-
-
|
- PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Phật
Học Phổ Thông
- Khóa Thứ
Nhất
Nhân Thừa Phật Giáo
- --- o0o ---
- Bài Thứ 4
- Quy Y Tam
Bảo
-
A-Mở Ðề:
- Cảnh giới Ta
bà của chúng ta là một cảnh giới đầy mê mờ và dục vọng. Chúng ta
đang lặn hụp trong bể nước mắt củađau khổ và bùn nhơ của dục
vọng, sống trôi lăn trong cảnh ấy, chúng ta khó thấy được bến bờ
sáng sủa, yên ổn để lội vào. Thật là đáng thương cho thân phận
con người chúng ta.
- Nhưng bản
nguyện chúng ta đâu có thế! Chúng ta, từ vô thỉ, ở nơi nguồn
chơn vắng lặng, sáng suốt vô cùng. Vì một niệm bất giác, khởi vô
minh vọng tưởng, nên chúng ta bị quay cuồng trong sanh tử, trôi
nổi trong ba cõi sáu đường.
- Vậy thì trong
chúng ta ai là người không muốn thoát ra khỏi cõi đen tối, sầu
đau này, để dược trở về nguồn trong sáng, an vui?. Nhưng làm sao
để thoát ra được? Ai sẽ là kẻ rủ lòng thương để đưa đường chỉ
lối cho chúng ta? Ai là người có đủ phương pháp thần diệu để
giúp chúng ta ra khỏi sinh tử luân hồi?
- - Ðấng cao cả
sáng suốt và đầy đủ năng lực ấy không ai khác hơn làÐức Phật
Thích Ca Mâu Ni, người đã chứng quả bất sanh, bất diệt; và chỉ
có Giáo pháp của Ngài mới cứu được chúng sanh ra khỏi vô thường
đau khổ.
- Vậy chúng ta còn ngần ngại gì
nữa mà chẳng chịu quy y Tam-Bảo.
-
B- Chánh Ðề:
-
I - Ðịnh Danh Và Giải Nghĩa.
- 1- Quy-y
nghĩa là gì? Quy là trở về; Y là nương tựa, Quy-y là trở về
nương tựa nơi mà mình đã vì si mê, phóng đãn lià bỏ ra đi, như
đứa trẻ khờ dại đã rời bỏ cha mẹ để ra đi trong hoan phá, bây
giờ biết sự dại khờ do kinh nghiệm khổ đau, quay trở về
nương tựa lại dưới bóng hạnh phúc và yêu thương của cha mẹ. Chữ
Quy-y nguyên dịch nghĩa là kính vâng hay phục tòng.
- 2- Tam bảo
nghĩa là gì? Tam bảo là ba ngôi báu: PHẬT, PHÁP, TĂNG.
- Ở thế gian,
vàng bạc, ngọc ngà và danh vọng là quí báu. Nhưng sự thật, vàng
bạc, danh vọng đâu có cứu được con người khỏi khổ, sống, già,
bịnh, chết, mà lắm khi còn làm cho con người thêm khổ nữa! Còn
Phật, Pháp, Tăng thì có đủ năng lực dắt dẫn con người ra khỏi
những cái khổ nói trên. Bỡi thế, người đời mới tôn sùng Phật
Pháp, Tăng là ba ngôi báu (Tam Bảo).
- a) PHẬT: Chữ
Phật do chữ Phạn Bouddha phiên âm ra. Tàu dịch là Giác Giả nghĩa
là: Bực đã giác ngộ sáng suốt hoàn toàn về ba phương diện: Tự
giác, giác tha, giác hạnh viên mãn.
- b) PHÁP: Pháp
là do chữ Phạn Dharma mà dịch nghĩa ra. Pháp là phuơng pháp tu
hành mà Phật đã phát huy ra để diệt trừ mọi mê muội, khổ đau và
chứng được quả Phật. Ba Tạng Kinh Ðiển đều gọi chung là Pháp.
- c) TĂNG: Tăng
hay Tăng già là do chữ Phạn Shanga mà phiên âm ra; Tàu dịch là:
Hòa hợp chúng, nghĩa là một đoàn thể tu hành từ bốn người sắp
lên, cùng nhau sống chung một chỗ, đồng giữ giới luật cu Phật,
đồng chia sớt cho nhau một cách hòa thuận những gì đã thâu nhận
được, từ vật chấc đến tinh thần.
- 3- Quy-y
Tam-bảo là thế nào? - Quy-y Tam-bảo là trở về nương tựa ba ngôi
báu: PHẬT, PHÁP, TĂNG.
- Tại sao phải
Quy-y Phật? - Vì Phật là đấng hoàn toàn sáng suốt, từ bi vô
lượng, phước huệ vô biên, đức hạnh viên mãn; - Vì Phật là người
dẫn đường vĩ đại nhất, đã có cái kinh nghiệm bản thân thoát ra
ngoài vòng sanh tử để chứng Ðạo.
- Tại sao quy-y
Pháp? - Vì chỉ có phương pháp của Phật là đầy đủ công năng để
đưa chúng ta qua khỏi bể khổ, đến bờ giải thoát.
- Tại sao lại
quy-y Tăng? - Vì Tăng là người đã hy sinh gia đình, tiền của,
danh vọng... để tình nguyện theo Phật dắt dẫn chúng sanh trên
đường Ðạo.
-
II- Ba Bực Tam Bảo
- Tam Bảo có ba bực:
- Ðồng thể Tam bảo,
- Xuất thế gian Tam bảo,
- Thế gian trụ trì Tam bảo.
- 1 - Ðồng Thể Tam Bảo
- a) Ðồng Thể Phật Bảo: tức là nói
tất cả chúng sanh cùng chư Phật dồng một thể tánh sáng suốt.
- b) Ðồng Thể
Pháp Bảo: tức là nói tất cả chúng sanh cùng chư Phật đồng một
pháp tánh từ bi bình đẳng.
- c) Ðồng Thể
Tăng Bảo: tức là nói tất cả chúng sanh cùng chu Phật đồng một
thể tánh thanh tịnh, sự, lý hòa hợp.
- 2 - Xuất Thế
Gian Tam Bảo
- a) Xuất Thế
Gian Phật Bảo: là chỉ cho Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, Ðức Phật
A-Di-Ðà, Chư Phật trong mười phương ba đời, đã tự giải thoát ra
khỏi sự ràng buộc của thế gian.
- b) Xuất Thế
Gian Pháp Bảo: là chỉ cho Chánh pháp của Phật, có công năng làm
cho chúng sanh thoát khỏi sự ràng buộc của thế gian, như Tứ-đế,
Thập-nhị nhân-duyên, Lục -độ v.v...
- c) Xuất Thế
Gian Tăng Bảo: là chỉ cho các vị Thánh-Tăng đã thoát ra ngoài sự
ràng buộc của thế gian như đức QuánThếÂm, Ðại Thế Chí, Văn Thù,
Ca-Diếp, A-Nan v.v...
- 3- Thế Gian
Trụ Trì Tam Bảo
- a) Thế Gian
Trụ Trì Phật Bảo, là chỉ cho XaLợi của Phật, tượng Phật đức bằng
kim khí, chạm trổ bằng danh mộc, tô bằng đất, đắp bằng xi măng,
thêu bằng vải, hay vẽ trên giấy.
- b) Thế Gian
Trụ Trì Pháp Bảo, là chỉ cho ba tạng Giáo điển: Kinh, Luật, Luận
viết hay in trên giấy, trên vải trên lá buôn v.v...
- c) Thế Gian
Trụ Trì Tăng Bảo, là chỉ các vị TỳKheo, TỳKheoNi tu hành chơn
chánh, đạo đức trong sạch, giới luật trang nghiêm trong hiện
tại.
-
III- Sự Quy y Tam Bảo
- Sau khi đã
hiểu rõ thế nào là Quy-y Tam bảo, tất nhiên phải thực hành sự
hiểu biết ấy.Thực hành bằng sự tướng cung kính, vâng theo
Tam-bảo, như thế gọi là sự quy-y Tam-bảo.
- 1 - Sự Quy-Y
Phật: Hằng ngày chúng ta phải nhớ tưởng luôn đến Phật, niệm danh
hiệu Phật, chiêm ngưỡng tượng Ngài, và nguyện suốt đời theo bước
chân Ngài, ấy là sự quy-y Phật.
- 2 - Sự Quy-Y
Pháp: Hằng ngày tụng đọc Kinh, Luật, Luận; sớm hôm hai thời công
phu, tìm hiểu nghĩa lý thâm huyền của Pháp bảo. Khi đọc tụng
Kinh điển tâm trí ta không nghĩ xằn bậy, không nhớ tưởng những
việc không hay, không bàn mưu tính kế để lợi kỷ, tổn nhơn. Chúng
ta trừ bỏ được dục vọng, tâm trí được sáng suốt, an lành, thanh
tịnh.
- 3- Sự Quy-Y
Tăng: Thế gian thường nói: "Trọng Phật, phải kính Tăng". Cho
nên, nếu chúng ta thành tâm thờ Phật bao nhiêu, thì chúng ta
phải thật dạ kính Tăng bấy nhiêu. Người thực hành sự quy-y Tăng,
hễ thấy người đầu tròn áo vuông, chân chính
tu hành, giữ gìn giới luật, thì liền kính nể, quý trọng, xem như
đó là vị đại diện cho Ðức Phật. Làm như thế là sự quy-y Tăng.
- Tóm lại, thờ
Phật, tụng Kinh, giữ Giới, nghiên cứu Phãt pháp, kính trọng Tăng
già chân chính, dó chính là sự quy-y tam-bảo.
-
IV- Lý Quy y Tam Bảo
- Lý là bên
trong. Lý quy-y Tam-bảo nghĩa là quy-y Tam-bảo trong tâm chúng
ta. Nếu chúng ta chỉ thực hành sự quy-y, chỉ dong ruổi theo
Tam-bảo bên ngoài, mà quên lý quy-y, nghĩa là quên Tam-bảo bên
trong tâm chúng ta, thì chúng ta chưa thực hành
đúng nghĩa Tam-quy. Thật thế, bên trong tâm chúng ta cũng có đủ
Tam-bảo. Chúng ta cần thực hành lý quy-y, hay Tam Tự Quy-Y:
- 1- Tự Quy-Y
Phật: Tự nghĩa là mình đối với tự tâm mình. Tư quy-y Phật là
mình tự trở về với Phật tánh sáng suốt của tâm mình, - Vâng mỗi
người đều có Phật tánh, và đều có thể thành Phật. Ðó là lời Phật
Thích Ca đã dạy. Nhưng Phật tánh ấy bị mê lầm, vọng tưởng che
lấp. Vọng tưởng như mây mờ, Phật tánh như trăng. Mây mờ có thể
che khuất, chứ không thể tiêu diệt được trăng sáng. Phật tánh
chúng ta bị vọng tưởng vô minh che lấp sâu kín đến đâu cũng vẫn
thường còn. Vậy thì sao chúng ta
lại bỏ quên Phật tánh của chúng ta, mà chỉ chạy theo cầu khẩn
Phật bên ngoài; như đứa "cùng tử" có viên ngọc quý, cha mẹ đã
giấu sẵn trong chéo áo mà nó không biết, lại đi xin ăn cùng khắp
mọi nơi!
- 2- Tự Quy-Y
Pháp: nghĩa là vâng theo pháp tánh của mình. Trong tâm ta có đủ
tất cả các Pháp: Từ-bi, Trí-tuệ, Bình đẳng, Sáng-suốt,
Nhẫn-nhục, Tinh-tấn... chúng ta cần phát huy những đức tánh ấy
và hành động theo chúng, tuân theo chúng. Như
thế là Tự Quy-Y Pháp.
- 3- Tự Quy-Y
Tăng: nghĩa là vâng theo Thầy trong tâm mình, Thầy trong tâm
mình là đức tánh hòa hợp thanh tịnh của mình, như Tăng già là
hiện thân của sự hòa hợp thanh tịnh bên ngoài. Bấy lâu vì mình
mê muội, không nhận thấy được ông Thầy
trong tâm, nay nhờ Phật chỉ dạy, mình nhận thấy được ông Thầy
thanh tịnh ấy, thì mình phải quy-y Thầy của mình trước đã chứ!
- Nói tóm lại,
mình phải nương tựa, quay về với Phật trong tâm mình là tánh
sáng suốt; với Pháp trong tâm mình là các đức tính Từ-bi, Hỷ-xả
v.v..., với Tăng trong tâm mình là sự hòa hợp, thanh tịnh của
bản tâm. Như thế là Lý Quy-Y Tam-bảo.
-
V- Nghi Thức Quy Y
- Sau khi chúng
ta đã hiểu rõ SỰ và LÝ Quy-y rồi, chúng ta cũng cần biết qua
nghi thức của lễ Quy-y.
- 1- Trưóc Tiên
Phải Gội Rửa Thân Tâm Cho Trong Sạch.
- Quy-y là buổi
lễ quan trọng nhất trên đường tu tập của chúng ta. Nó là cuộc
khởi hành để đi đến mục đích giải thoát, vì thế chúng ta không
thể xem thường, cử hành một cách bừa bãi được.
- Khi muốn
quy-y, chúng ta phải y-phục chỉnh tề, sắm khay lễ thỉnh chư Tăng
đến trai dường, đảnh lễ và cầu xin chư Tăng rủ lòng Từ-bi truyền
trao quy-giới cho mình.
- Trước ngày hành lễ, thân tâm
chúng ta phải được gội rửa trong sạch. Ta tắm rửa sạch sẽ ăn mặc
chỉnh tề. Ðó là về thân; còn về tâm thì ta phải ba phen sám hối,
cho ba nghiệp được thanh tịnh. Nhờ sự tẩy gội cả trong lẫn ngoài
ấy, ta mới xứng đáng đón nhận Pháp thanh tịnh cao quý của
Tam-bảo.
- 2- Phát
Nguyện.
- Ðến giờ
quy-y, chúng ta phải qùy xuống; theo lời hướng dẫn của chư Tăng,
chí thành phát nguyện:
- - Ðệ tử suốt
đời quy-y Phật.
- - Ðệ tử suốt
đời quy-y Pháp.
- - Ðệ tử suốt
đời quy-y Tăng.
- Sau khi phát
nguyện Tam-quy rồi, người phát nguyện tin chắc rằng mình đã gieo
hạt giống giải thoát, thế nào cũng sẽ gặt được kết quả tốt là
thoát ly ba đường ác: Ðịa-ngục, Ngạ-quỷ, Súc-sanh. Vì thế người
quy-y liền nói tiếp ba lần:
- - Ðệ tử quy-y
Phật rồi, khỏi đọa địa ngục.
- - Ðệ tử quy-y
Pháp rồi, khỏi đọa ngạ quỷ.
- - Ðệ tử quy-y
Tăng rồi, khỏi đọa súc sanh.
- Thế là trọn
vẹn Tam-quy và Tam-kiết.
- Ðể bảo tồn lý
tưởng cao cả của mình và giữ vững đức tin trên đường Ðạo, người
quy-y tự nguyện một cácg mạnh mẽ và thành khẩn:
- - Ðệ tử quy-
Phật, nguyện trọn đời không quy y thiên, thần, quỷ, vật.
- - Ðể tử quy-y
Pháp, nguyện trọn đời không quy-y ngoại đạo, tà giáo.
- - Ðệ tử quy-y
Tăng, nguyện trọn đời không quy-y tổn hữu ác đảng.
- Như thế là lễ
quy-y đã hoàn tất. Người Tín đồ chỉ còn việc làm theo đúng những
lời mình đã phát nguyện và đã tuyên thệ trước Tam-bảo.
-
VI- Lợi Ích Của Quy Y Tam Bảo
- 1- Khỏi đi
lạc đường đòi vào nơi tăm tối.
- Như chúng ta
đã thấy ở đoạn mở đầu bài này, chúng ta đang lặng hụp trong biển
khổ, đang bơ vơ lạc lỏng giữa đêm tối mênh mông. Trong hoàn cảnh
bi đát như thế, nếu không thấy được những phương tiện để đi đến,
không có những bậc Thầy để dìu
dắt đến, thì chúng ta sẽ quay cuồng mãi mãi trong biển sanh tử
luân hồi. Cái đích sáng ấy là Ðức Phật, những phương tiện ấy là
Pháp, và những bậc Thầy dìu dắc ấy là Tăng. Khi chúng ta đã biết
có những sự quý báu như thế mà không nắm bắt lấy, thì chẳng
khácgì người sáp chết đuốiụ thấy cái bè gỗ trôi qua mà lại dại
khờ xua đẩy nó ra.
- Sự quy-y
chính là một cách bám víu vào cái bè Tam-bảo mà Phật đã chế ra
để cứu vớt những kẻ sắp chết duối trong biển đời là toàn thể
chúng ta.
- 2- Khi đã
phát nguyện quy-y, mình dễ giữ đúng lời đã hứa, vì có sự chứng
minh của Chư Phật và Chúng Tăng.
- Có người nói:
"Tôi tôn sùng Ðức Phật, vì biết Ngài là một Ðấng sáng suốt hoàn
toàn; Tôi trọng trọng Pháp vì biết Pháp Phật có đủ năng lực đưa
người đến giải thoát; tôi kính Tăng vì biết đấy là những vị đại
diện cho Ðức Phật. Biết như thế cũng đủ, cần gì phải làm lễ phát
nguyện quy-y?"
- Nói như thế
là chưa hiểu giá trị về phương diện tâm lý của lời hứa, lời thề
trước mặt người khác. Khi chúng ta đã hứa với ai một điều gì, mà
nuốt lời hứa, thì tâm hồn chuíng ta bức rức, hối hận không an.
Ðã hứa tất có bổn phận làm trọn lời hứa, nếu
thất lời hứa, tất ta sẽ tự khinh ta. Nhất là khi lời hứa, lời
nguyện ấy lại cử hàng trong một khung cảnh trang nghiêm trước
Ðiện Phật, trên có sự chứng tri của Chư Phật, dưới có sự chứng
tri của chư Tăng, chung quanh có sự hộ niệm của những thân bằng
quyến thuộc; phát nguyện trong khung cảnh ấy, tất nhiên chúng ta
khó lòng mà trái lời nguyện hay xao lảng được.
-
C - Kết Luận
- Khuyên tín đồ
nên quy-y cả Sự lẫn Lý và tinh tiến trong sự quy-y
- Chúng ta đã
thấy, là Phật tử thì phải quy-y. Quy-y phải đủ Sự và Lý. Không
nên hoàn toàn ỷ lại bên ngoài mà xao lảng bên trong. Cũng không
nên hoàn toàn tự tôn tự trọng riêng mình mà khinh thị bên ngoài.
Muốn quy-y thì trước tiên phải long trọng
làm lễ quy-y để đánh dấu bước đi đầu tiên của mình trên đường
giải thoát. Lễ ấy như là lễ tiễn đưa một người ra đi nhận một
nhiêm vụ mới. Nhưng một khi đã đặt chân lên đường, thì người ấy
phải dong ruổi, quyết tiến mau cho đến đích, chứ không phải chần
chờ, quay đi lộn lại một chỗ, hay rẽ qua một ngả khác. Ðã phát
nguyện quy-y mà không theo dấu chân của Ðức Phật đã để lại,
không soi vào gương sáng của Ðức Phật đã nêu cao, không theo
giáo pháp mà rèn luyện tâm tánh; không giữ giới luật, không vâng
lời nhắc nhở của Chư Tăng, như thế là tự lừa dối mình và lừa dối
người khác, và cái tai hại lại càng lớn lao hơn cả không quy-y.
- Trái lại, nếu
chúng ta quy-y và thực hành đúng như lời đã phát nguyện thì con
đường giải thoát dù xa, cũng sẽ có ngày thấy đích.
- Xin hãy luôn
luôn ghi nhớ lời nói cuối cùng của Ðức Phật:
- - "Hãy tinh
tiến lên để giải thoát!".
-
--o0o--
|
|