-
-
|
- PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Phật
Học Phổ Thông
- Khóa Thứ
Nhất
Nhân Thừa Phật Giáo
- --- o0o ---
- Bài Thứ 3
- Lược Sử
Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni
(từ thành đạo đến nhập Niết bàn)
-
A - Mở Ðề:
- Trong bài
trước chúng ta đã thấy Ðức Phật Thích Ca vì một đại nguyện lớn
lao, vì một lòng từ bi vô bờ bến mà xuất gia tìm Ðạo. Ðại nguyện
và lòng từ bi lớn lao ấy là:"cầu thành Phật quả để trên đền đáp
bốn ơn sâu, dưới cứu vớt ba đường khổ".
- Cho nên sau
khi giác ngộ, Ngài không vội nhập Niết bàn, mà nghĩ ngay đến sứ
mạng của Ngài là: Thay thế chư phật đời trước, tiếp tục chuyển
mê khai ngộ cho tất cả mọi người.
- Sứ mạng ấy
Ngài biết trước không phải dễ dàng, vì cái Ðạo của Ngài thì cao
thâm huyền diệu, mà chúng sanh căn cơ lại không đều, và từ muôn
kiếp đã lặn hụp trong si mê lầm lạc, khó có thể nhận hiểu được
ngay ý nghĩa cao thâm của Giáo lý Ngài. Chúng sanh từ lâu đời
lâu kiếp quen sống trong bóng tối của si mê, ngày nay chắc không
khỏi choá mắt, hoảng sợ khi tiếp xúc với ánh sáng bừng chói của
trí tuệ. Nhưng Ngài xét biết rằng mặc dù sống trong tăm tối,
nhưng mỗi chúng sanh đều có mầm Phật tánh, như hoa sen, mặc dù
sống trong bùn tanh hôi, nhưng vẫn tỏa nhụy vàng thơm ngát. Ngài
cương-quyết thực-hiện sứ mạng của mình.
-
B - Chánh Ðề
- I - Sự Hóa Ðộ Rộng Lớn Và Cùng
Khắp Của Ðức Phật
Sứ mạng hóa độ của Ðức Phật, như chúng ta đã biết, thật nặng nề
và khó khăn. Nhưng nhờ trí tuệ sáng suốt, lòng từ bi rộng sâu,
nhờ tinh thần bình đẳng triẹt để và nhờ ý chí dũng mãnh không
thối chuyển, mà Ðức Phật đã hoàn thành sứ mạng của mình một cách
viên mãn. Trong khi hóa độ, Ngài đã dựa theo ba nguyên tắc sau
đây:
- 1. Hòa độ theo thứ lớp căn cơ.
Khi bắt đầu đi truyền Ðạo, ý nghĩ trước tiên của Ngài là đến
vườn Lộc Uyển tìm mấy người bạn đồng tu với Ngài trước kia để
thuyết pháp. Mấy người bạn ấy là các ông: KiềuTrầnNhư, AùcBệ,
ThậpLực, MaHaNam và BạcÐề. Bài thuyết pháp đầu tiên ấy là
Tứ-diệu-đế. Năm vị nầy đều được khai ngộ, và trở thành 5 đệ tử
đầu tiên của Phật. Kế đó Phật thuyết luôn ba tháng cho 55 người
Bà-la-môn, mà người đứng đầu là ông Da-Xá, 55 người nầy đèu xin
qui y theo Phật, và hợp với 5 người trong nhóm ông KiềuTrầnNhư
thành 60 đệ tử, 60 đệ tử này sau khi giữ đúng giới luật, được
Phật thọ-ký cho đi truyền Ðạo khắp nơi.
- Ðức Phật rời
vườn Lộc-uyển đi về phía Nam đén xứ Ưulầutầnloa và hàng phục một
vị tổ sư rất có uy tín của Ðạo Thờ Lửa là ông Ma-ha Ca-Diếp và
hai người em của Oâng. Oâng Ca-Diếp mang tất cả đồ đệ của mình
là 1,250 vị, xin qui-y theo Phật.
- Nhớ lại lời
hẹn xưa với vua Tần-bà-xa-la, Ngài đến xứ Makiệtđà vào thành
Vươngxá để độ cho vua. Vua Tầnbàxala gặp lại Ngài, vui mừng khôn
xiết, truyền xây cất tịnh xá Trúc lâm, để thỉnh Phật và chư Tăng
ở lại thuyết Pháp độ sanh.
- Trong lúc
Phật ở tịnh xá Trúc lâm, thì vua Tịnh-Phạn nghe tin Ngài đã
thành Phật, truyền sứ-giả đi thỉnh Ngài về thành Catỳlavệ. Nhưng
9 lần 9 sứ giả đi đều biệt tăm, không trở lại. Thì ra những
người này khi đến Trúc lâm tịnh xá nghe Phật thuyết pháp, đã say
mê quên sứmạng của mình và xin thọ giới xuất gia. Lần thứ 10,
Tịnh Phạn-vương sai một cận thần thân tín là Ưu-Ðà-Di, mới thỉnh
được Phật về. Trên đường từ thành Vương xá trở về Catỳlavệ, Ðức
Phật đã thuyết pháp độ cho không biết bao nhiêu người. Về thành
Catỳlavệ, Ngài ở lại 7 ngày. Mặc dù chỉ trong thời gian ngắn
ngủi ấy, Ðức Phật đã cảm hóa tất cả dòng họ Thích và tất cả
những người trong dòng họ này đều xin qui y và một số lớn xin
xuất gia theo Phật, như các ông: Nan-Ðà, A-Nan-Ðà, A-Nậu-Lâu-Ðà,
La-Hầu-La...
- Sau khi trở
về thăm gia đình và quê hương, Ðức Phật cùng các đệ tử lại tiếp
tục đi truyền Ðạo. Ngài đi đến thành Xá-Vệ là kinh đô nước Kiều
tát la, thuộc quyền thống trị của vua Ba-tư-Nặc. Ở thành này có
một vị đại thần tên là Tu-Ðạt-Ða, giàu lòng bố thí cho những kẻ
bần cùng côi cút, nên được gọi danh hiệu là Trưởng giả cấp cô
độc. Oâng rất ngưỡng mộ Ðức Phật nên đã trút hết tất cả tiền của
vàng bạc trong kho ra mua khu vườn rộng lớn của Thái tử KỳÐà để
làm tịnh xá cho Phật và đệ tử của Ngài ở, thuyết pháp độ sanh.
- Ðược ít lâu
nghe tin vua Tịnh-Phạn đau nặng, sắp băng hà, Ðức Phật vội trở
về thăm cha lần cuối cùng. Thấy phụ thân buồn rầu trên giường
bịnh Phật thuyết về "Lẽ vô-thường, khổ, không, vô ngã" cho vua
nghe. Nghe xong ,vua liền dứt phiền não, gương mặt vui tươi, cất
tiếng niệm Phật, rồi băng hà một cách êm ái.
- Sau khi
Tịnh-Phạn-Vương mất, bà mệ nuôi của Phật là MaHaBaXàBaÐề và
bà DaDuÐàLa cùng nhiều người bên nữ giói họ Thích xin được phép
xuất gia. Từ đó trong Ðạo Phật lần đầu tiên có hàng TỳKheoNi.
- Ðức Phật cùng
các đệ tử lại tiếp tục đi truyền Ðạo, đi đến đâu Ngài cũng
được sùng mộ, tin theo và nhiều người noi theo gương của ông
CấpCôÐộc lập TịnhXa, cất giảng đường để Ngài thuyết pháp độ
sanh.
- Như thế chúng
ta thấy Ðức Phật đã tuần tự hóa độ và kết nạp đệ tử, từ những
hạn người đủ căn trí dễ hiểu thấu giáo lý của Ngài rồi mới rộng
ra những người
khác; Lập TỳKeo trước rồi TỳKheoNi sau.
- 2- Hóa độ tùy phương tiện.
Trong suốt thời gian đi thuyết pháp độ sanh, lắm khi Ðức Phật
cũng gặp nhiều cảnh gay go trái ngược do lòng đố kĩ của ngoại
đạo, tà giáo, hay lòng ganh ghét của nội thân quyến thuộc gây
ra. Nhưng lúc nào Ngài cũng tuỳ phương tiện để cảm hóa ho, và
đưa họ về đường ngay lẽ phải. Chẳng hạn, khi thì Ngài bị cô gái
con ngoại đạo độn bụng giả có chửa dến giữa Ðạo tràngđể vu oan
cho Ngài; khi thì Ngài bị anh chàng Vô não đuổi theo quyết giết
Ngài để lấy ngón tay góp thêm cho đủ số một ngàn ngón mà nó đã
giết người để lấy, vì theo thuyết tà đạo, nó tin rằng có làm
được như thế mới chứng quả; khi thì Phật bị Ðề Bà Ðạt Ða, người
em họ hung ác, âm mưu hãm hại Phật bằng cách thả voi say cho
chạy đến chà đạp Phật, hay lăn đá to từ trên núi xuống đè Phật.
- Nhưng tất cả
những âm mưu ấy đều vô hiệu quả, vì oai đức uy danh và trí
huệ của Phật bao bọc Phật, không một hành động xấu xa nào có thể
thắng Phật được. Ngài có đủ phương tiện khôn ngoan khéo léo,
xoay chiều đổi hương dễ dàng, hoán cải được tất cả nghịch cảnh
trở thành thuận lợi. Và cuối cùng kẻ khinh ghét Ngài trở lại
kính mến Ngài; người chống ngài trở lại phục Ngài; kẻ ngoại đạo
trở thành phật tử. Bằng chứng là: ÐếBàÐạtÐa cũng được Phật thọ
ký; anh chàng VôNão cũng được qui y; bầy voi say cũng được sám
hối; Vua AXàThế cũng hối cải và quay về đường ngay.
- Nói tóm lại,
Ðức Phật có đủ muôn ngàn phương tiện thích ứng với mọi người,
mọi vật, mọi hoàn cảnh để hóa độ tất cả những ai mà Ngài gặp
trên đường truyền Ðạo của Ngài. Không phải chỉ ở ngoài đời, mà
trong Giáo hội của Ngài, Ngài cũng tuỳ theo căn cơ, tâm lý của
mỗi đệ tử mà áp dụng phương pháp thích hợp. Chẳng hạn như đối
với ông NanÐà, mặc dù thân đã xuất gia, mà tâm vẫn muốn ngao du,
luyến ái bạn bè, Ngài dùng thần thông để đua ông lên cõi trời
xem những cảnh sống tốt đẹp, vui thú khác thường, rồi đưa ông
xuống địa ngục mục kích những hình phạt đau đớn, rùng rợn hãi
hùng để ông so sánh hai cảnh đời trái ngưọc nhau mà tự chọn lấy
một đường.
- Còn đối với
ông A-Nan, người học rộng nghe nhiều, nhưng vì nghiệp duyên còn
nặng, nên mắc nạn "MaÐăngGià", thì Phật lại đem giáo lý thâm sâu
là Kinh Lăng-Nghiêm ra giảng dạy để cho ông A-Nan thấy rõ được
cái quí giá của chân tâm mà lo tu luyện, chứ không giong ruổi
theo giả cảnh nữa.
- Xem như thế thì Ðức Phật đã dùng
phương tiện để tùy duyên hóa độ, như ông lương y giỏi tùy bịnh
cho thuốc, chứ không nhất thiết phải theo một đường lối cố định
nào cả. Ðối với kẻ thân, người thù, đối với kẻ thông minh hay
người ngu độn, đối với kẻ giàu, người nghèo, Ngài đều có đủ pháp
môn cho họ khai ngộ và quy y theo Ngài.
- 3 - Hóa độ theo tinh thần bình đẳng.
Tinh thần triệt để bình đẳng là một điểm son quí giá nhật trong
giáo lý của Ðức Phật, cũng như trong tâm hồn Ngài. Ngay từ khi
còn ấu thơ, tinh thần ấy đã được bộc lộ trong những cử chỉ cứu
giúp nhữ kẻ bần cùng, những con vật lâm nạn, như chúng ta đã
thấy trong bài trước.
- Khi thành
Ðạo, tinh thần bình đẳng ấy lại bộc lộ rõ ràng hơn nữa. Ngài đã
có những câu nói bất hủ, khiến cho ngày nay, người ta vẫn đem ra
làm khuôn vàng thưóc ngọc, như khi Ngài xin nước của một người
thuộc giai cấp hạ tiện nhất Ấn-độ, người nầy sợ làm lây ô-uế cho
Ngài, thì Ngài phán bảo:"không có giai cấp trong giọt máu cùng
đỏ, trong nước mắt cùng mặn. Mỗi người sanh ra đều có Phật tánh
và có thể thành Phật".
- Trong Giáo
hội của Ngài, Ngài nhận cả những người thuộc giai cấp hạ tiện.
Như ông ƯuBaLy, một đệ tử của Ngài có tiếng tăm về giới luật,
lại là một người thuộc giới hạ tiện Chiênđàla, làm nghề gánh
phẩn. Sự thâu nhập ấy đã làm cho các vị vua chúa bất mãn. Chính
vua BaTưNặc đã bạch Phật:" Ðấng Chí Ton thâu nhận kẻ hèn hạ vào
hàng Tăng Ðồ như vậy, không ngại rằng đá sỏi lẫn lộn với châu
ngọc, làm mất giá trị của chúng Tăng sao?" Phật dạy rằng: "Người
hèn hạ mà biết phát tâm BồÐề, xuất gia tu hành, chứng được quả
Thánh, thì quí báu vô cùng, chẳng khác gì hoa sen mọc ở bùn lầy
nhơ bẩn mà vẫn tinh khiết thơm tho". "Một người sanh ra không
phải liền thành Bàlamôn (giai cấp trên hết) hay Chiênđàla (giai
cấp thấp nhất)m mà chính vì sở hành của người ấy, tạo thành
Chiênđàla hay Bàlamôn".
- Ngài xâu giùm
kim cho người mù, hoan hỷ nhận hòn đất sét mà đứa bbé đã nắn để
dâng Ngài, thọ lãnh bữa cơm cuối cùng do người thợ đốt than
nghèo nàn dâng cúng. Chính vì sự hóa độ bình đẳng như thế, mà
kinh Ðại Niết-Bàn đã táụn thán:
- -"Ðức Như Lai
không chỉ thuyết pháp cho hạng người quyền quí như vua BạcÐềCa,
mà cũng thuyết pháp cho hạng người bẫn cùng như ông ƯuBaLy;
không riêng thọ lãnh sự cúng dường của những người giàu có như
ông TuÐạtÐa, mà cũng thọ lãnh sự cúng dường của các hạng nghèo
khổ như ông ThuầnÐà; không riêng cho phép xuất gia các hạn không
có tánh tham như Ngài CaDiếp, mà cũng cho phép xuất gia những
người có nhiều tánh tham như ông NanÐà; không những thuyết pháp
cho hạng người an tịnh không dự việc đời, mà cũng thuyết pháp
cho vua TầnBàSaLa trong lúc đang bận rộn việc nước; không những
thuyết pháp cho hạng thanh niên trẻ tuổi, mà cũng thuyết pháp
cho ông già 80 tuổi; không những thuyết pháp cho bà hoàng hậu
MạtLĩ, mà cũng thuyết pháp cho dâm nữ LiênHoa".
- II- Năm Thời
Kỳ Nói Kinh
- Tóm lại,
trong một đời của Ðức Phật, tùy theo trình độ của mọi người mà
thuyết pháp giáo hóa, mãi đến khi Ngài nhập diệt, cộng là 49
năm. Những Kinh Pháp của Ngài nói ra, về sau các đệ tử kết tập
chia ra làm năm thời:
- 1.Thời thứ
nhất nói Kinh Hoa-Nghiêm
- Khi Phật mới
thành Ðạo, ở tại cội BồÐề, nói KINH HOA NGHIÊM 21 ngày. Vạch rõ
chân tánh, chỉ bày chỗ cao sâu mầu nhiệm của Ðạo Phật, chủ dích
có hai điều:
a) Dẫn dắt các bậc Bồtát lên địa vị Ðẳng giác và Diệu giác.
b) Nêu bày giáo pháp rốt ráo của NhưLai, chỉ có Phật với Phật
mới hiểu rõ mà thôi; Ngoài ra hàng nhị thừa ngồi nghe nhu đui,
như điếc, huống chi ngoại đạo,tà giáo làm sao hiểu nổi! Ðức Phật
trình bày giáo pháp siêu việt tuyệt vời ấy, là muốn cho đại
chúng phải tu theo Ðại thừa Phật giáo mới được hoàn toàn rốt
ráo.
- 2.Thời thứ
hai Phật nói Kinh A-Hàm
- Biết rằng:
"Muốn đi xa phải do nơi gần, muốn lên cao phải từ nơi thấp", Ðức
Thích Ca y theo chư Phật mà nói pháp Tam thừa. Vì vậy thời thứ
hai, Ngài nói Kinh A Hàm trọn 12 năm, dùng thí dụ thực tế, chỉ
rõ chân lý cho hàng Tiểu thừa dễ nhận, mà lo bề tự tu và tự độ.
- 3.Thời thứ
ba Phật nói Kinh Phương Ðẳng.
- Ðạo Phật
chẳng những dạy pháp giác ngộ phần mình mà Ngài còn chỉ bày
phương pháp giác tha nữa, tức là khuyến khích từ cái giác ngộ
tiêu cực nhỏ hẹp của Tiểu thứa (AlaHán), để tiến lên cái giác
ngộ tích cực bao la của Ðại thừa Phậtgiáo. Aáy là thời nói Kinh
phương Ðẳng trọn 8 năm, dẫn dắc Tiểu thừa qua Ðại thừa.
- 4.Thời thứ
tư Phật nói Kinh Bát Nhã.
- Ðến khi Ðức Phật xem căn cơ của
chúng sanh có thể tiến lên một từng cao nữa là hấp thụ được hoàn
toàn giáo pháp Ðại thừa, nên Ngài chỉ bày Ðạo lý chân không của
Vũ trụ, thuyết minh cái thật tướng, vô tướng của các pháp. Aáy
là thời kỳ nói Kinh Bát Nhã trọn 22 năm.
- 5.Thời thứ
năm Phật nói Kinh Pháp Hoa và Niết Bàn.
- Sự hóa độ một
đòi của Ðức Phật gần viên mãn, thêm thấy căn cơ của chúng sanh
đã thuần thục, có thể gánh vát Ðại thừa Chánh pháp của NhưLai,
nên Ngài bèn nói rõ bản hoài của Ngài thị hiện ra đời là vì một
nguyên nhân lớn: "Khai thị chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến".
Ngài phú chúc, thọ ký cho các hàng đệ tử, tương lai sẽ thành
Phật. Aáy là thời nói Kinh Pháp Hoa và Kinh Niết Bàn trọn 8 năm.
Ðến đây nhiệm vụ thuyết pháp độ sanh của đời Ngài đã viên mãn.
- Tóm lại 5 thời thuyết pháp Cổ nhơn
có làm bài kệ như sau:
Hoa Nghiêm tối sơ tam thất nhựt
A-Hàm thập nhị Phương Ðẳng bát
Nhị thập nhị niên Bát Nhã đàm
Pháp Hoa Niết Bàn cộng bát niên.
DỊCH NGHĨA
Trước nói Hoa Nghiêm hăm mốt ngày
A-Hàm mười hai, Phương Ðẳng tám
Hai mươi hai năm nói Bát Nhã
Pháp Hoa Niết Bàn cộng tám năm.
- III- Sự Hóa Ðộ Viên Mãn
- Từ khi thành
Ðạo dưới gốc cây BờÐề cho đến ngày nhập diệt, trải qua một thời
gian 49 năm, Ðức Phật đã đi khắp xứ Aán độ rộng lớn bao la, hết
nước này đến nước khác. Hễ chỗ nào có chân Ngài dẫm đến là Aùnh
Ðạo Vàng bừng tỏa huy hoàng.
- Mỗi ngày Ngài theo một thời dụng
biểu, một chương trình nhất định, không bao giờ xao lảng, giải
đãi, từ khi trẻ cho đến già, từ mùa mưa cho đến mùa nắng. Mỗi
ngày khi trời chưa sáng, Ngài đã lìa khỏi giường đi tắm rửa,
thay đổi y phục rồi vào phòng quán cơ cho đến lúc mặt trời xuất
hiện. Sau đó Ngài thuyết pháp cho chúng Tăng đến lúc trưa mới
nghỉ để thụ trai. Buổi chiều, Ngài thuyết pháp cho Tín đồ các
vùng l6an cận đến nghe; rồi lại giảng giải những nghi vấn của
các Tăng về những vấn đề mà Ngài đã thuyết pháp buổi sáng.
- Mỗi năm, Ngài
đi chu du để thuyết pháp độ sanh trong 9 tháng nắng ráo; còn
ba tháng về mùa hạ có mưa lớn (theo thời tiết Aán độ), thì Ngài
lại ở luôn trong Tịnh xá để an cư kiết hạ.
- Ròng rã trong
49 năm như thế, hạt giống Từbi được Ngài tinh tấn gieo rắc khắp
các xứ ở Aénđộ. Từ Bắc chí Nam, từ Ðông sang Tây, từ rừng rú đến
đồng bằng, không nơi nào là Ngài không đặt chân đến, hay truyền
đệ tử đến thay Ngài để hóa độ chúng sanh. Và ở đâu Ngài và các
đệ tử cũng được, nhân dân, từ vua đến dân, từ giàu đến nghèo, từ
già đến trẻ, từ phái nam đến phái nữ, đổ xô ra đón tiếp Ngài,
vui thú đươc tắm gội trong ánh nắng trí huệ và nước Từ bi do
Ngài tưới xuống. Ở đâu có Anh Ðạo vàng đến, thì Tà giáo và ngoại
giáo lui xa dần, tan biến như những làn mây, như những bóng tối,
tan biến trước ánh bình minh Ðang lên. Giọng thuyết pháp của
Ngài có oai lực như tiếng sư tử rống, làm cho cầm thú phải khiếp
phục, như tiếng Hải triều lên, lấn ác tất cả bao nhiêu tiếng tỉ
tê của côn trùng, chim chóc.
- Ðạo BồÐề từ
đây đã ăn sâu gốc rễ trên bán đảo Aán độ bao la, và trở thành
tôn giáo chính của các nước lớn, nhỏ thời bấy giờ tại Aánđộ. Ðức
Phật sau khi đã tự giác, đã giác tha và đến đây giác hạnh của
Ngài đã viên mãn.
- IV- Trước Khi
Nhập Niết bàn
- 1 - Phật
báo tin sắp lìa đời.
- Khi giác hạnh
đã viên mãn thì Phật đã 80 tuổi. Ðến đây, sắc thân tứ đại của
Ngài cũng theo luật vô thường mà biến đổi, yếu gìa. Năm ấy Ngài
vào hạ ở rừng SaLa trong xứ CâuLy, cách thành Balanại chừng 120
dặm. Một hôm Ngài gọi ông Anan, người đệ tử luôn luôn ở bên cạnh
Ngài đến và phán bảo:
-"A Nan! Ðạo ta nay đã viên mãn. Như lời nguyện xưa, nay ta đã
có đủ bốn hạng đệ tử: TỳKheo, TỳKheoNi, ƯuBàTắc, ƯuBàDi. Nhiều
đệ tử có thể thay ta chuyển xe pháp, và Ðạo ta cũng đã truyền bá
khắp nơi. Bây giờ ta có thể rời các ngươi mà ra đi. Thân hình
ta, theo luật vô tường, bây giờ như một cổ xe đã mòn rã. Ta đã
mượn nó để chở pháp, nay xe đã vừa mòn mà pháp cũng đã lan khắp
nơi, vậy ta còn mến tiếc làm gì cái thân tiều tụy này nữa?
A-Nan! Trong ba tháng nữa ta sẽ nhập Niết bàn".
- Tin Ðức Phật
sắp vào Niết bàn, lan ra như một tiếng sét. Các đệ tử của Ngài
đi truyền giáo ở các nơi xa, lục tục trở về để cùng đấng Giác
Ngộ chia ly lần cuối.
- Trong thời
gian ba tháng cuối cùng của Ngài, Ðức Phật vẫn không nghỉ ngơi,
mà vẫn tiếp tục đi truyền Ðạo. Một hôm Ngài đi thuyết pháp ngang
qua một khu rừng, gặp một người làm nghề đốt than, ông Thuần Ðà,
thỉnh Ngài về nhà để thọ trai. Ngài im lặng nhận lời cùng các đệ
tử theo ông về. Ðến nhà ông Thuần Ðà dọn ra cúng dường Ngài một
bát cháo nấm Chiên đàn, thường gọi là nấm heo rừng, vì giống nấm
này rất được giống heo rừng ưa thích.
- Thụ trai
xong, Phật cùng các đệ tử từ giã ông Thuần Ðà ra đi. Ðược một
quãng đường, Ngái giao bình bát cho ông A Nan và truyền treo
võng lên, trong rừng cây Ta-la (Tàu dịch là cây song thọ, cây có
hai nhánh lớn chia ra như hai cái nạn), để Ngài nằm nghỉ. Ngài
nằm xuống võng đầu trở về hướng Bắc, mình nghiêng về phiá tay
phải, mặt xây về hướng mặt trời lặn, hai chân tréo vào nhau.
- Nghe tin Ngài
sắp nhập Niết bàn, dân chúng quanh vùng đến kính viếng rất đông,
trong sốấy có một ông già ngoài 80 tuổi, tên TuBạcÐàLa đến xin
xuất gia thọ giới Sadi với Ngài, Ngài hoan hỷ nhận lời. Ðó là
người đệ tử chót trong đời Ngài.
- 2- Phật
nói Kinh Di Giáo và những lời phú chúc
- Lúc bấy giờ
các đệ tử của Ngài đều có mặt đông đủ, chỉ trừ ông Ca-Diếp vì đi
thuyết pháp xa, chưa về kịp. Ngài hội tất cả đệ tử và tín đồ đến
quanh Ngài và dặn dò một lần cuối. Ngài phú chúc như sau:
- a) Y,bát của
Ngài sẽ truyền cho ông Ma-Ha Ca-Diếp.
- b) Các đệ tử
phải lấy giới luật làm Thầy.
- c) Ở đầu các
Kinh phải nên nêu 4 chữ: "Như thị ngã văn".
- d) Xá lợi của
Ngài sẽ chia làm ba phần:
- - Một phần
cho Thiên cung,
- - Một phần
cho Long cung,
- - Một phần
chia cho 8 vị Quốc vương ở AánÐộ
- Sau đây là
lời vàng ngọc mà Ngài đã để lại trong giờ phút cuối cùng.
- - "Này! Các
người phải tự mình thắp đuốc lên mà đi! Các người hãy lấy Pháp
của ta làm đuốc! Hãy theo Pháp của ta mà tự giải thoát! Ðừng tìm
sự giải thoát ở một kẻ nào khát, đừng tìm sự giải thoát ở một
nơi nào khác, ngoài các người!..".
- - "Này! Các
người đừng vì dục vọng mà quên lời ta dặn. Mọi vật ở đời không
có gì quí giá. Chỉ có chân lý cuả Ðạo ta là bất di, bất dịch.
Hãy tinh tiến lên để giải thoát, hỡi các người rất thân yêu của
ta!".
- Sau khi đã dặn dò cặn kẽ xong,
Ngài nhập định rồi vào Niết bàn. Lúc bấy giờ nhằm ngày rằm
tháng hai ÂL (theo giáo sử Trung hoa).
- Rừng cây
Ta-la tuôn hoa xuống phủ lên thân Ngài, trời đất u ám, cây cỏ
héo úa, chim chóc im bặt tiếng hót. Vạn vật như chìm lặng trong
giây phút nặng nề của sự chia ly.
- Các đệ tử tẩn
liệm xác Ngài vao trong kim quan và 7 ngày sau, đua kim quan
Ngài vào thành Câu thi để tại chùa Thiện Quang và làm lễ trà tỳ
(lễ hỏa thiêu).
- Tám vị Quốc
vương lớn ở Aánđộ kéo binh hùng tương dũng đến toan tranh dành
XáLợi. Nhưng ông Hương-Tích y theo di chúc của Phật, đứng ra
điều đình, và nhờ thế việc phân chia XáLợi đều được ổn thỏa.
-
C - Kết Luận
- Ðức Phật đã nhập Niết Bàn, nhưng
gương sáng của đời Ngài vẫn còn chiếu sáng rực rỡ trước mắt
chúng ta. Suốt một đòi, trong 80 năm trời, không một lúc nào
Ngài xao lảng mục đích tối thượng là hóa độ chúng sanh đang trầm
luân trong bbể khổ. Khi còn tại gia, Ngài là người ở trong một
địa vị có diễm phúc nhất, cao nhất của người đời.
- Thế mà Ngài
vẫn không màng tưởng đến; khi vào trong Ðạo, Ngài là người ở
trong địa vị cao chót vót của Ðạo, thế mà Ngài vẫn không chịu ở
yên trong địa vị ấy, lại vất vả dủi rong trên mọi nẻo đường buị
bặm, gai góc để đưa chúng sanh lên con đường hạnh phúc an vui và
giải thoát hoàn toàn. Lòng thương của Ðức Phật thật vô biên.
- 1- Người đời nên noi gương sáng
của Phật.
Sự hy sinh cao cả, lòng từ bi rộng lớn, trí tuệ sáng suốt, ý chí
dũng mãnh của Ngài
không những là bao nhiêu gương sáng cho riêng hàng Phật tư, mà
còn cho tất cả mọi
người. Nếu chúng ta quang niệm Ngài là một vĩ nhân của nhân loại
từ xưa đến nay.
Nếu chúng ta quan niệm Ngài là một bậc siêu nhân, thì đó là một
bậc siêu nhân cao hơn những bậc siêu nhân khác. Nếu ta quan niệm
đời Ngài là một sự thị hiện của Phật, thì đó là sự thị hiện đẹp
đẽ nhất và đầy đủ ý nghĩa hơn hết trong các sự thị hiện.
- Cho nên không những đối với Tín
đờ Phật giáo, mà đối với toàn thể nhân loại, Ðức Phật đáng được
tôn sùng và chiêm ngưỡng.
- 2- Tín đồ
nên ghi nhớ những lời di chúc của Phật - Chúng ta , những
Phật tử, ai cũng biết đời Ðức Phật là đẹp đẽ, cao cả; bài học
của đời Ngài là quí báu, sâu xa. Nhưng nếu chúng ta không cố
gắng học tập, thì bài học dù hay ho quí báu bao nhiêu cũng vô
ích. Ðức Phật trước khi nhập diệt, đã dặn chúng ta một câu cuối
cùng:
- - "Mọi vật ở đời không có gì quí
giá. Thân thể rồi sẽ tan rã. Chỉ có Ðạo ta là quí báu. Chỉ có
chân lý của Ðạo ta là bất di bất dịch.
HÃY TINH TẤN LÊN ÐỂ GIẢI THOÁT!"
- Vậy thì diều
kiện trọng yếu nhất để giải thóat là sự tinh tấn. Chúng ta đừng
bao giờ quên điều kiện ấy trong khi tu hành.
--o0o--
|
|