-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Phật
Học Phổ Thông
- Khóa Thứ
Nhất
Nhân Thừa Phật Giáo
- --- o0o ---
- Bài Thứ 7
- Thờ Phật,
Lạy Phật, Cúng Phật
-
A. Mở Ðề
- Xưa nay,
những bậc có công ơn lớn đối với Quốc gia, xã hội đều được tôn
sùng, nhưỡng mộ. Sự tôn sùng ngưỡng mộ này do nhiều nguyên nhân,
nhưng nguyên nhân chính là lòng tri ân và sự mong muốn được noi
theo gương sáng. Tục ngữ có câu: "Ăn trái phải nhớ kẻ trồng cây,
uống nước phải nhớ người đào giếng". Lòng tri ân là một đức tính
quí báu, mà những người có chút công bằng không thể thiếu được.
Một xã hội gồm những phần tử phi ân bội nghĩa,ăn cháo đá bát,
không có thể tồn tại được lâu dài, vì nó làm chán nản những kẻ
có lòng, và làm khô cạn nguồn hy sinh. Vả lại, nếu con người
thấy điều tốt, người hiền mà chẳng hâm mộ, thấy điều xấu, người
ác mà không tránh xa, thì con người ấy là người thiếu căn bản
đạo đức, thiếu mầm thiện, khó có thể tiến bộ. Vì những lý do
trên, ta thấy trên thế giới, bất luận ở phương trời nào, dân tộc
nào, thời đại nào, hễ kẻ có công với làng xóm, thì được làng xóm
tôn thờ, kẻ có công với quốc gia, dân tộc, thì được quốc gia,
dân tộc tôn thờ, kẻ có công đức với nhân loại, thì được nhân
loại sùng thượng.
- Sự thờ cúng
trong các tôn giáo cũng không ra ngoài những lý do đã kể trên.
Nhưng ở các tôn giáo, sự thờ cúng có tính cách thường trực và
thiết tha hơn, vì các vị Giáo chủ là những bậc có công ơn lớn
đối với nhân loại và là những gương sáng mà tín
đồ cần đặt luôn luôn ở trước mắt để soi sáng đời mình. Trong các
vị Giáo chủ, thì Ðức Phật là Vị được nhiều tín đồ sùng mộ nhất.
Sự sùng mộ ở đây biểu hiện trong sự thờ, lạy và cúng Phật.
-
B. Chánh Ðề
- I.- Thờ Phật
- 1) Phật là
bậc đáng tôn thờ. Phật là những bậc đã dày công tu luyện
phước đức và trí tuệ, cho nên đã được hoàn toàn sáng suốt và có
đầy đủ đức hạnh cao quý. Các Ngài đã dùng đức và trí ấy để dẫn
dắt chúng sanh ra ngoài biển khổ luân hồi, và đua đến địa vị
sáng suốt an vui. Trong công việc độ sanh ấy, các Ngài lại không
bao giờ thối chuyển ngã lòng mặc dù gặp trở lực khó khăn. Các
Ngái đã nguyện độ cho toàn thể chúng sanh, cho đến khi nào không
còn một chúng sanh nào để độ nữa mới thôi. thật là đúng với câu:
"Tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn". Một bậc có đủ ba đức
tính quý báu là Bi, Trí, Dũng, ba đức tính căn bản mà một con
người muốn được toàn thiện, toàn mỹ, toàn chân, không thể thiếu
được. Một bậc siêu phàm xuất chúng, có những lời dạy quý báu,
những cử chỉ cao thượng, những hành động sáng suốt, một đời sống
gương mẫu như Phật, mà chúng ta không tôn thờ, thì còn tôn thờ
ai nữa?
- 2) Nhưng
chúng ta phải thờ Phật như thế nào mới đúng ý nghĩa. Như
trên đã nói, chúng ta thờ Phật là để tỏ lòng tri ân của chúng ta
đối với một Vị đã có ân đức lớn với nhân loại. Chúng ta thờ Phật
là để có luôn luôn ở trước mặt một gương mẫu sáng suốt trọn lành
để khuôn rập tư tưởng, lời nói và hành động của chúng ta được
chân, thiện, mỹ như Phật vậy. Người ta thường nói: "Gần mực thì
đen, gần đèn thì sáng". Chúng ta thờ Phật là muốn luôn luôn được
có bên mình ngọn đèn trí tuệ của Ngài, cái hương từ bi của Ngài,
để được sáng lây, thơm lây, chứ không phải chúng ta có mục đích
cầu cạnh Ngài để Ngài ban phước, trừ họa, để Ngài che chở cho
chúng ta mua may bán đắt một cách bất lương, hay để chúng ta dựa
vào thế lực của Ngài, tha hồ làm những điều bất chính. Nếu chúng
ta thờ Ngài với mục đích sai lạc như vừa nói ở trên, thì không
những chúng ta đã phỉ bán Ðức Phật, mà chúng ta còn tự tạo tư
tưởng không tốt cho chúng ta nữa.
- 3) Phải
thờ Ðức Phật nào? Ðức Phật nào cũng có nghĩa vô lượng quang,
vô lượng thọ bao la cùng khắp và công đức tu hành phước trí vô
lượng vô biên cả; nên hễ thờ một Ðức Phật là thờ tất cả các Ðức
Phật. Nhưng chúng ta cũng nên tuỳ theo thời kỳ giáo hóa của mỗi
Ðức Phật và pháp môn tu hành mà thờ cho xứng lý, hợp cơ. Thí dụ
như hiện nay, chúng ta ở vào thời kỳ giáo hóa của Ðức Phật Thích
Ca Mâu Ni, thì lẽ cố nhiên, chúng ta phải thờ Ngài trước hết.
Nếu tín đồ nào tu về "Tịnh Ðộ Tông", chuyên về pháp môn "Trì
danh niệm Phật" để cầu vãng sanh, thì tín đồ ấy phải thờ Ðức
Phật A-Di-Ðà. Hoặc giả, nếu Phật tử muốn thờ tất cả Phật trong
ba đời, thì nên thờ Ðức Phật Thích Ca, Ðức A-Di-Ðà, và Ðức
Di-Lặc, gọi là thờ "Tam Thế Phật".
- 4) Cách
thức thờ Phật. Như vậy trong nhà tín đồ, nếu muốn thờ tượng
Phật, thì nhiều nhất là ba Vị. Và nên nhớ rằng, trong khi thờ
Tam Thế Phật, phải sắp đặc chung một bàn. Nếu tượng lồng kiếng
thì nên treo ngay thẳng, không được cái cao, cái thấp, cũng
không được cái to, cái bé; còn như tượng gỗ, tượng đồng tượng
sành, thì để ngang hàng đồng bực, không nên để tùng trên, cấp
dưới. Bàn thờ Phật phải đặt chính giữa nhà, bàn thờ ông bà ở
phía dưới hoặc sau đúng câu: "Tiền Phật hậu Linh, hay Thượng
Phật hạ Linh". Nếu nhà lầu thì thờ Phật ở tầng trên. Tại bàn thờ
Phật không nên để tạp vật nào khác, ngoài bình bông, lư hương,,
chân đèn và dĩa quả. Những vật này mỗi ngày đều chăm sóc lau
quét sạch sẽ luôn. Lần đầu tiên thỉnh Tượng Phật, tín đồ phải
làm lễ thượng tượng, cũng gọi là lễ an vị Phật. Lễ này không bắt
buộc phải tổ chức linh đình, chỉ nên làm một cách đơn giản,
nhưng không kém vẻ trang nghiêm và tinh khiết. Muốn được hai đặc
diểm ấy, chủ nhà phải dọn mình sạch sẽ: ăn chay, giữ giới và mời
thêm thiện hữu trí thức đến hộ niệm một thời kinh. Và bắt đầu từ
ngày làm lễ an vị Phật trở đi, tất cả mọi người trong nhà, mỗi
ngày ra vô trông thấy tượng Phật, nên nghĩ nhớ đến đức hạnh cao
cả của Ngài mà chỉnh đốn lại thân tâm mình. Mỗi ngày đều lo cải
thiện lại sự cư xử với nhau, đối nội cũng như đối ngoại, phải
luôn luôn thấm nhuần tinh thần từ bi, bác ái và bình đẳng. Như
thế mới xứng đánh với danh nghĩa của một gia đình có thờ Phật.
Thờ phụng lâu năm, tượng Phật bi hư rách, không thể sơn phết hay
sửa chữa lại được, thì nên thay đổi tượng mới. Khi có tượng mới
rồi thì tượng cũ phải dâng vào chùa chờ dịp nhập tháp, chớ không
nên bạ đâu bỏ đó, mà mang tội.
- II.- Lạy Phật
- 1) Ý nghĩa
lạy Phật.- Ngày xưa, khi Ðức Phật còn tại thế, các đệ tử từ vua
quan , đến dân chúng, mỗi lần được may mắn gặp Ðức Phật Thích
Ca, đều cuối xuống ôm chân Phật và đặt trán mình klên chân Ngài
để tỏ lòng ngưỡng mộ, tôn thờ một bậc tối thượng: Bi, trí siêu
phàm. Cử chỉ ấy là một cử chỉ vô cùng khiêm tốn, nhu thuận và
hoàn toàn tin cậy đối với Ðức Phật. Sau khi Phật nhập diệt, toàn
thể tín đồ vẫn xem Ngài như còn tại thế, và cái cử chỉ cuối
xuống ôm chân Phật vẫn còn tiếp nối tồn tại cho đến ngày nay và
muôn ngàn năm sau. Cái cử chỉ ấy chỉ có cái công dụng làm cho
tínn đồ bao giờ cũng hình dung như Ðức Phật còn ngồi trước mặt
mình để chứng giám cho tấm lòng thành kính thiết tha của mình.
- 2) Phải lạy
Phật như thế nào mới đúng ý nghĩa.- Ðể cho đúng với ý nghĩa
trên, khi lạy Phật phải quỳ xuống, ngửa hai bàn tay ra như đang
nâng hai chân Phật và cuối lưng xuống đặt trán mình trên hai
lòng bàn tay. Trước khi lạy Phật, phải dọn mình cho sạch sẽ: rửa
mặt, súc miệng, lau tay chân, thay y phục và mặc áo tràng. Xong
xuôi, mới đốt hương ra trước bàn Phật, đứng ngay thẳng, tay chắp
để trước ngực, mắt nhìn tượng Phật, tâm tưởng đến các tướng tốt
và những đức hạnh cao cả của Ngài, và tỏ bày nguyện vọng chân
chánh của mình, xá rồi cắm hương vào lư, đánh tiêng chuông và
lạy Phật ba lạy. Lễ Phật như thế mới đúng pháp; trong kinh gọi
là "thân tâm cung kính lễ" , nghĩa là thân tâm hăng hái tề
chỉng, nghiêm trang, tâm thì hớn hở vui mừng và hết lòng thành
kính như gặp được Phật còn tại thế. Trái lại, chúng ta lễ Phật
với lòng ngã mạng (ngã mạng lễ), hay với tâm cầu danh (cầu danh
lễ), thì đã không có kết qủa gì, mà còn mang thêm tội.
- Ngã mạng lễ,
là khi lạy Phật mà trong tâm còn ngạo nghễ, kiêu căng, năm vóc
(đầu, hai tay, hai chân) không sát đất, đứng lên cuối xuống một
cách cẩu thả, qua loa cho có chuyện. Cầu danh lễ, là khi thấy có
đông người thì miệng liền to tiếng dài hơi xưng danh hiệu Phật,
thân lại siêng năng lạy không ngừng nghỉ, có ý để cho mọi người
khen ngợi. Trái lại khi không có người thì thân lại biếng nhác,
tâm lại giải đãi, không muốn lễ bái gì cả. Hai cách lễ ái trên
đây rất giả dối, vậy những ai muốn tiến trên đường Ðạo, thì phải
nên tránh ngay.
- 3) Bốn phép
lạy (thuộc về lý).- Về phương diện lý thì có bốn phép lễ.
- a) Phát
trí thanh tịnh lễ.- Trong phép này, người hành lễ phải thấu
suốt rằng cảnh giới của Chư Phật đều tùy tâm hiện bày, nên lạy
một Ðức Phật, tức là lạy tất cả Chư Phật, lạy một lạy, tức là
lạy tất cả Pháp giới, vì Pháp thân của Phật dung thông.
- b) Biến
nhập pháp giới lễ.- Trong pháp này, người hành lễ phải tự
quán thân, tâm cùng tất cả các pháp, từ hồi nào đến giờ đều
không rời pháp giới.
- c) Chánh
quán lễ.- Trong pháp này, người hành lễ lạy Ðức Phật ngay
nơi tự tâm của mình, chứ không duyên với Ðức Phật nào khác, vì
tất cả chúng sanh từ xưa đến nay, đều sẵn có Phật tánh viên mãn,
bình đẳng và chân giác.
- d) Thật
tướng bình đẳng lễ.- Trong pháp lễ này, người hành lễ không
thấy có tự, có tha; người và mình là một, phàm và Thánh nhứt
như, thế và dụng không hai. Do đó, Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồtát có
nói: "Năng lễ, sở lễ tánh không tịch", nghĩa là người
lạy, và đấng mình lạy, thể tánh đều vẳng lặng. Như thế mới thấu
đáo và hợp lý Bát Nhã.
- Bốn phép lễ này, lý cao khó nghĩ
bàn, nếu chẳng phải bực thượng căn, thượng trí, thì không thấu
nổi và khó làm theo được.
- III.- Cúng
Phật : Là nói tắt, nói cho đủ nghĩa là cúng dường Tam Bảo: Phật,
Pháp, Tăng. Cúng dường có nghjĩa là cung cầp và nuôi dưỡng.
- 1.- Ý
nghĩa về cúng Phật.- Có người sẽ hỏi: Tại sao Ðức Phật đã là
bất sanh, bất diệt mà lại còn phải cúng dường? Thật ra, Ðức Phật
đã thoát ra ngoài vòng sanh tử, thì đâu còn hạn cuộc trong sự ăn
uống. Nhưng đây chỉ là một hình thức để ngụ ý
rằng, mặc dầu Phật đã nhập diệt lâu rồi, nhưng đối với chúng ta,
bao giờ cũng xem như Ngài còn tại thế. Xưa, các đệ tử, các đàn
na thí chủ đã cúng dường Ngài như thế nào, nay chúng ta vẫn tiếp
tục cái cử chỉ ấy. Sự cúng dường này làm cho chúng ta
gần với Phật, có cảm tưởng như bao giờ cũng ở bên cạnh Phật.
Cũng nhơn sự thờ phụng, lễ bái cúng dường này mà chúng ta được
kết duyên lành với Phật, hình dung rõ rệt cuộc đời của Ngài để
quyết noi theo bước chân của Ngài.
- 2.- Phải
cúng Phật với những gì? (Về sự) .- Vẫn biếât rằng chúng ta
nên cúng dường Phật để hình dung như Ngài còn tại thế, nhưng nếu
chúng ta, mỗi khi cúng Phật, lại bày biện đủ thức ăn uống, nào
yến tiệc cỗ bàn linh đình thì thật là phí của, phí công mà lại
còn làm sai lạc ý nghĩa sâu xa của sự cúng Phật. Vậy muốn cúng
Phật đúng ý nghĩa thì chỉ nên dùng hương thơm, đèn sáng, hoa
tươi, trái tốt, nước trong và đôi khi thêm cơm trắng là đủ.
- 3.- Năm
món diệu hương để cúng Phật. Ðoạn trên là nói về Sự, về hình
tướng bên ngoài để cúng Phật. Còn về phương diện Lý, thì phải
dùng năm món diệu hương để cúng Phật như sau:
- a) Giới
hương.- Pháp thân của Phật rất thanh tịnh, nếu về mặt Sự,
chúng ta đã dùng hương trầm đốt cúng, thì về mặt Lý, chúng ta
cũng phải trì giới cho trang nghiêm thanh tịnh, để cúng dường
được đủ cả về Sự và Lý.
- b) Ðịnh
hương.- Thân tâm chúng ta bị mê nhiễm và thường loạn động
trong mọi hoàn cảnh. Nếu để buông trôi mãi trong tình trạng ấy,
thì chúng ta chẳng tu hành gì được. Vậy hằng ngày, hằng giờ,
hằng phút, hằng giây, hằng sát na chúng ta phải cố
gắng tập định tĩnh tâm hồn, đừng để cho những ý nghĩ, hành động
xấu xa xâm chiếm tâm hồn và làm cho chúng ta phải loạn động. Làm
cho tâm tư lắng xuống, như thế là dùng Ðịnh hương cúng Phật.
- c) Huệ
hương.- Huệ hương cúng Phật là lúc nào cũng phải lưu tâm vào
ba món sáng tỏ: Văn huệ, Tư huệ, và Tu huệ. Văn huệ là lắng nghe
lời giáo hóa quý báu của Chư Phật và Thánh Hiền Tăng, Tư huệ là
đem những lời quý báu nói trên ra suy xét, nghiền ngẫm, biết thế
nào là phải, thế nào là quấy, cái nào là chân thật, cái nào là
luống dối để khỏi lầm lạc vào đường tà; Tu huệ là quyết tâm thực
hành những điều mình cho là phải, trừ bỏ những điều mình cho là
trái, thực hiên đ1ung đắng giáo lý
sáng suốt của Ðức Phật.
- d) Giải
thoát hương.- Giải thoát hương cúng Phật là quyết tâm phá
trừ ngã chấp, nguồn gốc của bao sự đau khổ luân hồi. Chúng ta
phải luôn luôn quán vô ngã, không nhận chiếc thân tứ đại này là
mình, cũng không nhìn cái nghiệp thức phân biệt là mình, để được
thoát ly ra ngoài vòng sanh tử luân hồi.
- e) Giải
thoát tri kiến hương.- Chúng ta đã biết quán vô ngã, để phá
trừ ngã chấp thì được giải thoát, song vẫn còn "Pháp chấp" ràng
buộc, nên chưa đến được cảnh giới tự tại, vô ngại như Phật. Còn
Pháp chấp nghĩa là còn thấy các pháp như : đất, nước,
gió, lửa là có thật; còn thấy vui buồn sướng khổ là có thật. Khi
nào chúng ta thể nhận được rằng tứ đại sở dĩ in tuồng có thật là
vì chúng ta còn ở trong nghiệp người, chớ đối với các loài khác,
như cá chẳng hạn, thì nước đâu phải là nước như chúng ta
quan niệm, mà chính là lâu đài, nhà cửa; đối với loài mọt, thì
gỗ đâu phải như chúng ta quan niệm, mà là những thức ăn và nhà
ở. Cho đến vui, buồn, sướng, khổ đều là đối đãi với nhau mà sanh
ra. Vậy thì Pháp cũng như Ngã, đều là giả dối, không có thật, mà
chỉ là những danh từ suông mà thôi. Luôn luôn, quán như thế, để
được giải thoát ra khỏi sự chấp Pháp, như thế gọi là "Giải thoát
tri kiến hương" cúng Phật.
- 4.- Cúng
dường Pháp bảo: Pháp bảo là các Pháp của Phật đã giảng dạy, để
cho chúng sanh y theo đó mà tu hành. Muốn cúng dường Pháp bảo,
trước hết chúng ta phải học Kinh, Luật, Luận va nghiên cứu giáo
lý để nhận định thế nào là Pháp bảo,
là chánh giáo. Nếu chúng ta có học thực rộng thì phải nghĩ đến
việc phiên dịch các Kinh điển Ngoại ngữ ra Việt ngữ để hoàn
thành một bộ Tam Tạng Việt Nam, chúng ta có thể giúp vào việc
hoằng pháp lợi sanh bằng sự diễn giảng hay sáng tác những
vấn đề có liên quan đến Phật pháp. Nếu chúng ta có tài chánh thì
nên xuất tiền ra ấn tống hay xuất bản Kinh điển để phổ thông
Pháp bảo. Những việc làm như trên đều là cúng đường Pháp bảo cả.
- 5.- Cúng
dường Tăng bảo: Nếu chúng ta đã thành tâm thờ cúng Phật, thì tất
nhiên chúng ta phải kính trọng Tăng. Chư Tăng đã thay Phật mà
truyền giáo lý của Ngài lại cho chúng ta, lẽ nào chúng ta lại
làm ngơ không biết đến? Chúng ta không nên phân biệt Tăng ở xứ
nào, chùa nào hay phái nào. Vị Tăng nào có đủ giới đức chúng ta
cũng sẵn sàng cung phụng cả, như thế gọi là cúng dường Tăng bảo.
-
C.- Kết Luận:
- 1.- Lợi
ích của sự thơ lạy và cúng Phật. Như các đoạn trên đã nói,
chúng ta thờ lạy và cúng Phật là do lòng tri ân sâu xa của chúng
ta đối với bậc đã hy sinh tất cả hạnh phúc vĩnh cửu cho chúng
sanh; Lý do thứ hai của sự thờ lạy và cúng, ấy là để cho chúng
ta luôn luôn có trước mắt, trên đầu chúng ta, một cái gương mẫu
hoàn toàn chân, thiện, mỹ để noi theo. Sự thờ lạy và cúng Phật,
nếu thực hành một cách thành tâm, thiện chí và đúng ý nghĩa, thì
sẽ đem lại cho người rất nhiều lợi ích trong hiện tại và vị lai:
- a) Trong
hiện tại: mỗi chúng ta và gia đình chúng ta, bao giờ cũng
như sống trong bầu không khí xán lạn, trong ảnh hưởng tốt lành,
đạo vị của Chư Phật. Chúng ta luôn luôn sống trong nghiêm chỉnh,
trong lễ nghi, trên thuẫn dưới hòa, vì mỗi ý nghĩ, mỗi cử chỉ,
mỗi lời nói của chúng ta đều được đôi mắt sáng suốt của Ðức Phật
soi xuống. Chúng ta không dám sống bừa bãi, làm xằng, nghĩ quấy
khi Ðức Phật đang ngự trị trong gia đình và trong lòng mỗi chúng
ta. Chỉ những tâm hồn trống rổng, không tin tưởng, không tôn thờ
một vị thiêng liêng cao cả nào, mới dễ sa ngã, trụy lạc. Cho nên
trong gia đình, nếu muốn có hạnh phúc trong hiện tại, muốn sống
một đời sống có ý nghĩa, muốn con em đừng bê tha, trụy lạc, thì
người gia chủ nên thiết bàn Phật, để ngày ngày lễ bái và cúng
dường Ngài và tập cho con em sống một đời sống hiền lương và có
đạo vị.
- b) Khi lâm
chung: Nghiệp lành mà chúng ta đã huân tập trong hằng ngày
sẽ cảm ứng đến lòng từ bi vô hạn của Chư Phật và Bồ tát. Do
"Luật đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu", Chư Phật và
Bồtát s sẽ phóng quang đến tiếp dẫn giác linh chúng ta về cõi
Tịnh độ an vui, tự tại.
- 2.- Khuyên
phát tâm chánh tín trong sự thờ, lạy và cúng Phật, Pháp, Tăng.
Muốn có được kết qủa tốt đẹp như trên, chúng ta phải phát tâm
chánh tín. Nếu thờ, lạy và cúng dường Ram bảo một cách sai lạc
thì không những không ích lợi gì cho ta mà lại còn mang thêm
tội, và trôi lăn mãi trong cảnh sanh tử luân hồi. Chúng ta phải
tin tưởng một cách mạnh mẽ rằng:
- a) Ðức Phật
là bậc hoàn toàn gíac ngộ, siêu sanh, thoát tử, có năng lực độ
thoát chúng sanh khỏi nẻo luân hồi, và xứng đáng làm thầy chúng
sanh trong ba cõi. Vì thế nên chúng ta thờ Ngài.
- b) Phật pháp
là phương thuốc thần diệu, trừ được tất cả nguyên nhân đau khổ
của chúng sanh; vì thế cho nên chúng ta thờ Phật pháp.
- c) Chư Tăng,
nếu có đủ giới hạnh thanh tịnh, là những Thầy sáng, bạn lành của
chúng ta. Vì thế, chúng ta kính thờ, thân cận các Ngài để học
hỏi đường lối tu hành.
- d) Tất cả
chúng sanh đều có Phật tánh sáng suốt, nếu chí tâm tu tập theo
Phật pháp, thì chắc chắn sẽ thành Phật.
- e) Lý nhân
qủa không hề sai chạy, nếu tâo nhân lành thì hưởng qủa tốt.
Trong các nhân lành, không có nhân lành nào thù thắng hơn là
nhân "Thờ Phật, lạy Phật, và cúng dường Tam Bảo", đủ cả sự và
lý. Vẫn biết thờ, lạy và cúng phật đủ cả hai
phương diện sự và lý là khó, nhưng chung quanh chúng ta, ở trong
thế giới này sẵn có vô lượng vô biên kim cương Bồtát và Hộ pháp
thần vương, đồng phát tâm giúp đỡ, hộ niệm cho tất cả những
người phát tâm chánh tínm thờ cúng Phật, thì lo gì công
của chúng ta không tròn, qủa của chúng ta không mãn?
--o0o--
|
|