hoàn toàn cả! Bất cứ hoàn cảnh nào, dù dễ hay khó,
người nào tu được, người đó an lạc, chung quanh hạnh phúc! Thực
là đơn giản!
- * * *
- Tóm lại, muốn
"tu tâm", nghĩa là chừa bỏ những tâm niệm xấu ác, bất thiện trên
đây, chúng ta cần phải "dưỡng tánh", nghĩa là nuôi dưỡng, phát
triển những đức tánh tốt đẹp thay thế, như là tánh từ bi hỷ xả,
tánh bình đẳng vô tư, tánh công minh chính trực, tánh nhẩn nhịn
nhu hòa, tánh trong sạch hiền lương, tánh siêng năng tinh tấn,
tánh kiên trì bền chí. Những đức tánh tốt đẹp này thay thế những
tâm niệm bất thiện, lăng xăng lộn xộn, lâu ngày giúp chúng ta giác
ngộ, và chuyển hóa vọng tâm thành chơn tâm, tức là chúng ta đã
giải thoát khỏi sanh tử luân hồi.
- Tất cả mọi
người đều cần phải biết tu. Con người có tu mới được an lạc, tự
tại và giải thoát. Gia đình có tu mới được hạnh phúc. Nhân loại có
tu mới thanh bình. Chúng ta cũng biết cuộc đời khổ đau, bất trắc,
hay an vui, sung sướng, là quả báo từ nhiều đời nhiều kiếp trước,
do "chính chúng ta đã làm", đúng theo luật nhân quả. Chúng ta đã
tạo "nhân" nào trước đây thì nay chúng ta nhận "quả", kết quả hay
hậu quả, tương ưng đó vậy. Chúng ta nên nhớ chư Phật và chư vị tu
hành đắc đạo cũng không ra ngoài luật nhân quả. Các Ngài chỉ ra
ngoài vòng sanh tử luân hồi nhờ biết tu theo lời chư Phật dạy,
đúng Chánh Pháp, nên thoát khỏi mọi khổ đau, mọi ràng buộc của
cuộc đời.
- Vậy, nếu muốn
khỏi khổ đau, muốn được an vui, chúng ta hãy phát tâm "tu" ngay từ
giờ phút này. Nếu muốn tu hành đúng Chánh Pháp, chúng ta phải
phát tâm cầu học Phật Pháp một cách mãnh liệt. Chỉ có cách đó mới
có thể giúp chúng ta giác ngộ và giải thoát mà thôi. Chúng ta hãy
tự kiểm điểm, xem mình thuộc hạng nào sau đây: Nếu chúng ta thuộc
hạng đến với Phật để mong cầu bình an, van xin điều nọ điều kia,
thì hãy nên thức tỉnh, can đảm chuyển hướng tu hành để trở thành
người Phật Tử chơn chánh, tuy còn trong vòng sanh tử luân hồi,
nhưng cũng sống cuộc đời an lạc và hạnh phúc. Nếu chúng ta thuộc
hạng đến với Phật để tu học, để tu tâm dưỡng tánh, thì nên cố
gắng, nổ lực hơn nữa, để mọi sự xấu xa, phiền não đều tan biến,
tiến thẳng trên đường giác ngộ và giải thoát, thoát ly khỏi vòng
sanh tử luân hồi.
- Toàn thể chúng
ta đều muốn là người chánh tín, không ai muốn là hạng người mê tín
dị đoan, phải biết ứng dụng Chánh Pháp để chuyển hóa cuộc đời
mình, bớt khổ thêm vui, thực sự đem ngọn đuốc Chánh Pháp soi sáng
đời mình, ra khỏi đêm tối vô minh.
- Sau hết, chúng
ta cần nhớ lại lời chư Tổ đã dạy:
- Tu mà không
học, đúng là tu mù.
- Học mà không
tu, đúng là tủ sách.
- Kính chúc quí
vị, nhờ học hiểu Phật Pháp, biết tu tâm dưỡng tánh nên tạo được
cảnh giới niết bàn, hưởng sự an lạc và hạnh phúc ngay hiện đời,
giải thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi, không phân biệt là tại gia
cư sĩ hay xuất gia tu sĩ.
--o0o--
|
|