-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Cư Trần Lạc Ðạo
-
(Trọn bộ 3 tập)
-
Toronto, Canada
1999 - PL 2543
- ---
o0o ---
-
-
Tập 3
-
- [19]
TỨ NHIẾP PHÁP
- ***
- Trong vô lượng pháp môn
tu theo đạo Phật, không pháp môn nào không nhằm "mục đích lợi
sanh". Hạnh lợi sanh luôn luôn là hạnh chủ yếu của mười phương
chư Phật, chư vị Bồ Tát thị hiện ra đời, thực hành, để đem lại ích
lợi, đem lại lợi lạc, cho tất cả chúng sanh.
- Cho nên, trong tất cả
phương tiện giáo hóa, khuyến tu, chúng ta cần tìm hiểu một cách
tường tận pháp môn gọi là "Tứ Nhiếp Pháp". Ðó là pháp môn thực
hành để dẫn dắt chúng sanh tồi tà phụ chánh, tức là bỏ việc gian
tà sai trái, theo đường ngay lẽ phải, đi vào chánh đạo. Tứ nhiếp
pháp là pháp môn nhiếp hóa chúng sanh, căn cứ vào lòng từ bi để
khuyến hóa chúng sanh bỏ tà theo chánh, có công năng nhiếp phục và
giác ngộ chúng sanh.
- * * *
- Tứ nhiếp pháp gồm bốn
điều là: bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự. Pháp môn này không
những dành cho Phật Tử xuất gia là các bậc tu sĩ, hay dành cho các
Phật Tử tại gia cư sĩ, mà bất cứ ai cũng có thể áp dụng, tu tập,
thực hành, để có cuộc sống an lạc và hạnh phúc hiện đời, để được
giác ngộ và giải thoát. Tứ nhiếp pháp có giá trị cao đẹp, biểu lộ
ý chí cao thượng của chư Phật, chư Bồ Tát.
- I.- trước hết là bố
thí. Bố thí có nghĩa là cho một cách rộng rãi. Cho một cách
rộng rãi có hai nghĩa: một là, cho tất cả mọi thứ đến tất cả mọi
người và hai là, cho với tất cả tấm lòng rộng rãi, bất tùy phân
biệt. Tại sao chúng ta phải tu hạnh bố thí? Tu hạnh bố thí là để
kiến tạo một kho tàng phước báu, là tu tập nghiệp lành. Phước báu
có công năng tiêu trừ đau khổ, làm cho tâm trí được an vui, thảnh
thơi, hạnh phúc. Tu hạnh bố thí được người đời thương mến, dễ thu
phục lòng người, phát triển lòng từ bi. Bố thí là gốc rễ của tất
cả các thiện pháp. Bố thí là pháp tu mà những người kém phước đức
và trí huệ cần noi theo. Chư vị hiền thánh nhơn kim cổ đều trải
qua các hạnh tu bố thí.
- Chúng ta sống trên thế
gian này gặp nhiều phiền não và khổ đau từ nhiều nguyên do, trong
đó lòng tham lam là yếu tố hàng đầu. Do lòng tham lam, con người
không bao giờ thấy đủ. Có được chín đồng thì con người cố kiếm cho
đủ mười đồng, nói rằng để dành khi hữu sự cần dùng, hay để dưỡng
lão mai sau. Ðến khi có được chín trăm ngàn thì con người vẫn cố
làm việc, cố dành dụm, cố đấu tranh, cố giành giựt, bất chấp thủ
đoạn, để có nhiều thêm nữa, dù rằng lúc đó tuổi tác đã già nua,
gần đất xa trời. Ðó là lòng tham tiền tài, lợi lộc.
- Lòng tham danh, háo
danh cũng thúc đẩy, sai khiến nhiều ông bà già tiếp tục bon chen
trên đường đời, tiếp tục giở những thủ đoạn bất chánh, những tuyệt
chiêu điêu luyện, những kinh nghiệm hại người, để đoạt cho kỳ
được, giữ cho thực lâu các chức vụ hay danh vị nào đó trong các tổ
chức bất vụ lợi trá hình, đôi khi đó chỉ là các chức dõm, danh
hàm, danh hão mà thôi, chẳng có chút giá trị nào cả. Lòng tham
lam luôn luôn thúc đẩy con người đấu tranh, giành giựt, bất chấp
thủ đoạn, thì làm sao cuộc sống thực sự được an lạc và hạnh phúc?
- Người biết tri túc,
biết an phận với những gì đang có, biết cần kiệm, biết sống một
cuộc sống đơn giản, an nhàn, trong sạch là người được an lạc và
hạnh phúc lớn nhất. Nếu chúng ta không có những gì mình thích thì
chúng ta hãy thích những gì mình đang có. Ðược như vậy thì cuộc
đời đâu còn gì gọi là khổ đau.
- Trong Kinh Di Giáo, Ðức Phật có
dạy:
- Tri túc chi
nhơn tuy ngọa địa thượng du vi an lạc.
-
Bất tri túc giả thân xử
thiên đường diệc bất xứng ý.
- Nghĩa là: Người biết
thế nào là đủ, tuy nằm trên đất cũng thấy an vui, lạc thú. Người
không biết thế nào là đủ, tuy thân ở trên cảnh giới thiên đường,
tâm ý vẫn không thỏa mãn!
- Sách cũng có câu:
- Tri túc tiện
túc đãi túc hà thời túc.
- Tri nhàn tiện
nhàn đãi nhàn hà thời nhàn.
- Nghĩa là: Người biết
thế nào là đủ thì tức thời thấy đủ, biết thế nào là nhàn thì tức
thời thấy nhàn. Như vậy "cái đủ, cái nhàn" thực ra rất cần thiết,
rất quan trọng cho cuộc đời, nhưng chúng ta không bao giờ đạt được
"cái đủ, cái nhàn", nếu không có "biết đủ, biết nhàn". Bởi vậy,
cho nên Ðức Phật dạy pháp bố thí, để dẹp bớt lòng tham lam, đòi
hỏi, bỏn sẻn, keo kiệt, bần tiện của con người. Pháp bố thí gồm
có ba thứ: "tài thí, pháp thí, vô úy thí".
- 1) Về tài
thí có hai phần: ngoại tài thí và nội tài thí. Chúng ta có
thể cho những gì bên ngoài thân thể, như là tiền bạc, của cải, cơm
gạo, quần áo, thuốc men, vật chất nói chung, gọi là "ngoại tài
thí". Khi thực hành ngoại tài thí, chúng ta cần chú ý các yếu tố
đúng người, đúng thời và đúng lượng. Chẳng hạn như người nào cần
tiền bạc, chúng ta giúp tiền bạc; người nào cần thuốc men, chúng
ta giúp thuốc men và chỉ giúp lúc cần thiết với số lượng hợp tình,
hợp lý mà thôi. Nhiều khi giúp đỡ tiền bạc quá nhiều, có thể làm
cho người nhận sanh tâm ỷ lại, sanh lòng lười biếng, không thích
làm việc, không thích chịu cực, không kham nỗi những khó khăn
trong cuộc sống. Nhiều khi giúp đỡ tiền bạc đưa đến chuyện hại
người nếu chúng ta không biết người nhận xử dụng số tiền đó với
mục đích sai lạc, mục đích xấu.
- Chúng ta có thể đem
cho những gì thuộc về thân thể, thân mạng của mình, hoặc các bộ
phận trên cơ thể như là mắt, tim, gan, phèo, phổi, gọi là "nội tài
thí". Ðiều này, khi còn sống thì khó thực hiện được, nhưng chúng
ta có thể làm được khi vừa mới tắt thở. Có rất nhiều người không
theo đạo Phật, không hiểu giáo lý đạo Phật, nhưng họ đã ký sẵn
giấy cam đoan cho các bộ phận trên cơ thể của họ hoặc cho luôn
thân xác của họ, cho bất cứ ai cần đến, hoặc cho các viện y khoa,
để giải phẩu nghiên cứu, học hỏi, tìm hiểu, ngay khi họ vừa mới
tắt thở.
- Ðiều này giúp chúng
ta hiểu rằng, trong tận cùng thâm tâm của mỗi con người,"thiện
tâm" đều giống nhau, ai ai cũng có, không phân biệt con người theo
bất cứ tôn giáo nào trên thế gian này.
- Ngày nay chúng ta ít
người thực hành nổi hạnh bố thí thân mạng như người xưa. Tuy
nhiên, chúng ta có thể dùng thân mạng để làm những việc ích lợi
cho người, như công quả trong chùa, góp công sức trong các cuộc
lạc quyên cứu giúp người gặp nạn bão lụt, gặp hỏa hoạn. Thực ra,
từ xưa đến nay, có biết bao nhiêu người xả thân cứu người, nhiều
khi gặp hiểm nguy đến tánh mạng. Ðó cũng gọi là "nội tài thí".
-
2) Về pháp thí có
hai nghĩa: một là, đem cho tất cả mọi việc, đem cho tất cả các
pháp trên thế gian này và hai là, cho giáo pháp của Phật, còn gọi
là Phật Pháp. Chúng ta có thể cho tất cả những gì khác, không
thuộc phần nội tài thí và ngoại tài thí nói trên. Chẳng hạn như
chúng ta có sở học, có tài năng, có kiến thức, có sự hiểu biết về
một vấn đề nào đó, về một phương diện nào đó, về một ngành nghề
nào đó, chúng ta có thể đem ra chỉ bảo, hướng dẫn, truyền dạy,
giúp đỡ cho người, một cách bất vụ lợi, không mong cầu báo đáp,
không kể lể ơn nghĩa. Việc này bất cứ ai cũng có thể làm được,
không tốn đồng xu cắc bạc, chỉ cần tấm lòng vị tha, chỉ cần tấm
lòng "vì người quên mình" mà thôi.
- Ðối với hàng tu sĩ
xuất gia hay cư sĩ tại gia có học hiểu giáo pháp của Phật, đem ra
giảng giải cho mọi người được biết để áp dụng, để xây dựng cuộc
sống an lạc và hạnh phúc hiện đời. Theo nghĩa này, pháp thí là
điều quan trọng hơn cả. Tại sao vậy? Bởi vì khi chúng ta
giúp người về vật chất, như tiền bạc, cơm gạo, có thể làm cho
người được qua cơn khó khăn trong ngắn hạn, trong một thời gian
nào đó mà thôi. Khi chúng ta giúp người về tinh thần, như dạy
chữ, chỉ dạy nghề, hướng dẫn cách sống đúng phép vệ sinh chẳng
hạn, có thể làm cho người được qua cơn khó khăn trong một thời
gian nào đó, thậm chí có thể giúp họ sống còn, sống khỏe một đời
này mà thôi.
- Còn nếu chúng ta có
học hiểu giáo pháp của Ðức Phật, còn gọi là Phật Pháp, đem ra
giảng giải cho mọi người được biết, để áp dụng trong cuộc sống,
thì có thể giúp con người được an lạc và hạnh phúc ngay hiện đời,
ngay kiếp này, cao hơn nữa là giúp con người được giác ngộ và giải
thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi khổ đau vĩnh viễn muôn kiếp. Bởi
vậy, cho nên Ðức Phật dạy hàng Phật Tử tại gia "pháp cúng dường"
chư Tăng Ni, để các vị xuất gia yên tâm tu hành, không phải lo
chuyện sinh sống, chuyên tâm nghiên cứu kinh điển, rồi đem ra
giảng giải cho mọi người biết, để tu hành theo đúng Chánh Pháp.
Pháp cúng dường như vậy là thanh tịnh nhất, dành cho các bậc chơn
tu thực học, thanh tịnh trang nghiêm. Ðó là một dạng khác của sự
bố thí.
- Tuy nhiên, không phải
giáo pháp luôn luôn cần hơn cơm gạo, hoặc ngược lại. Việc này
chúng ta gọi là "tùy duyên". Trong một buổi Ðức Phật thuyết pháp,
có một người nghèo khó đến dự. Ðức Phật liền bảo dọn cơm cho
người đó ăn trước, rồi mới giảng pháp cho nghe sau. Khi nghe xong
thời pháp đó, người nghèo khó ngộ đạo, chứng ngay quả dự lưu tu đà
hoàn. Do đó, ngày nay chúng ta có câu: "Có thực mới vực được
đạo". Nghĩa là phải được tạm no lòng thì mới hy vọng hiểu được
đạo lý cao siêu. Chúng ta không thể đem giáo pháp cao siêu ra
giảng dạy cho những người đang đói khổ, đang cần cơm gạo trước
hết. Cũng như không thể đem giáo pháp cao siêu dạy ngay cho người
sơ cơ, mới học đạo. Nhu cầu tại thế gian của con người đi từ vật
chất đến tinh thần, rồi sau đó mới bàn đến chuyện tâm linh xuất
thế gian.
- 3) Về vô úy
thí thì có nhiều nghĩa rộng rãi,
cao siêu hơn. Vô là không, úy là sợ, thí là cho. Vô úy
thí là đem cho sự không sợ hãi. Hay nói cách khác, vô úy thí là
làm sao giúp đỡ cho con người bớt sự lo lắng, sợ sệt, sợ hãi, hay
phiền muộn. Vô úy thí có nghĩa là giúp người qua cơn sợ hãi mọi
thứ, bớt sự lo lắng mọi điều trong tâm trí trong các biến cố,
trước các điều hiểm nguy, và còn có nghĩa là chúng ta không nên
gây não phiền, không nên gây bực dọc cho bất cứ ai, khiến họ được
an vui, yên ổn.
- Con người sống trên
thế gian này có rất nhiều điều lo âu, sợ hãi hay phiền muộn. Nào
là sợ thiếu tiền, sợ thiếu ăn, sợ thiếu mặc, sợ bệnh hoạn, sợ
thiên tai, sợ mất công ăn việc làm, sợ mất hạnh phúc gia đình, sợ
đủ mọi thứ chuyện trên trần đời. Nhưng nỗi lo sợ lớn nhất của con
người, chính là sợ chết!
- Tự cổ chí kim, từ
người nghèo hèn cho đến người sang trọng, từ người bình dân cho
đến người học thức, từ người trẻ cho đến cụ già, từ người thường
dân cho đến vua quan hay hàng quí tộc, từ giới phàm phu tục tử cho
đến các bậc hiền triết thánh nhơn, nào có ai tránh được cái chết
đâu, mặc dù con người vốn tham sinh úy tử, tức là ham sống sợ
chết!
- Con người thường hay
nghĩ "đời còn dài", cho nên chỉ bận tâm đến chuyện mưu sinh,
chuyện tranh danh đoạt lợi, chuyện đấu tranh tranh đấu, chuyện hơn
thua, thị phi, đúng sai, phải quấy, đủ thứ chuyện linh tinh lang
tang. Ðến khi sắp từ giã cuộc đời mới giựt mình tỉnh giấc thì đã
quá muộn màng. Thực ra, con người có thể chết bất cứ lúc nào, bất
cứ cách nào, bất cứ nơi nào. Còn đối với sự sợ chết, chúng ta
khuyến hóa mọi người tu hành, phát tâm tìm hiểu đạo lý và cầu đạo
giác ngộ giải thoát. Tại sao vậy? Bởi vì chỉ có giáo pháp của
Ðức Phật mới có thể chỉ bày cho con người hiểu rõ ràng, tường tận
"pháp vô sanh", tức là chỉ dạy đường lối tu hành để giác ngộ và
giải thoát, không còn sanh phiền não và khổ đau, không còn sanh tử
luân hồi nữa, chứ đạo Phật không phải chỉ có các hình thức cúng
kiến, lễ nghi, cầu nguyện mà thôi.
- Thực hành hạnh vô úy
thí còn có nghĩa là giúp chúng sanh khắc phục tư tưởng sợ hãi,
khiếp nhược yếu hèn, tự ti mặc cảm, giúp chúng sanh hiểu được điều
Ðức Phật giác ngộ dưới cội cây bồ đề và giảng dạy khắp tam tạng
kinh điển.
- Ðiều đó chính là:
- Tất cả chúng
sanh ai ai cũng đều có Phật Tánh như nhau, tất cả đều bình đẳng,
và tất cả chúng sanh đều sẽ thành Phật, giải thoát mọi khổ đau
phiền não, nếu biết tu tập, thực hành đúng Chánh Pháp.
- Trong các kinh điển
Phật giáo, đó là bốn bước: khai, thị, ngộ, nhập. Nghĩa là Ðức
Phật khai mở cánh cửa giải thoát; chỉ thị cho con người thấy được,
hiểu được "pháp vô sanh", đó là cái "bất sanh diệt", đó là "con
người chân thật" của tất cả chúng ta, chứ không phải cái xác thân
giả tạm đang có; giúp cho con người làm sao giác ngộ được "pháp vô
sanh" và cuối cùng chỉ dạy đường lối tu hành làm sao chứng nhập
được "pháp vô sanh" đó.
- Con người sở
dĩ sợ chết, bởi vì con người sợ mất cái thân tứ đại mấy chục ký lô
giả tạm này, mà không hề biết mình có cái không hề chết, không hề
bị tiêu diệt mất, đó chính là "con người chân thật bất sanh
diệt" của tất cả chúng ta vậy.
- Chúng ta biết rằng khi
thọ hưởng một tài sản hay của cải, vật chất nào, không nên chỉ
dùng cho riêng mình. Chúng ta nên bố thí ra, chia xẻ với mọi
người, để tạo an vui lợi ích cho những người chung quanh và cũng
tạo an vui ích lợi cho chính chúng ta nữa. Cái gì chúng ta ăn,
chỉ được nhứt thời. Cái gì chúng ta tích trữ, dành dụm, chỉ được
nhứt đời mà thôi, chắc chắn chúng ta sẽ bỏ lại tất cả khi ra đi.
- Nhưng những gì
chúng ta cho ra, những gì chúng ta bố thí, sẽ trở lại với chúng
ta, dưới dạng quả báo lành, sự bình an, sự may mắn, còn gọi là
phước báo, giúp chúng ta được tai qua nạn khỏi.
- Nói cách khác, cái gì
chúng ta đã tiêu xài, bây giờ không còn nữa. Cái gì chúng ta đã
mua sắm, bây giờ phải để lại cho người khác, một khi ra đi. Chỉ
có cái gì chúng ta "đã cho, đã bố thí" là vẫn còn "thuộc về chúng
ta" khi từ giã cõi đời. Ðó chính là nghiệp lành, là phước báo, là
quả báo tốt, là sự may mắn, là sự bình yên, là an lạc và hạnh
phúc, tất cả luôn luôn theo cùng với chúng ta như hình với bóng.
Danh ngôn Tây Phương cũng có câu: "If you continually give, you
will continually have".
- Trong Kinh Ðịa Tạng,
phẩm thứ mười, khi Bồ Tát Ðịa Tạng từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay
cung kính và bạch Phật rằng:
-
- Bạch Ðức Thế Tôn, con xem
chúng sanh trong nghiệp đạo, so sánh công đức bố thí, hiệu quả có
sự nhiều ít khác nhau, có người được hưởng phước một đời, có người
được hưởng phước mười đời, có người được hưởng phước hàng trăm,
ngàn đời, lợi lạc lớn lao. Tại sao như thế, cúi xin Ðức Thế Tôn từ
bi giảng trạch cho chúng con được biết.
- Ðức Phật dạy tóm lược
như sau:
-
- Bất cứ ai gặp những
người già yếu, bần cùng, hèn mạt, tàn tật, câm ngọng, đui mù, ngây
điếc, không được toàn vẹn, mà tự tay đem bố thí với lòng từ bi,
thương xót, dùng lời mềm mỏng an ủi họ tử tế, khiến cho họ được an
ổn, vui vẻ, thì được hưởng phước báo vô lượng.
-
- Tuy nhiên, nếu làm được
những việc thiện như thế mà đem hồi hướng cho khắp pháp giới chúng
sanh thì những người làm công đức ấy được hưởng những sự vui sướng
nhiệm mầu hàng trăm ngàn đời, nếu đem công đức ấy hồi hướng cho
quyến thuộc nhà mình, hay muốn tự mình hưởng những lợi ích, thì ba
đời được vui vẻ, làm một phần thì được hưởng vạn phần.
- Tại sao vậy? Bởi vì
những người làm công đức đó đã phát lòng đại từ, đại bi, lại phát
tâm rộng lớn, đem "hồi hướng" cho khắp pháp giới chúng sanh, không
cứ công đức ít nhiều, không dành riêng cho mình và người thân của
mình, đó chính là những người đã "diệt được lòng tham", cho nên
được sự "giải thoát hoàn toàn", cho nên được hưởng quả "phước báo
lớn lao" như vậy. Còn người nào chỉ phát tâm hạn hẹp, đem công
đức ấy hồi hướng cho người thân hay cho chính mình mà thôi, thì sẽ
được hưởng quả phước báo hạn chế hơn, tùy theo tâm lượng còn nhỏ
hẹp của chính mình.
- Trong Kinh Kim Cang,
Ðức Phật cũng có dạy:
-
- Nhược bồ tát ư pháp,
ưng vô sở trụ hành ư bố thí. Sở vị bất trụ sắc bố thí, bất trụ
thanh, hương, vị, xúc, pháp, bố thí. Bồ tát ưng như thị bố thí,
bất trụ ư tướng.
- Nhược bồ tát
bất trụ tướng bố thí, kỳ phước đức bất khả tư lượng.
- Nghĩa là nếu chúng ta
không chấp bốn tướng: ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả, và không
chấp sáu trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, mà thực hành hạnh
bố thí, thì phước đức không thể nghĩ, không thể lường được.
- Không chấp bốn
tướng: ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả, có nghĩa là: khi thực
hành hạnh bố thí, chúng ta không nên thấy có mình là người cho, để
cầu mong được báo đáp, được cám ơn, được tán thán; chúng ta không
nên thấy có người nào là kẻ nhận sự bố thí đó, để kể lể chuyện ơn
nghĩa; chúng ta không nên thấy có bao nhiêu người đã nhận sự bố
thí đó, để khoe khoang, và chúng ta cũng không nên thấy có vật gì,
điều gì đã được đem cho, để khỏi tiếc nuối về sau, có khi tiếc
của, đi đòi lại! Nếu được như vậy, sau khi thực hành hạnh bố thí,
chúng ta sẽ an trụ được tâm của chúng ta. Chúng ta sẽ không bực
dọc khi gặp những người bội bạc, không biết ơn, thậm chí còn trở
mặt với chúng ta nữa. Lòng từ bi của chúng ta sẽ không bị hạn
chế, nếu không còn nhớ là đã bố thí bao nhiêu tiền của, đã bố thí
cho bao nhiêu người, đã dành bao nhiêu thời giờ để làm hạnh bố thí
đó.
- Muốn hàng phục được
tâm ý của chính mình, chúng ta phát nguyện độ tất cả chúng sanh,
mà không thấy có chúng sanh nào được độ. Bố thí xong rồi thì
thôi, đừng nhớ nghĩ gì nữa. Khi chúng ta xả bỏ được hết tất cả
vọng niệm, các tạp niệm, để an trụ tâm, để thanh tịnh tâm, tức là
chúng ta đã thực hành được hạnh bố thí ở mức độ cao nhất, mà ít
người hiểu được. Hàng phục được tâm ý của chính mình thì mau tiến
đến chỗ giải thoát. Cho nên Ðức Phật dạy: thực hành được hạnh bố
thí, thì phước đức không thể nghĩ, không thể lường được, chính là
nghĩa đó vậy.
- Không chấp sáu trần:
sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, có nghĩa là: khi thực hành hạnh
bố thí, chúng ta không chấp vào sắc tướng là tốt đẹp hay không tốt
đẹp, không chấp vào âm thanh dễ nghe hay khó nghe, không chấp vào
mùi hương dễ ngửi hay khó ngửi, không chấp vào mùi vị dễ nếm hay
khó nếm, không chấp vào xúc chạm dễ chịu hay khó chịu, không chấp
vào sự việc, ý tưởng vừa ý hay không vừa ý, thích hay không thích,
ưa hay ghét.
- Sở dĩ tâm ý của chúng
ta thường hay bất an, hay loạn động, bởi vì chúng ta thường hay
dính mắc với sáu trần. Hễ mắt thấy bất cứ sắc gì thì liền khởi
vọng niệm phê phán đẹp hay xấu, hễ tai nghe bất cứ tiếng gì thì
liền khởi vọng niệm phê phán dễ nghe hay khó nghe, hễ mũi ngửi bất
cứ mùi gì thì liền khởi vọng niệm phê phán dễ ngửi hay khó ngửi,
hễ lưỡi nếm bất cứ vị gì thì liền khởi vọng niệm phê phán ngon hay
dỡ, hễ thân xúc chạm bất cứ vật gì thì liền khởi vọng niệm phê
phán dễ chịu hay khó chịu, hễ ý nhớ tưởng bất cứ chuyện gì thì
liền khởi vọng niệm phê phán hài lòng hay bực bội. Cứ như thế,
tâm ý của chúng ta luôn luôn bất an, loạn động.
- Chúng ta thực hành
hạnh bố thí với tất cả tấm lòng rộng rãi, với tất cả tấm lòng vì
người quên mình, với tất cả tấm lòng từ bi, cung kính,
không cầu danh, không cầu báo đáp, không vì hơn thua, không vì mê
hoặc lòng người, không chọn lựa món xấu đem cho, món tốt giữ lại,
tức là không trụ sắc; cho rồi không cần nghe lời khen, tiếng cám
ơn, tức là không trụ thanh, v.v.. và của đem bố thí phải thanh
tịnh, chơn chánh; người nhận bố thí phải được tôn trọng, bình
đẳng. Ðó chính là sự bố thí thanh tịnh, trong sáng, bất tùy phân
biệt nam phụ lão ấu, tu sĩ hay người đời, đẳng thí vô sai biệt,
phổ đồng cúng dường, chư Phật chư hiền thánh, hạ cập lục đạo phẩm,
như vậy sẽ đem lại phước báo vô lượng, vô biên, cho nên được gọi
là "bố thí ba la mật".
- **
- II.- Sau bố thí là
ái ngữÁi ngữ là lời nói dịu dàng, êm ái, ngọt ngào,
. dễ nghe, phát xuất từ lòng từ bi, thương người như thể
thương thân, chứ không phải là lời nói đầu môi chót lưỡi, lời nói
hoa mỹ, khách sáo, cốt sao cho đẹp lòng người nghe.
- Ái ngữ có tác dụng đem
lại an vui, bình yên, thanh thản cho người nghe, có tác dụng an ủi
vỗ về những người đang bị nhiệt não, âu lo, sợ sệt.
- Sách có câu:
- Lời nói không mất tiền mua.
- Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.
- Trong cuộc sống trên
thế gian này, nếu mọi người đều nhớ nằm lòng câu trên đây, thì
cuộc đời hạnh phúc biết là bao nhiêu, dầu cù là và thuốc nhức đầu
chắc là không bán chạy! Trong gia đình, vợ chồng con cái, trên
thuận dưới hòa, không có tranh cãi, không có xào xáo. Trong xã
hội, không có chuyện mất trật tự, an ninh vì những cuộc cãi vã,
đưa đến ấu đả và án mạng có thể xảy ra. Trong quốc gia, hòa bình
chắc chắn được bền vững, lâu dài.
- Chúng ta cũng biết
rằng, ngoài danh và lợi, trên thế gian này con người thường hay
tranh chấp vì lời nói. Hai người nói chuyện với nhau một lát mà
không biết nhường nhịn nhau, tương nhượng nhau, thì hay đưa tới
tranh cãi.
- Bởi vậy cho nên, chư Tổ có dạy:
-
Nội cần khắc niệm chi công.
- Ngoại hoằng bất
tranh chi đức.
- Nghĩa là: Bên trong
chúng ta cần luôn luôn khắc chế, khắc phục tâm niệm lăng xăng, lộn
xộn, đó chính là công phu tu tập của người Phật Tử. Bên ngoài,
chúng ta luôn luôn giữ hạnh nhẫn nhịn, không tranh cãi, dù chuyện
lớn chuyện nhỏ cũng vậy, đó chính là đức độ của của người Phật Tử
chúng ta vậy.
- Lời nói đôi khi có
những tác dụng không thể lường trước được. Có những lời nói có thể
đem lại an vui, hạnh phúc cho người. Có những lời nói có thể đem
lại ly tán, đổ vỡ hạnh phúc của người khác, đôi khi tan nát hạnh
phúc của chính người nói nữa. Có những lời nói làm cho người nghe
mỉm một nụ cười tươi tắn, vui vẻ, khỏe khoắn. Có những lời nói làm
cho người nghe ngất xỉu, hay đau đầu, nhức óc, nhói tim, mất ngủ,
hay ít ra cũng phải đi xức dầu cù là! Có những lời nói có thể cứu
người, cũng có những lời nói có thể hại người một cách dễ dàng.
- Thí dụ như lời nói của
một luật sư có lương tâm có thể cứu một bị cáo thoát khỏi tội oan,
hoặc lời nói của một nhân chứng trước tòa, ngay hoặc gian, có thể
làm cho người khác phải bị tù tội. Một vị bác sĩ khéo lựa lời
nói, khuyến khích, khuyên lơn, an ủi, động viên tinh thần, có thể
giúp bệnh nhân yên tâm dưỡng bệnh, chóng qua cơn hiểm nghèo, sớm
được bình phục; bằng như ngược lại, lời nói của vị bác sĩ có thể
làm cho bệnh nhân tắt thở ngay tức thì.
- Cũng như lời nói của
các nhà ngoại giao, của các sứ thần, của các sứ giả có thể đem lại
hòa bình giữa hai nước, hoặc làm cho chiến tranh lan tràn khắp mọi
nơi. Nhiều khi lời nói của một người có sức mạnh hơn cả một sư
đoàn quân đội. Con người có thể thương yêu súc vật như chó, mèo,
chim chóc chẳng hạn, nhưng lắm khi không thể chịu đựng được, nhịn
được người chung quanh, chỉ vì lời nói của người đó. Tại sao
vậy? Bởi vì súc vật không biết nói tiếng người, cho nên không bị
mích lòng! Người đời thường nói: hai con gà ghét nhau vì tiếng
gáy, hai con chó ghét nhau vì tiếng sủa. Hai cô ca sĩ có bao giờ
thương nhau!
- Có câu chuyện của hai
con chim như sau: Một hôm con chim cú vọ sửa soạn dọn tổ sang nơi
khác. Con chim bồ câu thấy vậy bèn hỏi thăm: Chẳng hay chị dọn tổ
đi đâu vậy? Con chim cú vọ trả lời rằng: Con người nơi đây ác ôn
quá đi, cứ hễ thấy tôi nơi đâu, họ liền lấy đá ném, lấy cây đánh.
Tôi không chịu nổi, định dọn qua phương tây, hy vọng bên đó dân
chúng hiền lành hơn. Con chim bồ câu bèn nói: Ở chỗ hàng xóm thân
tình, tôi nói thiệt chị nghe, chị đừng giận tôi nhé. Nếu chị không
chịu sửa tiếng kêu ghê rợn khó nghe của chị, thì dù dọn đi đến
đâu, chị cũng bị bạc đãi mà thôi.
- Bởi vậy chúng ta mới
biết giọng nói, tiếng cười có khi gây được cảm tình tốt đẹp, cũng
có khi gây nên ác cảm, oán thù giữa con người với nhau. Chỉ cần
lỡ một lời nói có khi hư hỏng việc lớn. Chỉ cần lỡ một lời có khi
bị vạ lây, thậm chí bị tù tội, chỉ vì người nghe không vừa tai,
cho nên đi tố cáo! Ðiều này cũng tùy người, tùy lúc và tùy cảm
giác của người nghe nữa. Sách có câu: "Hãy uốn lưỡi bảy lần trước
khi nói", chính là nghĩa đó vậy.
- Trong Kinh Pháp Cú,
Ðức Phật có dạy:
- Dù nói hàng
ngàn lời vô ích,
- không bằng chỉ
nói một lời đúng Chánh Pháp,
- có ích lợi làm
cho người nghe được an tịnh.
- Ở những xứ có nhiều
sắc dân khác nhau cùng chung sống. Người ta có thể không hiểu
người khác nói gì, vì bất đồng ngôn ngữ, nhưng người ta có thể
đoán được người khác muốn nói gì qua sắc mặt và giọng nói. Cho
nên sắc mặt và giọng nói của chúng ta cũng đóng một vai trò quan
trọng qua ngôn ngữ, trong các cuộc giao thiệp, tiếp xúc hằng ngày.
Một giọng nói êm ả, lễ độ, ngọt ngào, từ tốn, dễ thu phục lòng
người, hơn là giọng nói ồm ồm, chanh chua khế chát, the thé khó
nghe. Lời nói từ hòa, thân mật, thành thật, ngay thẳng, rõ ràng,
sáng suốt, rất dễ cảm hóa lòng người, có thể hướng dẫn người vào
chánh đạo.
- Sách có câu: "Nhất
ngôn ký xuất, tứ mã nan truy".
- Nghĩa là một lời nói
ra, bốn ngựa không thể đuổi theo kịp. Có những lời nói nhẹ tựa
lông hồng, có những lời nói nặng tựa núi non. Có những người nói
ra thì tất cả mọi người đều tin tưởng, nghe theo. Có những người
nói ra thì không một ai tin tưởng, nghe theo cả.
- Trong Kinh Hoa Nghiêm, Ðức Phật
có dạy:
- Không nên nói
lời vô nghĩa. Phải giữ gìn lời nói.
- Lời nói phải
chân thật, đúng lúc, hợp Chánh Pháp,
- ích lợi cho
mình cho người.
- Sửa đổi được lời nói,
sửa đổi được giọng nói, sửa đổi được cách nói, tức là chúng ta đã
đổi được tâm tánh, giảm bớt khẩu nghiệp, rất nhiều rồi vậy. Thực
hành được "ái ngữ" là chúng ta tăng trưởng tâm từ bi của chính
mình. Thực hành được "ái ngữ" là chúng ta dẹp được tâm sân hận,
tâm ganh ghét, tâm đố kỵ, tâm ganh tị, tâm hiềm khích, tâm tật đố,
tâm hơn thua. Thực hành được "ái ngữ" là chúng ta tu tập theo hạnh
nguyện đại từ đại bi của Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát, tầm thinh cứu khổ
chúng sanh. Chúng sanh đau khổ vì những lời nói của nhau. Thực
hành được "ái ngữ" là đem lại an lạc và hạnh phúc cho mọi người
chung quanh, đem nước cam lồ trong bình thanh tịnh của Ðức Quán
Thế Âm Bồ Tát, rưới vào những tâm hồn đang nhiệt não, rót vào tai
những người đang đang phiền muộn những âm thanh dịu dàng, êm ái,
có công năng chuyển hóa tâm hồn những con người đang khỗ não,
thành tâm hồn an vui, tự tại. Nói cách khác, người không có lòng
từ bi bác ái, không thể nào có "ái ngữ" được. Thực hành được "ái
ngữ" như vậy tức là chúng ta đang tiến trên đường giải thoát.
-
- * *
- III.- Sau ái ngữ là
lợi hành. Lợi hành là hành động có ích lợi cho người. Nếu
con người có lời nói dễ nghe ngọt ngào, có vẻ từ bi bác ái,
nhưng hành động không tốt, lợi- mình-hại-người, thì những lời nói
trên chỉ là thứ "miệng thì nói tiếng nam mô, bụng thì chứa cả một
bồ dao găm", hoặc là "năng thuyết bất năng hành", tức là nói được
mà chẳng làm được, mà thôi, không hơn không kém.
- Cổ nhơn có dạy:
- Những gì mình
không muốn người khác làm cho mình,
- thì mình đừng
làm cho người khác.
- Nghĩa là mình muốn
người khác hành động như thế nào có ích lợi cho mình, thì mình
phải nên hành động có ích lợi cho người như vậy.
- Thế nào là hành
động có ích lợi cho người? Ðó là hành động theo đúng lời Ðức Phật
dạy trong các kinh điển. Thí dụ như chúng ta khuyên người làm lành
lánh dữ, tụng kinh niệm Phật và chúng ta cũng hành động đúng y như
lời nói của chúng ta vậy. Khi nào lời nói và hành động của con
người nhất như, tương ưng, không khác, thì người đó đã có công phu
tu tập khá rồi, trong kinh điển gọi là "ngôn hạnh tương ưng".
- Sách có câu:
- Ðừng nghe những
gì người ta nói.
- Hãy nhìn những
gì người ta làm.
- Chỉ khi nào lời nói của chúng ta
đi đôi với hành động có ích lợi cho người về mọi phương diện thế
gian và xuất thế gian như trên, thì chúng ta mới nhiếp phục được
lòng người mà thôi, chứ nói lý thuyết suông, chẳng đem ích lợi
thiết thực gì cả.
- Thiện hữu tri thức là
người bạn hiền, có học hiểu giáo pháp, và biết khuyên bạn mình
hành động đúng như lời Ðức Phật dạy, chứ không phải hành động theo
những lời nói sai trái, xằng bậy, phi pháp. Lợi hành trong công
việc hằng ngày là hành động trực tiếp đem lại ích lợi cho chúng
sanh về vật chất và tinh thần. Nhưng lợi hành trong việc tu hành
là hành động giúp người tiến tu, trên đường học hiểu giáo pháp, để
áp dụng trong cuộc sống hằng ngày, cho đến khi đạt được giác ngộ
và giải thoát. Nói cách khác, lợi hành có nghĩa là chúng ta có
thể hành động ích lợi cho chúng sanh, ngay trong hiện tại, về vật
chất cũng như tinh thần, và hành động ích lợi cho chúng sanh,
trong tương lai gần, trong kiếp này, và tương lai xa, nhiều kiếp
về sau, qua hành động khuyến tu giải thoát.
-
- * * *
- IV.- cuối cùng là
đồng sự. Ðồng sự có nghĩa là cùng làm chung việc với người,
để giúp đỡ người và cảm hóa người theo lẽ phải, theo chánh đạo.
Thí dụ như muốn dạy người biết bơi, chúng ta phải xuống nước cùng
với họ, mới có thể chỉ dạy một cách dễ dàng, nhanh chóng và hữu
hiệu được. Chúng ta không thể đứng trên bờ quơ tay, quơ chân, la
hét, gào thét mà có kết quả như ý được đâu. Cũng như những vị chỉ
huy xuất thân từ hàng binh sĩ, những chủ nhân, cai thợ xuất thân
từ giới công nhân, thường thấu hiểu tâm tư, tình cảm, nguyện vọng,
cảm nghĩ, tâm lý, yêu cầu, đòi hỏi của cấp dưới, cho nên dễ dàng
thành công trong nghệ thuật lãnh đạo hơn, kết quả thường là khả
quan hơn, tốt đẹp hơn.
- Chư Tổ ngày xưa vì
muốn độ hạng người bần cùng trong xã hội, các Ngài cũng phải hòa
mình sống chung cuộc sống cực khổ với họ, mới có thể giáo hóa họ
được. Cho nên, những vị tu sĩ xuất gia từ lúc còn tấm bé, hay khi
còn là đồng nam, đồng nữ, thì rất đáng trân quí và có công phu tu
tập dài lâu hơn, nhiều năm tháng hơn, nhưng các vị xuất gia sau
khi trải qua nửa đời người với cuộc sống tại gia, thì có thể hiểu
được tâm lý của người Phật Tử tại gia hơn, cho nên dễ cảm thông
hơn, có thể dễ dàng hành đạo hơn, dễ dàng hoằng pháp lợi sanh
hơn. Nhưng điều này chỉ là tương đối, còn tùy người, tùy hoàn
cảnh, tùy sở học và hiểu giáo pháp, tùy căn cơ, tùy khả năng giảng
dạy và tiếp thu giáo pháp, tóm lại là "tùy duyên" mà thôi, "không
có gì cố định cả". Trong kinh điển, Ðức Phật dạy "quán các pháp
vô ngã", chính là nghĩa đó vậy.
-
- * * *
- Tóm lại, tứ nhiếp pháp
là một pháp môn rất cụ thể, rất thực tế, rất cần thiết, rất dễ áp
dụng, đúng với mọi hoàn cảnh, đúng với mọi nơi, mọi thời, mọi lứa
tuổi, mọi trình độ, hoàn toàn vì mục đích hoằng pháp lợi sanh. Ðó
là nền tảng của các nghiệp lành, nghiệp thiện, giúp con người sống
trong chánh đạo, dẹp bỏ được tam độc: tham lam, sân hận, si mê.
- Những người muốn có
cuộc sống thực sự an lạc và hạnh phúc hiện đời phải luôn luôn quán
tứ nhiếp pháp một các tường tận, sâu sắc và luôn luôn áp dụng tứ
nhiếp pháp trong cuộc sống hằng ngày, chắc chắn cuộc đời này sẽ
giảm bớt nhiều khổ đau và phiền não.
- Pháp môn này, nói
chung, mọi người ai ai cũng có thể thực hành được, nhưng muốn thực
hành cho đến mức độ cao thâm rốt ráo, trong kinh sách gọi là ba la
mật, thì chúng ta phải phát tâm bồ đề kiên cố, dũng mãnh, bất
thoái chuyển, tức là phát tâm lượng của các bậc Bồ Tát và Ðại Bồ
Tát vậy.
-
-
- --o0o--
-
|
|