-
-
|
- PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Phật
Học Phổ Thông
- Khóa Thứ
Nhất
Nhân Thừa Phật Giáo
- --- o0o ---
- Bài Thứ 2
- Lược Sử
Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni
(từ
Giáng Sanh đến Thành Ðạo)
-
Mở Ðề:
-
Ðời Ðức Phật Thích Ca Là Một Tấm
Gương Sáng
- Bắt nguồn một
tôn giáo nào, vị giáo chủ bao giờ cũng là một tấm gương sáng cho
tín đồ soi chung để tiến bước. Nhưng trong các vị giáo chủ của
các tôn giáo hiện có trên thế giới này, không có một vị* nào đầy
đủ ý nghĩa cao đẹp, một đời sống sâu xa bằng đức Phật Thích Ca
Mâu Ni. Mỗi hành động, mỗi cử chỉ, mỗi lời nói, cho đến mỗi im
lặng của Ngài đều là những bài học quý báu cho chúng ta. Nếu
chúng ta học giáo lý của Ngài mà không hiểu rõ đời sống của
Ngài, thì sự học hỏi của chúng ta còn phiến diện, thiếu sót. Ðời
Ngài chính là những biểu hiện giáo lý của Ngài. Ngài nói và Ngài
thực hành ngay những lời Ngài đã nói. Ðời Ngài là một bằng chứng
hiển nhiên để người đời nhận thấy rằng giáo lý của Ngài có thể
thực hiện được, chứ không phải là những lời nói suông, những
không tưởng, những lâu đài xây dựng trên mây, trên khói.
- Vậy cho nên
khi chúng ta học hỏi đời Ngài, chúng ta không nên có cái quan
niệm học cho biết để thỏa mãn tánh hiếu kỳ, mà chúng ta cần phải
tìm hiểu ý nghĩa thâm túy của đời sống ấy để đem áp dụng cho đời
sống của chúng ta.
- Làm được như
thế mới khỏi phụ ý nguyện lớn lao của đức Phật khi giáng sanh
xuống cõi Ta Bà này và đã cam chịu bao nỗi đau khổ, gian lao
trong kiếp sống như mỗi người chúng ta.
-
Chánh Ðề
-
Ðịnh Nghĩa Hai Chữ Giáng Sanh
- Thường trong
danh từ nhà Phật, khi nói đến sự hiện diện của đức Phật Thích Ca
trong cõi đời này, người ta thường dùng chữ đản sanh (nghĩa là
một sự ra đời vui vẻ, làm hân hoan, xán lạn cho cõi đời); hay
thị hiện (nghĩa là hiện ra bằng xương bằng thịt, cho con mắt
trần của chúng ta thấy được); hay giáng sanh (nghĩa là từ một
chỗ cao mà xuống một chỗ thấp để sanh ra).
- Ba chữ ấy đều
có 3 ý nghĩa khác nhau: Chữ đản sanh dùng để ca tụng một bậc tôn
quí ra đời; chữ thị hiện hàm cái ý Phật bao giời cũng có cả,
nhưng vì mắt người không thấy được, phải hiện rõ ràng ra mới
thấy; chữ giáng sanh hàm cái ý đức Phật ở một cảnh giới cao hơn,
tốt đẹp hơn mà hạ xuống cảnh giới phàm trần này. Ba chữ ấy mặc
dù khác nhau, nhưng đều có thể dùng để chỉ sự ra đời của đức
Phật. Trái lại, khi một nguời phàm ra đời thì gọi là "đầu thai".
Ðầu thai có nghĩa là bị nghiệp báo hoặc thiện hay ác bắt buộc
phải luân hồi để chịu quả báo lành hay dữ. Còn giáng sinh hay
thị hiện thì không hàm cái nghĩa bị nghiệp nhân câu thúc, mà do
nơi lòng từ bi, muốn lợi ích cho chúng sanh, nên tự nguyện ứng
thân xuất hiện ra đời trong một thời gian để cứu độ chúng sanh;
xong xuôi thì thâu thần tịch diệt, tự tại vô ngại ra ngoài sống
chết.
-
Hoàn Cảnh Và Dòng Dõi Của Ðức Thích
Ca
- Ðức Phật
giáng sinh ở xứ trung Ấn Ðộ, bây giờ là nước Népal, một nước ở
ven sườn dãy núi Hy Mã Lạp Sơn, là một dãy núi cao nhất thế
giới. Phong cảnh ở đấy rất đẹp; đến mùa xuân cả nước đơm bông
nảy lá như một vườn hoa vĩ đại. Dân cư ở xứ ấy rất là thuần
lương. Vị vua trị vì là Tịnh Phạn, một vị vua thuộc dòng Thích
Ca, là một dòng họ lớn đã mấy mươi đời nối nghiệp trị vì đất
nước này. Bà Hoàng Hậu Ma Da, cũng là một người thuộc dòng vua
chúa đã lâu đời. cả hai ông bà vua Tịnh Phạn đều là người đã
nhiều kiếp tu hành, có đức hạnh lớn, xứng đáng làm cha mẹ muôn
dân.
- Một hôm,
trong thành Ca Tỳ La Vệ, là kinh đô của vua Tịnh Phạn, có l vía
tinh tú, vua tôi cùng nhau mở hội ăn chơi. Hoàng Hậu Ma Da, sau
khi dâng hương hoa cúng kiến trong cung điện rồi, ra ngọ môn bố
thí thức ăn, đồ mặc cho dân bần cùng. Khi trở về cung an giấc,
Bà nằm mộng thấy một con voi trắng sáu ngà từ trên hư không
xuống, lấy ngà khai hông bên hữu của Bà mà chun vào. Bà đem điềm
chiêm bao ấy thuật lại cho vua Tịnh Phạn nghe. Vua ra lịnh mời
các thầy đoán mộng. Các nhà tiên tri đoán rằng: "Hoàng hậu sẽ
sanh một quý tử tài đức song toàn". Vua Tịnh Phạn rất mừng rỡ,
vì ngôi báu từ đây sẽ có người truyền nối.
- Ðến sáng ngày
mồng tám tháng tư âm lịch (trước Tây lịch 624 năm), tại vườn Lâm
Tỳ Ni, cách thành Ca Tỳ La Vệ 15 cây số, Hoàng hậu Ma Da đang
ngoạn cảnh, trông thấy cành hoa Vô Ưu mới nở, thơm ngát, bà đưa
tay phải với hái, thì Thái Tử cũng vừa xuất hiện ngay đấy.
- Ngày đản sanh
Thái Tử, trong thành Ca Tỳ La Vệ, cảnh vật đều vui vẻ lạ thường,
khí hậu mát mẻ, cây cỏ đều đơm hoa trổ trái; sông, ngòi, mương,
giếng nước đều trong đầy; trên hư không chim chóc và hào quang
chiếu sáng cả mười phương.
- Vua Tịnh Phạn
vui mừng khôn xiết mời các vị tiên tri đến xem tướng Thái Tử.
Trong số ấy, có đạo sĩ tên A Tư Ðà tu ở núi Hy Mã Lạp, tiên đoán
rằng: Thái Tử vì có 32 tướng tốt xuất hiện, nên sẽ trở thành một
vị Thánh. Nhưng vua Tịnh Phạn lại chỉ muốn con mình làm một vị
vua để nối dõi tông đường mà thôi. Vì thế, Tịnh Phạn Vương muốn
đổi số mệnh con mình, nên đặt tên cho Thái Tử là Tất Ðạt Ða
*(Siddartha) theo tiếng Phạn, nghĩa là: "Kẻ sẽ giữ chức vị mà
mình phải giữ". Chức vị mà Tịnh Phạn Vương muốn ám chỉ đây tức
là ngôi Vua. Ngài không ngờ rằng chính thật chức vị của Ngài là
chức vị Phật.
- Hoàng hậu Ma
Da sau khi sanh Thái Tử được bảy ngày, vui thú quá vì thấy mình
đã làm tròn nhiệm vụ cao quý, và đã rửa sạch nghiệp báo nên Bà
trút được xác phàm và sanh về cõi trời Ðao Lợi. Vua Tịnh Phạn
giao Thái Tử cho em gái Hoàng hậu là Ma Ha Ba Xà Ba Ðề nuôi
dưỡng.
-
Tài Năng Và Ðức Hạnh Của Thái Tử
- Thái Tử mỗi
năm mỗi lớn, thì diện mạo càng thêm khôi ngôi, tài năng càng
phát lộ gấp bội. Ngài có một sức khỏe hơn người, một trí thông
minh xuất chúng. Từ nghề văn cho đến nghiệp võ, Thái Tử học với
ông nào thì trong ít hôm sau, vị giáo sư ấy phải xin cáo thối,
vì không còn đủ sức để dạy nữa. Cho đến ông thầy danh tiếng đệ
nhất thời bấy giờ là Sằn Ðề Ðề Bà cũng chịu khuất phục Ngài
luôn.
- Nhưng, mặc dù
tài sức hơn người, thông minh xuất chúng lại ở trong địa vị cao
sang quyền quý tột bậc, Thái Tử không bao giờ tỏ vẻ ngạo mạn,
khinh người. Ngài có một thái độ rất hòa nhã ôn hòa, vô tư, bình
đẳng. Lòng thương người, thương vật của Ngài không ai sánh kịp,
h có dịp giúp đỡ, thì dù khó khăn bao nhiêu Ngài cũng không từ
nan. Bởi thế, Ngài được trên Vua cha yêu quý, dưới thần dân kính
trọng, nể vì.
-
III Những Ràng Buộc Của Tịnh Phạn
Vương Ðể Ngăn Chí Xuất Gia Của Thái Tử
- Càng thương
yêu, quý trọng con Tịnh Phạn Vương lại càng lo sợ con mình sẽ
không ở lại với mình, mà sẽ xuất gia tìm Ðạo để thành một vị
Thánh, như lời tiên đoán của đạo sĩ A Tư Ðà. Nhất là khi nhận
thấy càng lớn, Thái Tử lại càng có vẻ suy nghĩ xa xăm, và nét
mặt Thái Tử lại không được vui tươi như thời thơ ấu, Vua Tịnh
Phạn lại càng lo sợ rằng lời tiên tri xưa sẽ *thực hiện. Bởi
thế, Vua cùng triều thần ngấm ngầm sắp đặt mọi kế hoạch để ràng
buộc Thái Tử ở lại ngôi báo. Ngài truyền xây dựng ba tòa lâu đài
nguy nga tráng lệ để Thái Tử thay đổi nơi ăn chốn ở cho hợp thời
tiết quanh năm, và chọn từng trăm cung phi mỹ nữ có tài đàn ca
hay, múa giỏi để giải khuây cho Thái Tử. Nhưng chừng ấy cũng
chưa đủ Ngài còn làm l thành hôn cho Thái Tử với một Công chúa
con vua Thiện Giác là Da Du Ða La, một Công chúa tuyệt đẹp và
đức hạnh vô cùng.
- Thái Tử bị bắt buộc phải lập gia
thất và có một con là La Hầu La.
- Nhưng, mặc dù
sống một cuộc đời quá đầy đủ: nào chức tước danh vọng, nào lâu
đài cung điện, nào đàn ca múa hát, nào vợ đẹp con ngoan, Thái Tử
vẫn thấy lòng mình nặng trĩu bao nỗi băn khoăn, thắc mắc. Ngài
cho cảnh đời Ngài đang sống đây không phải là hạnh phúc chân
thật, mà là giả dối, mê muội, chỉ làm cho kiếp sống thêm nặng nề
đau khổ. Ngài thấy cần phải tìm một lối thoát, một cuộc sống
chân thật, có ý nghĩa và cao đẹp hơn.
- Nhận Ra Bốn
Tướng Khổ Ở Ðời Một hôm, nhân ngày l hạ điền, Thái Tử theo vua
cha ra đồng xem dân chúng cày cấy. Cảnh xuân, mới nhìn qua, thật
là đẹp mắt, nào hoa lá tốt tươi, muôn chim đua hót; nào bầu trời
quang đãng, gió xuân phơi phới. Cảnh tượng có vẻ thái bình, an
lạc lắm. Nhưng tâm hồn Thái Tử không phải là một tâm hồn hời
hợt, xét đoán một cách nông nỗi. Trái lại, Ngài nhìn sâu vào
trong cảnh vật và đau đớn nhận thấy rằng cõi đời không đẹp đẽ an
vui như khi mới nhìn qua. Ngài thấy người nông phu và trâu bò
làm việc một cách cực nhọc dưới ánh nắng thiêu đốt, để đổi lấy
bát cơm, nắm cỏ. Chim chóc tranh nhau ăn tươi nuốt sống côn
trùng đang giãy giụa* trên những luống đất mới cày. Cũng trong
lúc ấy, trong bụi rậm người thợ săn đang nhắm bắn những con chim
kia, và trong khu rừng gần đấy, bọn hổ báo đang rình bắt người
thợ săn. Thật là một cảnh tương tàn tương sát, không phút giây
nào ngừng ! Chỉ vì miếng ăn để sống mà người và vật dùng đủ mọi
phương kế để giết hại lẫn nhau không biết gớm. Ngài nhận thức rõ
ràng sự sanh sống là khổ.
- Một hôm khác,
Ngài xin phép Vua cha đi dạo ngoài bốn cửa thành để được tiếp
xúc với thần dân. Ra đến cửa Ðông, Ngài gặp một ông già tóc bạc,
răng rụng, mắt lờ, tai điếc, lưng còng, nương gậy lần từng bước
ngập ngừng như sắp ngã.
- Ðến cửa Nam,
Thái Tử thấy một người đau nằm trên cỏ, đang khóc than rên siết,
đau đớn vô cùng.
- Ðến cửa Tây,
Ngài trông thấy một cái thây chết nằm giữa đường, ruồi lằng bu
bám, và sình lên, trông rất ghê tởm.
- Ba cảnh khổ
già, đau, chết, cộng thêm vào cái ấn tượng tương tàn trong cuộc
sống mà Thái Tử đã nhận thấy khi đi xem l cày ruộng, làm cho
Ngài đau buồn, thương xót chúng sanh vô cùng.
- Một hôm khác
nữa, Ngài ra cửa Bắc, gặp một vị tu sĩ tướng mạo nghiêm trang,
điềm tỉnh thản nhiên như người vô sự đi ngang qua đường. Thái tử
thấy trong lòng nẩy sinh một cảm mến đối với vị tu sĩ. Ngài vội
vã đến chào mừng và hỏi về ích lợi của sự tu hành. Vị Sa môn đáp
rằng: "Tôi tu hành là quyết bỏ dứt mọi sự ràng buộc của cõi đời,
*về cầu cho mình khỏi khổ và thành chánh giác để phổ độ chúng
sanh đều được giải thoát như mình"
- Lời giải đáp
trúng với hoài bão mà Thái Tử đang ấp ủ bấy lâu, nên Ngài khôn
siết vui mừng. Ngài liền trở về cung xin vua cha cho mình xuất
gia. Vua Tịnh Phạn không nhận lời. Thái Tử yêu cầu vua cha 4
điều nếu vua giải quyết được thì Ngài hoãn viêỉc đi tu, để trở
lại lo chăn dân, trị nước. Bốn diều này là:
- 1. Làm sao
cho con trẻ maic không già
- 2. Làm sao
cho con mạnh mãi không đau
- 3. Làm sao
cho con sống hoài không chết
- 4. Làm sao
cho mọi người hết khổ
- Bốn điều này
làm cho vua cha bối rối, không giải quyết được điều nào cả.
-
IV. Sự Xuất Gia Tìm Ðạo
- Tịnh Phạn
Vương, khi biết được ý định xuất gia của Thái Tử, lại càng lo
sợ, lại tìm hết cách để ngăn cản, ràng buộc Ngài trong "cung
vui". Nhưng một khi Thái Tử đã quyết thì không có sức mạnh gì
ngăn trở được Ngài.
- Một đêm khuya
thừa dịp quân lính canh gác và cung phi mỹ nữ say ngủ sau một
tiệc linh đình, Thái Tử lén trổi dậy, *khi nhìn vợ con lần cuối,
rồi đánh thức tên giữ ngựa Xa Nặc dậy, thắng yên cương, rồi hai
thầy trò trốn ra khỏi thành. Lúc bấy giờ nhằm đêm mồng tám tháng
h ai, và Ngài được 19 tuổi.
- Sau khi vứt
bỏ khỏi cuộc đời vương giả, Thái Tử đi vào vùng sdsâu *tìm Ðạo.
- Ban đầu Ngài đến ở tu với các vị
tu khổ hạnh. Nhưng hạng người này sống một cách kham khổ, nhịn
ăn nhịn uống, dãi nắng, dầm sương, hành thân hoại thể một cách
ghê rợn. Thấy cách tu hành như thế không hiệu quả, Ngài khuyên
các vị đó nên bỏ phương pháp tu hành ấy, nhưng họ không nghe.
Ngài lấy làm thương họ, nên tìm đi nơi khác để tu hành. Ngài đi
hết chổ này đến chổ khác, ở đâu nghe có một vị tu hành đắc đạo
thì Ngài tìm đến học; nhưng đến đâu thì Ngài thấy đạo của họ vẫn
còn hẹp hòi, thấp thỏi, không thể giải thoát cho con người hết
được. Từ đấy Ngài * chốn tu tập một mình, đêm ngày nghiền ngẫm
đến đạo giải thoát, quên ăn bỏ ngủ thân hình mỗi ngày mỗi tiều
tụy. Một hôm Ngài kiệt sức, nằm ngã liệt trên cỏ, và được một
người chăn cỏ đến đổ sủa cho Ngài tỉnh lại. Từ đó Ngài nhận thấy
nếu muốn có kết quả, cần phải bổ dưỡng thân thể cho được mạnh
khỏe, chứ không bỏ quên nó đi được.
- Khi thấy mình
đủ sức khỏe để chiến đấu trong trận cuối cùng với bóng tối si mê
và dục vọng, và đem lại ánh sáng giác ngộ, Ngài đến ngồi nhập
định dưới gốc cây Bồ Ðề và thề rằng: "nếu ta không thành đạo thì
thịt nát sương tan, ta cũng quyết không rời chổ này."
- IV
Thành Ðạo
Ðức Thích Ca đã ngồi nhập định 49 ngày đêm dưới gốc Bồ Ðề. Trong
49 ngày ấy Ngài đã chiến đấu với bọn giặc phiền não ở nội tâm
như tham, sân, si, nghi, mạn...và chiến đấu với giặc Thiên Ma do
Ma Vương Ba Tuần chỉ huy.
- Sau khi thắng
cả giặc ở nội tâm cả ngoại cảnh, tâm trí được khai thông, Ngài
hốt nhiên đại ngộ.
- Trong đêm thứ
49, vào canh hai, Ngài chứng được quả "Túc Mệnh Minh", thấy rõ
được tất cả quá khứ của mình trong tam giới. Ðến nữa đêm, Ngài
chứng được quả "Thiên Nhãn Minh", thấy được tất cả bản thể của
vũ trụ và Ngài *nguyên nhân cấu tạo của nó. Ðến canh tư, Ngài
chứng được *quả của đau khổ và phương pháp dứt trừ đau khổ để
được giải thoát khỏi tư *pháp luân hồi.
- Từ ngày ấy,
Ngài được Ðạo vô thượng, thành bậc "Chánh Ðẳng Chánh Giác", hiệu
là Phật Thích Ca Mâu Ni. Ngày thành đạo của Ngài tính theo âm
lịch là ngày mồng 8 tháng 12, vào lúc sao mai mọc. Lúc ấy Ngài
được 30 tuổi.
IV Ý Nghĩa Cao Cả Trong Sự Xuất Gia Tìm Ðạo Của Ðức Phật
- Những chiến
sĩ chiến thắng quân địch ở ngoài chiến trường, thường được ca
tụng là anh hùng. Càng chiến thắng được nhiều quân địch càng
được hoan hô là anh hùng cái thế. Nhưng những kẻ anh hùng cái
thế ấy, như Nã Phá Luân, Thành Cát Tư Hãn, Xê Ða (*Céar), chính
mình? cho nên thắng người đã khó mà thắng mình lại khó hơn. Ðức
Phật đã thắng cả ngoại cảnh lẫn nội tâm, đã thắng được giặc Ma
Vương * Dục Vọng. Ðức Phật thật xứng đáng với danh hiệu Ðại Hùng
Ðại Lực.
- Ngài không
phải * quyền lời riêng mình mà chiến đấu. Ngài chiến đấu vì tình
thương. Mà tình thương ở đây cũng không phải chỉ nhằm tình
thương trong phạm * hẹp hòi của gia đình: thương cha mẹ, vợ con,
bạn bè. Tình thương ở đây là tình thương chúng sanh, tất cả cõi
đời. Tình thương ấy nó rộng sâu như trời bể, thiết tha như tình
mẹ thương con. Ðức Phật thật xứng đáng với danh hiệu Ðai Từ Ðại
Bi.
- Lại tình
thương ấy*, Ngài đã hoan hỷ lìa bỏ ngôi báu cung vàng điện ngọc,
vợ đẹp con ngoan, đàn hay múa đẹp, mùi ngon vị lạ để sống một
đời kham khổ, đạm bạc, thiếu thốn, giữa rừng thiêng nước độc.
Một khi mà rời bỏ thứ mà người đời cho là qúy báu nói trên, Ngài
không một phút giây nào hối tiếc, muốn quay về để hưởng thụ lại.
Bằng cớ là Ma Vương đã sai con gái mình giả làm nàng Gia Du đến
kêu gọi van xin Ngài trở về cung, mà Ngài không một chút bận tâm
thối chuyển. Ngài xứng đáng với danh hiệu là Ðại Hỷ Ðại Xả.
- Cho nên ngày
nay, mỗi khi xưng tán danh hiệu Ngài, chúng sanh không thể không
suy gẫm cái ý nghĩa sâu sắc và đúng đắn mà người đời từ xưa đến
nay đã tôn xưng Ngài là Ðại Hùng, Ðại Lực, Ðại Từ, Ðại Bi, Ðại
Hỷ, Ðại Xả.
-
C. Kết Luận
-
Chúng Ta Nên Phát Tâm Rộng Lớn Và
Mạnh Mẽ
- Chúng ta đã
được biết qua đời sống của Ðức Phật từ khi sơ sanh cho đến thành
đạo. Bài học của đời Ngài dạy cho chúng ta nhiều ý nghĩa, nhiều
phương diện quý báu.
- Nhưng điều quý báu nhất đối với
kẻ sơ cơ như chúng ta là phải phát tâm Bồ Ðề rộng lớn, nguyện vì
đời, vì đồng bào, đồng loại mà tu hành, chứ không phải *là ích
lợi riêng cho chúng ta.
- Chúng ta lại
phải phát tâm dõng mãnh, tích cực trong sự tu hành; một khi vào
đường đạo, thì dù gặp nguy nan, hiểm trở khó khăn cũng nhất
thiết không thối lui quay gót. Chúng ta phải tập cho được cái
đức kiên trí như Ðức Phật khi ngồi thiền định dưới gốc Bồ Ðề.
- Ðược như vậy
mới xứng đáng là "chân chánh Phật tử".
--o0o--
|
|