-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Phật
Học Phổ Thông
- Khóa Thứ
Nhất
Nhân Thừa Phật Giáo
- --- o0o ---
- Bài Thứ 1
- Ðạo Phật
-
A-Mở Ðề:
-
Phật ra đời vì một nhân duyên lớn:
Khai thị chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến.
- Người đời
thường nói một cách hời hợt cho qua chuyện, "Ðạo nào cũng tốt!".
Lời nói ấy, hoặc vì xã giao để cho vui lòng khách, hoặc vì chưa
rõ bề mặt trong của các Ðạo khác nhau thế nào, nên mới ra như
thế. Thật ra về mục đích thì đạo nào cũng có giá trị của nó,
chẳng qua chỉ hơn nhau về từng bậc cao thấp mà thôi. Nhưng mục
đích tốt dù sao, cũng chưa đủ. Ðiều quan trọng là làm sao thực
hiện được mục đích ấy, và đem lợi ích rộng lớn cho đời. Thử hỏi
nếu đạo nào cũng có giá trị như nhau, thì sao trước đây 2500
năm, trong lúc xứ Ấn độ đã có 94 thứ đạo rồi, mà đức Phật Thích
Ca còn giáng sinh làm chi nữa?
- Chẳng qua các
Ðạo tuy nhiều, mà chưa được toàn "chơn, thiện, mỹ", nên đức Phật
mới ứng thân thị hiện, dạy cho chúng sanh đạo Vô Thượng Chánh
Ðẳng Chánh Giác, ngõ hầu giải thoát khỏi khổ sanh tử luân hồi,
được tự tại vô ngại như Phật. Kinh Pháp Hoa chép, "Vì một nhân
duyên lớn, Phật mới xuất hiện ra đời".
- Nhân duyên
lớn ấy là gì? Chính là: "Khai thị chúng sanh ngộ nhập Phật tri
kiến", để cho chúng sanh được nhờ đó mà đổi mê ra ngộ thấy tánh
tỏ tâm, vượt sống khỏi chết, lìa khổ được vui.
-
Ðịnh Nghĩa
1. Chữ Ðạo nghĩa là gì? Chữ đạo có ba nghĩa: Ðạo là con đường;
Ðạo là bổn phận; Ðạo là lý tánh tuyệt đối, là bản thể.
- a) Ðạo là
con đường, như người ta thường dùng trong những chữ: nhân
đạo, thiên đạo, địa ngục đạo, ngạ quỷ đạo, súc sanh đạo. Phàm là
con đường thì có tốt, xấu, có thiện, ác v.v...Theo đạo Phật, h
còn trong vòng đối đãi, thì không thể gọi hoàn toàn rốt ráo.
- b) Ðạo là
bổn phận, như người ta thường dùng những chữ: đạo vua tôi,
đạo thầy trò, đạo vợ chồng v.v...Phàm là bổn phận thì thường
chịu ảnh hưởng của phong tục hay tập quán. Phong tục và tập quán
của nước này không giống nước kia. Vì vậy, chữ Ðạo là bổn phận
cũng chưa đúng với nghĩa chữ Ðạo mà nhà Phật muốn nói.
- c) Ðạo là*
lý tánh tuyệt đối, là bản theă, nó lìa nói năng,
không thể nghĩ bàn. Ðức Lão tử nói: "Ðạo mà nói ra được, không
phải là đạo". Xưa có người hỏi một vị Tổ Sư: "Ðạo là gì?". Tổ sư
đáp: "Trước Phật Oai Âm Vương, không có tên Phật và chúng sanh,
lúc ấy chính là Ðạo".
- Chữ Ðạo của
nhà Phật chính là đồng nghĩa với bản thể vậy.
- 2. Chữ Phật
nghĩa là gì? Chữ Phật, nói cho đúng tiếng Phạn là Bouddha (Phật
Ðà). Người Trung Hoa dịch nghĩa là Giác Giả, (bực đã giác ngộ,
sáng suốt hoàn toàn). Giác có ba bực:
- a) Tự
giác: Nghĩa là tự giác ngộ hoàn toàn do phước huệ và công
phu tu hành, khác với phàm phu là những người còn mê muội, bị
luân hồi trong cõi trần lao, khổ hải.
- B) Giác
tha: Nghĩa là mình đã giác ngộ, lại đem phương pháp giác ngộ
ấy dạy cho những người tu hành được giác ngộ như mình. Người tu
theo Tiểu Thừa không thể có được giác tha, vì chỉ lo giải thoát
cho mình. Chỉ người tu theo Ðại Thừa mới có được giác tha, nghĩa
là giác ngộ cho hết thảy chúng sanh đang chìm đắm.
- C) Giác
hạnh viên mãn: Nghĩa là giác ngộ hoàn toàn đầy đủ cho mình
và cho người. Những bậc Bồ Tát, tuy đã giác ngộ cho mình và cho
người, nhưng công hạnh chưa viên mãn, nên chưa gọi được là "Giác
Giác Hạnh Viên Mãn". Chỉ có Phật mới có * được gọi là Giác Hạnh
Viên Mãn.
- Chữ Phật là
một danh từ chung để gọi những bậc đã tự giác, giác tha và giác
hạnh viên mãn, chứ không phải là một danh từ riêng để gọi một
người nào nhất định. Ai tu hành được chứng quả như đã nói trên
đều được gọi là Phật cả.
- 3. Ðạo Phật nghĩa là gì? Theo
những định nghĩa về chữ Ðạo và chữ Phật đã nói trên, chúng ta có
thể giải thích chữ Ðạo Phật như sau: Ðạo Phật là con đường chơn
chánh, hoàn toàn sáng suốt đưa đến bản thể của sự vật, là lý
tánh tuyệt đối, lìa tất cả hư vọng phân biệt, mà các đấng giác
ngộ hoàn toàn đã phát minh ra. Ðạo Phật gồm tất cả tự lợi và lợi
tha, tự giác, giác tha và có công hạnh độ mình, độ người được
hoàn toàn thành tựu, rốt ráo viên mãn.
B-
Chánh Ðề
- Ðạo
Phật có từ lúc nào? có hai nghĩa: Ðứng về phương diện
bản thể mà xét thì Ðạo Phật có từ vô thỉ (nghĩa là không có đầu
mối, không có giới hạn ở trong thời gian). Vì Ðạo Phật là bản
tánh sáng suốt của chúng sanh, nên có chúng sanh là có Ðạo Phật;
mà chúng sanh đã có từ vô thỉ thì Ðạo Phật cũng có từ vô thỉ.
Ðứng về phương diện lịch sử và hạn cuộc trong thế giới này mà
nói, thì Ðạo Phật đã có từ 2501 (1) năm nay (tính đến
năm 1957), trước Thiên Chúa Giáo 544 năm.
Ai khai sáng ra Ðạo
Phật?
- Tín đồ Ðạo
Phật cần phải biết lịch sử đức Giáo Chủ của mình.
- Dưới đây, xin
kể sơ lược những điểm chính của đời đức Giáo Chủ, người đã khai
sáng ra Ðạo Phật, tức là đức Phật Thích Ca Mâu Ni
- Ðức Phật
Thích Ca Mâu Ni, nguyên là Thái Tử nước Ca Tỳ La Vệ
(Kapilavastu) xứ Trung Ấn Ðộ, Phụ hoàng tên Tịnh Phạn Vương Ðầu
Ðà Nà (Sudhodana); Mẫu hoàng tên là Ma Da (Maya). Họ Ngài là
Kiều Ðáp Ma, xưa dịch là Cù Ðàm, tên Ngài làTất Ðạt Ða
(Shidartha). Còn chữ Thích Ca (Sakya), Tàu dịch là Năng Nhơn:
Năng là năng lực, Nhơn là từ bi. Mâu Ni (Muni) nghĩa là Tịch
Mặc: Tịch là yên lặng, không bị khổ vui làm động tâm; Mặc là
lặng lẽ, không bị phiền não khuấy rối, độ mình độ người, công
đức đầy đủ.
- Lúc nhỏ Ngài
có trí tuệ sáng suốt và tài năng phi thường. Lớn lên nhìn thấy
nhân sinh thống khổ, thế cuộc vô thường, nên Ngài cương quyết
xuất gia tu hành, tìm đường giải thoát cho mình và cho người,
ngõ hầu đưa tất cả chúng sanh lên bờ giác ngộ.
- Sau sáu năm
tu khổ hạnh trong núi Tuyết (Hymalaya), Ngài thấy tu khổ hạnh ép
xác như thế, không thể đạt được chân lý, nên Ngài đi qua núi
Koda, ngồi dưới gốc cây Bồ Ðề (Tất Bát La, dịch âm theo tiếng Ấn
Ðộ) và thề rằng: "Nếu ta không thành đạo, thì dù thịt nát xương
tan, ta cũng quyết không đứng dậy khỏi chỗ này". Với chí hùng
dũng cương quyết ấy, sau 49 ngày tư duy, Ngài thấy rõ chân tướng
của vũ trụ nhân sanh và chứng đạo Bồ Ðề. Sau khi thành đạo, Ngài
chu du khắp xứ, thuyết pháp độ sinh, để chúng sanh chuyển mê
thành ngộ, lìa khổ được vui. Suốt thời gian 49 năm, như một vị
lương y đại tài, xem bịnh cho thuốc, Ngài đã dắt dẫn chúng sanh
lên đường hạnh phúc và vạch cho mọi người con đường giác ngộ
giải thoát.
- Ðến 80 tuổi,
Ngài nhập Niết Bàn ở thành Câu Thi Na, trong rừng Ta La (Song
Thọ). Lúc bấy giờ, nhằm ngày Rằm tháng 2 âm lịch.
-
Giáo lý Ðạo Phật như thế nào?
- Giáo lý của
đạo Phật gồm trong 3 tạng kinh điển là Kinh, Luật, Luận.
- 1. Kinh: Kinh
là những lời của đức Phật Thích Ca đã nói khi còn tại thế, để
dạy chúng sanh dứt trừ phiền não và đạt đến quả Niết Bàn.
- 2. Luật: Luật
là những giới luật mà Phật đã chế ra cho các đệ tử, để các đệ tử
răn chừa các điều dữ, tu tập các điều lành, trau dồi thân tâm
cho thanh tịnh.
- 3. Luận: Luận
là những sách phần nhiều do các đệ tử Phật làm ra để bàn giải rõ
ràng nghĩa lý mầu nhiệm trong kinh, luật hoặc quyết đoán tánh,
tướng của các Pháp, phân biệt những lẽ phải *chẳng củam chánh
đạo và tà đạo, khiến cho người đời khỏi nhận lầm phải trái,
chánh tà.
- Tam tạng kinh
điển lại chia làm hai loại là Ðại Thừa và Tiểu Thừa.
- Chữ Thừa
nghĩa là chở, có chỗ cũng gọi là Thặng, nghĩa là cổ xe. Thừa hay
Thặng đều có hàm ý nghĩa là: Giáo lý của Phật có công năng như
một chiếc xe, đưa chúng sanh từ nơi cõi trần lao phiền não đến
cảnh giới an vui thanh tịnh, từ biển khổ luân hồi đến Niết Bàn,
giải thoát.
- Ðại thừa như
là cỗ xe lớn, có thể chở nhiều người trong một lúc; trái lại
Tiểu Thừa như là một cỗ xe nhỏ, chỉ chở mỗi lúc một vài người mà
thôi.
- Sở dĩ giáo lý
Ðạo Phật chia ra làm Ðại Thừa và Tiểu Thừa như thế, vì căn cơ và
nguyện vọng chúng sanh không đồng nhau. Những hạng người nào
nhận thấy mình chỉ đủ sức để giải thoát cho riêng phần mình mà
thôi, như chiếc xe nhỏ chở được một vài người, thì theo giáo lý
Tiểu Thừa.
- Những hạng
người nào tự nhận thấy mình có thể vừa giải thoát cho mình và
cho người ra khỏi sanh tử luân hồi, tự nguyện độ mình và người
cùng đi đến Niết Bàn, như một cỗ xe lớn, cùng chở trong một lúc
được nhiều người, thì theo Ðại Thừa. Hạng người này rõ biết
phiền não, sanh tử như huyển hóa, nên không chịu sớm an vui ở
quả vị cuối cùng của mình, mà thường độ sanh không bao giờ biết
mỏi mệt; và vì nhận thấy chúng sanh còn đau khổ, thì mình chưa
có thể an vui được.
-
Sự Truyền Bá Của Ðạo Phât:
- Sau khi Phật
Thích Ca nhập diệt, hai vị đại đệ tử của Phật là Ngài Ca Diếp và
Ngài A Nan thay Phật hoằng truyền Phật pháp ở Ấn độ. Ðó là thời
kỳ thứ nhứt. Thời kỳ thứ hai do các vị Tổ sư Long Thọ, Mã Minh
và Vô Trước lãnh đạo. Thời kỳ thứ ba do các vị Tổ sư Long Trì,
Thiện Vô Úy và Liên Hoa Sanh đảm nhiệm.
- Từ Ấn Ðộ,
Phật Giáo lan truyền vào các nước lân cận, rồi toàn cõi Á Ðông,
và cuối cùng toàn cả thế giới. Sự truyền bá này đi theo hai
hướng: một hướng về phương Bắc và một hướng về phương Nam. (Xem
Lịch sử truyền bá Phật Giáo khóa 5)
- Về phương Bắc, thì gọi là Bắc
Phương hay là Bắc Tôn Phật Giáo, hay Ðại Thừa Phật Giáo, gồm có
những nước: Tây Tạng, Trung Hoa, Mông Cổ, Mãn Châu, Cao Ly, Nhật
Bản, Việt Nam v.v..
- Về phương
Nam, thì gọi là Nam Phương hay Nam tôn Phật Giáo, hay Tiểu Thừa
Phật Giáo, hay Nguyên Thủy Phật Giáo, gồm có những nước: Tích
Lan, Miến Ðiện, Thái Lan, Ai Lao, Cao Miên, Nam Dương v.v...
- Nhưng hiện nhờ sự giao thông
tiện lợi và kinh điển được trao* dồi khắp các nước, nên sự chia
rẽ giữa Bắc tôn và Nam tôn không còn được rõ ràng như trước:
trong Ðại Thừa vẫn còn có Tiểu Thừa và trong Tiểu Thừa vẫn còn
có Ðại Thừa.
-
Sự Lợi ích Của Ðạo Phật:
- Mục đích của
Ðạo Phật là đem lại những kết quả đẹp đẽ sau này cho chúng
sanh:
- 1. Chơn
thường: Chúng sanh trôi lăn, lặn hụp trong biển sanh tử luân
hồi; chúng sanh sống trong cảnh vô thường, khi trẻ khi già, khi
lành khi ốm, khi sống khi chết...Ðạo Phật đem lại cho người tu
hành một quả vị là không bao giờ bị luật vô thường nói trên chi
phối.
- 2. Chơn lạc:
Chúng sanh đang sống trong cảnh giới tối tăm, buồn tủi, khổ đau;
nếu có vui cũng chỉ vui được trong chốc lát, như người khát,
uống nước mặn vào, đỡ khát trong chốc lát, rồi về sau lại càng
khát hơn lúc đầu. Ðạo Phật có mục đích đem lại cho kẻ tu hành
một sự an vui toàn vẹn và bất tận.
- 3. Chơn ngã:
Chúng sanh bị không biết bao nhiêu nghịch cảnh ở chung quanh chi
phối, ràng buộc, như kẻ tù tội bị giam hãm trong ngục thất,
không bao giờ được tự do hoạt động theo ý muốn của mình. Ðạo
Phật có mục đích làm cho những người tu hành được giải thoát
hoàn toàn ra ngoài những trói buộc nói trên, làm cho con người
đầy đủ năng lực để thực hiện ý nguyện tốt đẹp của mình, và sống
một cuộc đời an nhiên tự tại.
- 4. Chơn tịnh:
Chúng sanh đang sống trong cảnh giới ô trọc, lấm láp trong bùn
nhơ của cõi tục, từ trong tâm hồn cho đến ngoài thể chất. Ðạo
Phật có mục đích làm cho người tu hành gạn lọc được bao nhiêu ô
trọc của cõi đời, được sống một cuộc sống trong trắng, tinh
khiết, không vướng chút bận nhơ của trần tục.
- Không phải
chỉ trong vị lai, Ðạo Phật mới đem lại lợi ích cho đời, ngay
trong xã hội hiện tại, Ðạo Phật cũng đem lại nhiều lợi ích quý
báu:
- - Ðạo Phật,
nhờ tinh thần Từ Bi, làm cho xã hội, nhân loại thương yêu nhau
hơn.
- - Ðạo Phật,
nhờ ánh sáng Trí Tuệ, làm cho xã hội, nhân loại bớt si mê lầm
lạc, thấy được đâu là giá trị thật, đâu là phỉnh phờ, giả dối.
- - Ðạo Phật,
nhờ tinh thần Bình Ðẳng tuyệt đối, san bằng được những bất công
của xã hội, nhân loại, và làm cho cảnh giới Ta Bà này được sáng
sủa, an vui hơn.
- Ðó là những
lợi ích mà Ðạo Phật đem lại cho cõi đời.
-
C - Kết Luận
- Những lợi ích
nói trên quý báu như thế, nhưng sẽ không bao giờ đến với chúng
ta, nếu không học và hành theo Phật.
- 1. Học Phật:
Ðức Phật mặc dù là một đấng xuất phàm, thông minh xuất thế,
nhưng khi xuất gia Ngài cũng phải học hỏi đêm ngày, hao tốn sức
biết bao nhiêu, mới phát huy ra được cái giáo lý nhiệm mầu để
lại cho chúng ta. Vậy chúng ta muốn trở thành một Phật tử chân
chính thì trước tiên là phải học hỏi như Phật. Chúng ta không
chỉ học trong giáo lý của Ngài mà còn học qua đời sống, đức
hạnh, hành vi của đời Ngài nữa.
- 2. Hành theo
Phật: Nhưng học mà không tập, không hành, thì chẳng khác gì cái
đãy đựng sách, chữ nghĩa kinh sách chất chứa thật nhiều, mà
chẳng có ích lợi gì cả. Vậy nên học phải đi đôi với hành. Chúng
ta phải cố gắng thực hành cho được những điều đã học, làm cho
được những điều mình thấy là hay là phải. Phật đã làm gì, chúng
ta phải tập làm lại; Phật đã có những đức tánh Từ, Bi, Hỷ, Xả,
Hoan Hỷ, Tinh Tấn, Thanh Tịnh...chúng ta cũng cố gắng thực hiện
cho được những đức tánh ấy.
- Có như thế,
mới khỏi hổ với hai tiếng Phật tử và mới gọi là đền đáp trong
muôn một, ân đức sâu dày của đức Từ Phụ Thích Ca.
--o0o--
|
|