-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Phật
Học Phổ Thông
- Khóa Thứ
Hai
Thiên
Thừa Phật Giáo
- --- o0o ---
- Bài Thứ 8
- Tứ Nhiếp
Pháp
-
A. Mở Ðề
- Tu hạnh lợi
tha nhiếp hóa chúng sinh là bổn phận của Bồ Tát
- Ðức Phật ra
đời nhằm mục đích cứu đôĩ chúng sinh ra khỏi vòng sanh tử luân
hồi.
- Người Phật tử
theo dấu chân Phật tất phải tập làm những gì đức Phật đã làm.
Trong khi tu hành, Phật tử không bao giờ nên quá chú trọng đến
mình mà quên người, không nên chỉ lo giác ngộ cho mình mà không
tìm cách giác ngộ cho người. Trong đạo Phật, mình với người là
một khối, mình không khác người, không thể phân chia ra được.
Càng lo tự lợi chừng nào lại càng đi ngươch với sự tu hành chừng
ấy. Trái lại, càng hy sinh cho người, càng chú trọng đến lợi
tha, lịa càng mau chứng ngộ chừng ấy.
- Phật có vô
lượng phương pháp cứu độ chúng sanh, chúng ta muốn áp dụng
phương pháp nào cũng được. Song muốn có kết quả cụ thể, chúng ta
phải tùy theo căn cơ, hoài bão của chúng sanh mà kựa pháp môn tu
hạnh lợi tha. Ðối với người đồng loại, chúng tôi tưởng không có
phương pháp nào có hiệu quả thiết thực lợi ích cho người và làm
cho người cảm hóa sâu xa bằng pháp môn Tứ nhiếp pháp.
-
B. Chánh Ðề
- I. Ðịnh Nghĩa
- Tứ nhiếp pháp
là gì? Tức là bốn phương pháp lợi tha để nhiếp phục chúng sanh
quay về với Phật pháp.
- Bốn phương
pháp đó là:
- Bố thí nhiếp
- Aùi ngũ nhiếp
- Lợi hành
nhiếp
- Ðồng sự nhiếp
- II. Hành
Tướng Của Tứ Nhiếp Pháp
- 1. Bố thí
nhiếp:
- Một xã hội
tốt đẹp hay xấu xa, hòa bình hay hỗn loạn không phải là không
nguyên nhân. Nguyên nhân của hỗn loạn xấu xa chính là lòng ích
kỷ. Nhân loại đang quằn quại trong khổ đau, những cảnh nồi da
xáo thịt, tái diễn hằng ngày là do đâu, nếu không phải chính là
lòng tham lam ích kỷ?
- Ðạo Phật là
đạo từ bi, nghĩa là cứu khổ. Mà những nỗi khổ lớn của con người
là gì? Ðó là sự thiếu thốn về vật chất sự mê mờ về tinh thần, và
lòng lo sợ về đủ mọi thứ, như lo sợ mất tiền của, mất thân mạng,
gặp tai biến v.v...
- Vậy người có
lòng từ bi, muốn cứu khổ thì trước tiên phải xả bỏ tánh ích kỷ,
phải cho mọi người những gì mình có, phải cho những gì người
khác mong muốn. Nghĩa là phải làm hạnh bố thí. Do sự bố thí ấy
mà mình cảm phục được người chung quanh, mà người chung quanh
mới gần gũi thân mến mình và mong cầu học đạo giải thoát. Bố thí
có 3 lối:
- Tài thí, Pháp
thí và Vô úy thí.
- a) Tài thí:
Tài là tiền của. tài thí là đem tiền của mà bố thí, để cứu vớt
người đồng loại thoát khỏi đau khổ. Cảnh khổ của chúng sinh về
vật chất không thể kể xiết: người thiếu cơm, kẻ thiếu áo, người
thiếu thuốc thang, kẻ thiếu nơi nương náu...Ðứng trước bao cảnh
khổ ấy, người Phật tử không thể nào an nhiên hưởng sự súng sướng
riêng được, mà trái lại thấy mình có bổn phận xuất của, ra công
giúp kẻ nghèo khổ, thiếu hụt.
- Ðừng viện cớ,
hay tưh an ủi, mình nghèo không có của tiền giúp đỡ người chung
quanh. Thật ra miễn là mình có từ tâm hay không, chứ không phải
mình hoàn toàn thiếu phương tiện để giúp đỡ người khác. Một chén
cơm vẫn có thể chia hai được, một manh chiếu vẫn còn đủ chỗ cho
thêm một người nằm được. Người ta thường nói: "chật bụng chớ
chật chi nhà", là thế. Người triệu phú đem cho năm, bảy ngàn bạc
không làm cho người ta cảm phục, quý mến bằng người nghèo chỉ có
hai bộ quần áo, mà đem cho bớt đi một bộ.
- b) Pháp thí:
Pháp là giáo pháp, là những lời dạy, những giáo lý của đức Phật
và các bậc Thánh Hiền Tăng, là tam tạng kinh điển. Pháp thí là
đem những giáo pháp quý báu ấy mà bố0thí, giảng dạy cho chúng
sinh.
- Chúng sinh
đang mê mẫn, xoay vần trong sáu cõi, gây nghiệp rồi thọ báo,
khác nào tỉnh mộng rồi lại mơ. Trong lúc mộng nào biết có mơ, cứ
lăn lộn vào đường ái, như bướm đâm đầu vào đèn. Vì thế, đức Phật
mới đem giáo pháp ra giảng dạy khiến cho chúng sinh ra khỏi biển
khổ luân hồi.
- Pháp của Phật
nhiều vô số lượng, cao nhiêu cũng có, thấp bao nhiêu cũng có, đủ
cỡ, đủ loại chomọi căn cơ. Dù người nước nào, bực nào, căn cơ
cao hay thấp, sáng hay tối, một khi nghe đến pháp của Phật, tùy
sức đều được hiểu cả. Nên trong kinh cí câu: "Phật thuyết nhất
âm, chúng sinh tùy loại các đắc giải".
- Chúng ta đừng
viện cớ mình còn kém Phật pháp, không thể làm công việc thí pháp
được. Như trên dã nói, Pháp Phật có vô số lượng pháp môn, nếu
không biết được pháp môn cao thâm, thì cũng biết được pháp môn
thông thường. Mỗi Phật tử ít ra cũng biết tụng kinh, niệm Phật,
lễ Phật, ăn chay. Chúng ta đem những điều ấy chỉ bảo cho người,
thế cũng là thí pháp rồi. Nếu làm những điều ấy với tấm lòng
chan thật, hoan hỷ, cố mong sao cho người chung quanh đi đến với
đạo để được lợi ích, thì sự thí pháp ấy còn đáng quí hơn là
giảng những giáo lý cao với một thái độ dửng dưng hay tự cao tự
đại.
- Tuy thế, đã là Phật tử thì chúng
ta có bổn phận phải luôn luôn trao dồi, học hỏi để biết rộng
hiểu nhiều, hầu tự giải thoát và để công việc thí pháp của chúng
ta được hiệu quả hơn, phổ biến rộng rãi hơn và ứng dụng trong
mọi trường hợp.
- Thí pháp càng
lan rộng, thì người xu hướng về với Phật pháp càng nhiều và cõi
đời càng bớt đau khổ.
- c)Vô úy thí:
Vô úy là không sợ hãi. Vô úy thí là đem cái không sợ mà thí cho
chúng sinh. Sự sợ hãi là một tâm trạng rất thông thường của
chúng sinh trong cõi đời giả tạm và đầy đau khổ này. Vậy người
có lòng từ bi, phải cố gắng làm sao cho chúng sinh chung quanh
có được sự bình tĩnh, yên ổn của tâm hồn, không hoang mang lo
lắng, sợ hãi.
- Vô úy thí,
không phải chỉ những người có can đảm, có tài năng, có uy quyền
mới làm được. Hằng ngày chung quanh ta, biết bao người đang ở
trong cảnh sợ hãi; nếu thật chúng ta có lòng từ muốn giúp đỡ cho
họ khỏi sợ hãi thì không có lúc nào là không thẻ làm được: một
đứa bé đang kinh hãi trước hàm răng của con chó dữ; một bà lão
lo sợ bị xe cán không dám băng qua đường nhiều xe cộ; một thiếu
nữ đi đêm "sợ ma"; một htí sinh run rẩy trước giờ vấn đáp
v.v...đó là bao nhiêu cơ hội mà chúng ta có thể thi hành pháp Vô
úy thí. gặp người bị tai nạn, ta đem tài năng hay thế lực ra đùm
bọc, che chở, cho họ khỏi sợ hãi; gặp người đau ốm, lo sợ thần
chết mang đi, ta lấy luật vô thường giảng giải cho họ và bảo họ
niệm đức Quan Thế Âm Bồ Tát hay Phật A Di Ðà v.v...đó là Vô úy
thí.
- Tóm lại, bố
thí là do lòng từ bi vô hạn mà làm. Nó có một phạm vi rộng rãi
vô cùng. Khi nào còn có chúng sanh đau khổ thì ta còn bố thí.
- Hình thức cao
nhất của bố thí là bố thí Ba la mật, nghĩa là bố thí rất nhiều
mà không thấy mình có bố thí; bố thí mà không phân biệt thân sơ,
không chấp ta, người, thù, bạn; bố thí mà không chấp số lượng
những vật thí. Như thế là ta đã thành tựu pháp "Tam luân không
tịch" về bố thí. Khi ấy, bố thí không còn là một việc làm phúc
hay ban ân nữa, mà chính là một việc tự nhiên, không thể bỏ qua
được như ăn, như uống, như một bổn phận nhất định hàng ngày.
- Vậy đã là
Phật tử thì không thể nào không thi hành pháp bố thí được. Sự
thi hành này tùy phương tiện, tài năng, thẻ lực của mình, và ở
trong hoàn cảnh nào cũng làm được, chứ không phải đợi có đủ một
số điều kiện nào đó mới làm được. Miễn là ta càng cố gắng giúp
ích, cứu khổ cho người được chừng nào thì quí chừng ấy.
- 2.Ái ngữ
nhiếp:
- Aùi ngữ nhiếp
là tùy theo căn cơ tánh chúng sanh mà khôn khéo nói năng, an ủi,
khuyên lơn, nhân thế khiến cho họ sinh lòng thân mến, cảm phục,
rồi từ đó họ mới theo ta mà học đạo.
- Ở đời phần
nhiều người ỷ của, cậy quyền, đối với mọi người dùng lời không
tao nhã, nên làm cho người chung quanh chán ghét. Một khi họ
không yêu mến, cảm phục, thì tuy trước mặt họ dạ dạ, vâng vâng,
mà sau lưng lại không chịu phục tùng, nghe theo. Vì thế, nhiều
việc phải bị hư hỏng.
- Tục ngữ có
câu: "Lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng
nhau". Thật thế, lời nói là một của báu mà mọi người đều có cả,
không phân biệt giàu, nghèo, sang, hèn. Nhưng cũng lời nói ấy
người nầy sử dụng thì nên công việc, còn người kia sử dụng thì
lại tán gia bại sản. Sở dĩ như thế là vì một bên biết lựa lời ăn
nói dịu dàng, dễ nghe, còn một bên cộc cằn, thô tục. Nhiều
người, tự bào chữa, thường bảo: "Tánh tôi ngay thẳng và có hơi
nóng, nên hay ăn to nói lớn, chứ thật ra tôi không có ác ý".
- Không có ác
ý, nhưng làm cho người chung quanh phải đau khổ, khó chịu vì lời
nói khiếm nhã, thô bạo của mình, thì có khác gì người ác?
- Vậy Phật tử
chúng ta muốn cảm hóa, dẫn dắt người chung quanh về con đường
chánh, trước tiên phải áp dụng cho được phái ái ngữ, nghĩa là
luôn luôn và trong mọi trường hợp, phải dùng lời dịu dàng, êm
ái, thương yêu trong khi tiếp xúc với mọi người. Nhất là khi
người ta đang ở trong cảnh khổ, thì những lời khuyên lơn, vỗ về
lại càng vô cùng quí báu, vì có thể thoa dịu được vết thương
lòng và làm cho người ta vô cùng cảm kích, khó mà có thể phai mờ
được.
- 3. Lợi hành
nhiếp:
- Lợi hành
nhiếp là làm lợi ích cho người bằng ý nghĩ, lời nói hay hành
động, khiến cho người ta sinh lòng thân mến mà theo ta học đạo.
- Cái gương
sáng nhất về phương diện lợi hành làcái gương Ngài Trì Ðịa Bồ
Tát. Suốt đời, Ngài thường gánh đất đắp đường, ban cho bằng
phẳng, hoặc bắc cầu để cho khách bộ hành đi lại được dễ dàng
tiện lợi. Ngài thay người già gánh nặng, đẩy giúp cỗ xe lên dốc
cao, chèo giúp cho người lái thuyền ngược nước...
- Tóm lại, bất
luận việc lớn nhỏ, miễn giúp ích được cho người là Ngài không
bao giờ từ nan. Xem thế, thì không cần phải đợi có dủ phương
tiện mới làm lợi ích cho người được. Chỉ với một ít sức khỏe
cũng có thể giúp được nhiều việc lợi ích cho người rồi.
- Có khi chỉ cần một ý nghĩ tốt,
một lời giới thiệu hay cũng có thể giúp cho người chung quanh có
công ăn việc làm.
- Ðối với người
giàu có, nhiều phương tiện thì phạm vi hoạt động cho lời hành
lại càng rộng rãi. Họ có thể xuất tiền của ra làm nhà dưỡng lão,
nuôi người tuổi già sức yếu, để tuổi già của họ bớt đen tối,
nguy nan; hay họ xây viện dục anh, nuôi trẻ mồ côi cha mẹ, cho
chúng học hành và có nghề nghiệp, huấn luyện cho chúng thành
những công dân hữu dụng. Hay dựng trại tế bần, cấp dưỡng cơm ăn
áo mặc cho kẻ đói khó, hay dựng bệnh xá để cứu chữa những kẻ
bệnh tật; hay xây trường học giúp con em có nơi học hành. Ðó là
bao nhiêu công việc vô cùng lợi ích, vừa cho đời vừa cho đạo.
Những công việc lành ấy sẽ cảm hóa lòng người và hướng họ trở về
con đường giải thoát là con đường của đạo Phật.
- 4. Ðồng sự
nhiếp:
- Ðồng sự nhiếp
là tùy theo căn cơ, hoài bão, địa vị, nghề nghiệp của người mà
lặn lội vào công việc của họ, cộng tác với họ, để một mặt giúp
đỡ họ trong nghề nghiệp, một mặt nêu cao gương lành, làm cho họ
cảm mến mà theo ta đến gần đạo cả.
- Chẳng hạn như
khi ta cùng làm việc trong một công sở, trong một xí nghiệp,
trong thương trường hay trong nông nghiệp, mà từ việc lớn cho
đến việc nhỏ, từ ý nghĩ cho đến câu nói, ta luôn luôn nêu gương
đạo đức, tận tâm tận lực làm việc, sẵn sàng hy sinh quyền lợi
mình, cho bạn đồng nghiệp, dần dần những người cộng sự, sẽ tiêm
nhiễm những đức tánh tốt đẹp của ta, sẵn sàng nghe theo, làm
theo những điều ta khuyên bảo.
- Ðồng sự
nghiệp, là một phương pháp có hiệu quả nhất để nhiếp hóa người
chung quanh quay về con đường đạo. Bố thí nhiếp, ái ngữ nhiếp
hay lợi hành nhiếp, mặc dù đều cảm hóa được người, nhưng không
thường trực và không có ảnh hưởng sâu xa như đòng sự nhiếp.
Chẳng hạn như người được ta bố thí, hay lợi hành, thì không phải
lúc nào cũng ở bên cạnh ta, mà chỉ thỉnh thoảng mới được ân huệ
ấy; còn ái ngữ thì chỉ hạn cuộc trong lời nói; mà lời nói dù có
hay ho êm dịu bao nhiêu, cũng không thể biến thành cơm thành áo,
thành những nhu cầu thiết yếu cho cuộc sống đau khổ, thiếu thốn
của người chung quanh được.
- Nhưng với
đồng sự nhiếp, ta có thể giúp đỡ một cách thiết thực và thường
xuyên cho những người cùng sống trong một hoàn cảnh một nghề
nghiệp với ta. Ta luôn luôn gần gũi chung đụng với họ, nên ta
thấu rõ những hoài bão, tâm trạng, nhu cầu của họ; nhờ thế ta có
thể giúp ích cho họ một cách có hiệu quả hơn. Ta trở thành một
cột trụ chính cho họ nương tựa; vì thế ta có thể nhiếp hóa họ dễ
dàng, sâu xa hơn. Một sự nhận xét thông thường là ở đâu, công sơ
hay tư sở, nhà máy hay nông trường, hễ có một Phật tử chân
chính, thuần thành, gương mẫu, thò ở đó số người theo Phật càng
ngày càng đông, càng mạnh.
- III.Lợi Ích
Của Tứ Nhiếp Pháp
- Nếu ta thực
hành đúng theo tứ nhiếp Pháp ta sẽ thấy những kết quả đẹp đẽ sau
đây:
- 1. Về phương
diện cá nhân:
- Ta sẽ là một
con người gương mẫu; mỗi ý nghĩ, mỗi lời nói, mỗi hành động của
ta đều là một hạt giống thiện gieo vào ruộng phước mà sau nầy ta
sẽ gặt được những kết quả quý báu, tốt lành. Những gì của ta nói
ra, làm ra đều được thông cảm, tán thành, mến phục. Ta có thể
thu hút nhân tâm một cách dễ dàng, rộng rãi, và mỗi khi đi đến
đâu, ta đều được tiếp đón một cách chân thành, nồng nhiệt. Do
đó, ta sẽ dễ dàng thành công trong mọi việc.
- 2. Về phương
diện gia định:
- Khi người
ngoài, xã lạ mà còn mến phuc, thương yêu ta, thì sao cha mẹ, vợ
con, anh em là những người thân thuộc lại không quý mến ta được?
Do ảnh hưởng tốt đẹp vbà uy tín của ta, mọi người trong gia đình
đều trở thành thuần lương, đức độ cả. Và một gia đình gồm những
phần tử như thế, thì thể nào cũng được trên thuận dưới hòa,
trong ấm ngoài êm, nghĩa là có hạnh phúc.
- 3. Về phương
diện xã hội:
- Một người tu
hạnh tứ Nhiếp pháp cũng đã gây được ảnh hưởng tốt lành và hoán
cải được một phần nào hoàn cảnh xa hội. Số người tu Tứ Nhiếp
Pháp cành nhiều thì xã hội lại càng được cải tiến, và trở thành
thuần lương, thiện mỹ.
- Người ta
thường trách đạo Phật là tiêu cực yếm thế. Những lời chỉ trích
sai lầm ấy, chỉ đem một giáo lý Tứ Nhiếp Pháp nầy ra chứng minh,
cũng đủ đánh đổ được ngay. Thật vậy, nếu áp dụng triệt để tứ
Nhiếp Pháp vào cuộc đời thực tế, thì xã hội sẽ được cải tiến một
cách vô cùng lợi lạc.
-
C.Kết Luận
- Như trên đã
nói, Tứ Nhiếp Pháp là một pháp môn để cải tiến xã hội một cách
có hiệu quả nhất. Nó lấy lợi sanh làm căn bản, lấy hạnh phúc của
chúng sanh làm mục đích. Ðây chúng ta hãy nhớ lại từng điểm một:
- 1) Hãy đem
của cải giúp cho người túng thiếu, tật nguyền, đem Phật pháp
giảng nói để chomọi người cải ác tùng thiện, đem dũng lực tinh
thần hay vật chất để che chở cho người chung quanh khỏi lo sợ.
- 2) hãy nói
lời ôn hòa nhã nhặn, để cảm hóa người ta đi theo con đường lành.
- 3) Hãy làm
lợi ích chomọi người trong mọi trường hợp.
- 4) hãy hòa
mình trong cuộc sống, trong công việc của người chung quanh, để
nhận rõ được người nhu cầu thiết tha của họ, hầu giúp đỡ họ một
cách có hiệu quả, và đưa dần dần họ về con đường chính.
- Vậy là Phật
tử, chúng ta không thể dửng dưng trước những lời kêu gọi lợi tha
ấy được.
- Nếu chúng ta
làm ngơ, chúng ta chưa phải là Phật tử chân chính, vì chúng ta
đã thiếu hai yếu tố quan trọng nhất để tu hành: đó là lòng từ bi
và lợi tha. Thiếu hai điểm ấy không bao giờ chúng ta có thể tiến
triển trên đường đạo và thành Phật được.
--o0o--
|
|