-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Phật
Học Phổ Thông
- Khóa Thứ
Ba
Thinh
Văn Thừa Phật Giáo
- --- o0o ---
- Bài Thứ 3
- Tập Ðế
(Sameda Dukkha)
-
A. Mở Ðề
- Vì Sao
Phật Nói Khổ Ðế Trước và Tập Ðế Sau
- Trong Khổ đế,
chúng ta đã thấy rõ những nỗi thống khổ của trần gian. Trước
những nỗi khổ ấy, không ai là không nhàm chán, ghê sợ cho cuộc
đời ở cảnh giới Ta Bà nầy, và không ai có thể an tâm, điềm nhiên
sống trong cảnh ấy. Nhiều câu hỏi liền nẩy ra trong đầu óc chúng
ta: Vì đâu sanh ra những nỗi khổ ấy? Ta có thể thoát ra khỏi
móng vuốt của chúng để sống ở một cảnh giới đẹp đẽ hơn chăng? Và
thoát ra bằng cách nào?
- Ðó là những
câu hỏi mà đức Phật sẽ lần lượt giải đáp một các tường tận ở ba
phàn: Tập, Diệt và Ðạo đế.
- Ngay trong
phần Tập đế nầy, đức Phật giải đáp câu hỏi thứ nhứt của chúng ta
là nói rõ nguyên nhân của đau khổ.
- Ðức Phật rất
rành tâm lý của chúng sanh, nên mới nêu lên cái khổ trước rồi
mới nói cái nhân sau. Nếu vào ngay đầu, Ngài nói: "Nầy các ngươi
! hãy nghe ta nói rõ những nguyên nhân sanh ra đau khổ đây !"
Nếu Ngài bảo như thế, chắc chúng ta sẽ không chú ý nghe cho lắm,
vì chúng ta, mặc dù là sống trong bể khổ, những vì mê mờ, chúng
ta có thấy một cách tường tận và rùng rợn tất cả những nỗi khổ
của cảnh Ta Bà đâu? Có nhiều khi chúng ta còn cho cảnh giới nầy
là vui nữa là khác. Do đó, chúng ta không thiết tha đi tìm
nguyên nhân phát anh đau khổ. Chỉ khi nào chúng ta đã ý thức một
cách sâu sắc những nỗi khổ sở của chúng ta, khi ấy chúng ta mới
thấy sự băn khoăn khẩn cấp đi tìm đường tự giải cứu cho chúng
ta. Và muốn tự giải cứu, tất chúng ta cầm tìm xem vì đâu mà có
đâu khổ; như vị lương y, muốn trị bệnh, trước phải tìm hiểu
nguyên nhân sinh bệnh.
- Nguyên nhâ
sinh bệnh khổ đâu của chúng sanh, đức Phật gọi là Tập đế.
-
B. Chánh Ðề
- I. Ðịnh
Nghĩa
- Tập đế: Tập
là chứa nhóm, dồn thêm mỗi ngày mỗi nhiều hơn lên. Ðế là sự thật
vững chắc, đúng đứn hơn cả. Tạp đế là sự thật đúng đắn, vững
chắc về nguyên nhân của những nỗi khổ đã chứa nhóm, tích trữ lâu
đời, lau kiếp trong mỗi chúng sanh. Ðó là sự thật về cội gốc của
sanh tử, luân hồi, của bể khổ trần gian.
- II. Nguyên
Nhân Của Ðau Khổ Là Những Gì?
- Phật dạy: Cội
gốc của sanh tử luân hồi do các phiền não mê lầm là những dục
vọng xấu xa, những ý niệm sai quấy, làm não loạn thân tâm chúng
ta.
- phiền não rất
nhiều, nói rộng thì đến tám muôn bốn ngàn (84.000), nói hẹp lại
thì có mười phiền não gốc, gọi là căn bản phiền não. Do mười
phiền não gốc nầy mà sanh ra vô số phiền não ngành ngọn (xin xem
quyển Tu Tâm). Mười phép phiền não gốc là:
- 1. Tham:
nghĩa là tham lam. Tánh tham có động lực bắt ta phỉ dòm ngó,
theo dõi những cái gì nó ưa thích, như tiền tài, danh vọng,
miếng ăn, chỗ ở v.v...rồi nó xúi ta lập mưu nầy, chước nọ để tầm
kiếm cho được những thứ ấy. Ðiều tai hại nhất là lòng tham không
có đáy, thâu góp bao nhiêu cũng không vừa; được một muốn có
mười, được mười muốn có trăm. Tham cho mình chưa đủ, còm tham
cho bà con quyến thuộc và xứ sở của mình. Cũng vì tham mà cha mẹ
vợ con xung đột; cũng vì tham mà bè bạn chìa lìa; cũng vì tham
mà đồng bào trở lại xung đột, xâu xé nhau; cũng vì tham mà chiến
tranh tiếp diễn, giết hại không biết bo sanh linh. Tóm lại, cũng
vì tham mà nhân loại, chúng sanh chịu không biết bao nhiêu điều
thống khổ.
- Tham không những hại cho mình và
cho người, trong hiện tại mà cả đến tương lai nữa.
- 2. Sân:
nghĩa là nóng giận. Khi gặp những cảnh trái ý nghịch lòng, như
lòng tham không được toại nguyện, thì sân nổi lên, như một ngọn
lửa dữ đốt cháy lòng ta. Thế là mặt mày đỏ tía hay tái xanh, bộ
dạng thô bỉ, nói năng hung dữ, có khi dùng đén võ lực hay khí
giới để hạ kẻ đã làm trái ý, phật lòng ta. Vì nóg giận mà cha
mẹ, vợ con, anh em xa lìa, bạn bè ly tán; vì nóng giận mà đồng
bào trở nên thù địch, nhân loại đua nhau ra chiến trường; vì
nóng giận mà kẻ bị tàn tật, người vào khám đường, kẻ mất địa vị,
người tan sự nghiệp. Kinh Hoa Nghiêm chép: "Nhất niệm sân tâm
khởi, bách vạn chướng môn khai", nghĩa là một niệm sân hận nổi
lên, thì trăm ngàn cửa nghiệp chướng đều mở ra. Sách Phật chép:
"Nhất tinh chi hỏa, năng thiêu vạn khoảnh công đức chi sơn",
nghĩa là một đóm lửa giận, có thể đốt hết muôn mẫu rừng công
đức. Thật vậy, lửa sân hận đã bừng cháy lên giữa lòng nhân loại,
và đã đốt thiêu không biết bao nhiêu là công lao, sự nghiệp mà
nhân loại đã tốn bao nhiêu mồ hôi và nước mắt để tạo nên.
- 3. Si:
nghĩa là si mê, mờ ám. Si như là một tấm màn dày đặc, đen tối
trùm lên trí huệ của ta, làm cho ta không thể nhìn thấy được sự
thật, phán đoán được cái hay, cái dỡ, cái tốt, cái xấu. Do đó,
ta gây ra không biết bao nhiêu tội lỗi, làm hại mình, hại người
mà không hay. Vì si mà lòng tham trở thành không đáy, bởi vì nếu
người sáng suốt thấy cái tai hại của tham, thì người ta đã kềm
hãm được một phần nào tánh tham. Vì si mà lửa sân tự do bùng
hcáy; nếu người sáng suốt biết cái tai hại của lửa sân thì không
để cho nó hoành hành như thế. Tổ sư đã dạy: "Bất úy tham sân
khởi, duy khủng tự giác trì". Nghĩa là không sợ tham và sân nổi
lên, mà chỉ sợ mình giác ngộ chậm. Nói một cách dễ hiểu hơn:
Không sợ tham và sân, mà chỉ sợ si mê. Thật đúng như thế: Nếu
tham, sân nổi lên, mà có trí sáng suốt ngăn chận lại, thì tham,
sân không có trí huệ, sáng suốt thì tham, sân không thể tồn tại
được; như khi đã có ánh sáng mặt rời lên, thì bóng tối tất nhiên
phải tự tan biến.
- Ba tánh tham,
sân, si này, Phật gọi là ba món độc; vì do chúng nó mà chúng
sanh phải chịu nhiều kiếp sanh tử luân hồi, đọa vào địa nghục,
ngạ quỉ và súc sinh.
- 4. Mạn:
nghĩa là tự nâng cao mình lên và hạ người khác xuống; tự tháy
mình lag quan trọng mà khinh rẻ mọi người; ỷ mình có tiền của,
tài trí hy quyền thế mà dương dương tự đức, mục hạ vô nhân,
khinh người già cả, hỗn láo với người đức hạnh, chà đạp người
dưới, lấn lướt người trên.
- Vì lòng ngã
mạn cho mình là hơn hết, nên chẳng chịu học hỏi thêm, không nghe
lời nói phải. Do đó, làm nhiều điều lầm lẫn sai quấy, phước lành
tổn giảm, tội lỗi càng tăng, phải chịu sanh tử luân hồi không
bao giờ cùng.
- Mạn có bảy thứ:
- a) Mạn: hơn
người ít, mà nghĩa mình hơn nhiều.
- b) Ngã mạn: ỷ
mình hay giỏi mà lấn lướt người.
- c) Quá mạn:
mình bằng người mà cho là hơn người, người hơn mình l\mà cho là
bằng.
- d) Mạn quá
mạn: người hơn mình nhiều mà cho mình hơn người.
- đ) Tăng
thượng mạn: chưa chứng thánh quả mà cho mình đã chứng.
- e) Ty liệt
mạn: mình thua người nhiều mà nói rằng thua ít.
- g) tà mạn:
người tu về tà đạo, được chút ít thần thông, hoặc hiểu biết được
đôi chút việc quá khứ, vị lai, rồi khinh lướt người.
- 5. Nghi:
nghĩa là nghi ngờ, không có lòng tin. Người nghi ngờ không làm
nên được việc gì hết. Ðối với người thân trong gia đình, họ
không tin cậy giao phó công việc; đối với bạn bè, họ nghi ngờ
tất cả mọi thiện chí. Ngay đối với mình, họ cũng không tự tin
nữa. Ðã không tự tin, họ còn gây hoang mang cho người chung
quanh, làm cho người thế gian ngã lòng, thối chí.
- Ðối với đạo
lý chân chánh, họ cũng không hăng hái tin theo. Những pháp tu
giải thoát và các điều phước thiện, họ do dự không làm.
- Nghi có ba
phương diện:
- a) Tự nghi:
nghĩa là nghi mình. Chẳng hạn như nghe chư Tăng bảo: "Tu hành sẽ
được giải thoát", nhưng lại tự nghi rằng: "Chẳng biết mình tu có
được không?". Vì lòng do dự ngi ngờ ấy, nên không tu.
- b) Nghi pháp:
nghĩa là nghi phương pháp mình tu. Chẳng hạn như nghe kinh Di Ðà
nói: "Người chí tâm niệm ph, từ một ngày cho đến bảy ngày, được
nhất tâm bất loạn, đến khi lâm chung sẽ được Phật Di Ðà tiếp đãn
sanh về nước Cực lạc"; nhưng họ lại nghi ngờ "Phương pháp ấy
không biết có kết quả đúng như vậy không? " Do sự nghi ngờ đó mà
không tu.
- c) Nghi nhơn:
nghĩa là nghi người dạy mình. Như có người dạy rằng: "Làm lành
sẽ được phước, làm ác sẽ bị tội"; nhưng lại nghi rằng: "Chẳng
biết người này nói có thật không ". Do sự nghi ngờ ấy mà không
làm.
- Tóm lại, tánh
nghi ngờ làm cản trở sự tiến triển của mình, ngăn ngại mọi công
tác hữu ích và làm cho cuộc đời không vượt ra khỏi cảnh tối tăm
khổ sở.
- 6. Thân kiến:
nghĩa là chấp thân ngũ ấm tứ đại giả hiệp này làm ta. Vì cái
chấp sai lầm ấy, nên thấy có một cái Ta riêng biệt, chắc thật
không biến đổi, thấy cái Ta ấy là riêng của ta, không dính dấp
đến người khác, và là một thứ rất quý báu. Vì tưởng lầm như thế,
nên kiếm món ngon, vật lạ cho ta ăn, may sắm quần áo tốt đẹp co
Ta mặc, lo xây dựng nhà cao, cửa lớn cho Ta ở, thâu góp thật
nhiều của cải, đất ruộng để dành cho Ta hãnh diện với mọi người.
Do sự quý chuộng phụng sự cho cái Ta ấy, mà tạo ra lắm điều tội
lỗi, chà đạp lên bao nhiêu cái Ta khác, làm cho họ đau khổ vì
Ta. Và thế giới trở thành một bãi chiến trường cũng vì cái Ta.
- 7. Biên kiến:
nghĩa là chấp một bên, nghiêng về một phía, có một thành kiến
cực đoan. Biên kiến có hai lối chấp sai lầm lớn nhất là:
- a) Thường
kiến: nghĩa là chấp rằng khi chết rồi, cái Ta vẫn tồn tại mãi:
người chết sẽ sanh ra người, thú chết sẽ trở lại thú, thánh nhơn
chết trở lại làm thánh nhơn. Do sự chấp ấy, họ cho rằng tu cũng
vậy, không tu cũng vậy, nên không sợ tội ác, không thích làm
thiện. Lối chấp này, đọa Phật gọi là "Thường kiến ngoại đạo".
- b) Ðoạn kiến:
nghĩa là chấp rằng chết rồi là mất hẳn. Ðối với hạng người chấp
Ðoạn kiến, thì hễ tắt thở là không còn gì tồn tại nữa; tội cũng
không mà phước cũng chẳng còn. Họ không tin nhân quả luân hồi,
nên mặc tình làm các điều tội lỗi. Họ tự bảo: "Tu nhơn tích đức
già đời cũng chết; hung hăng, bạo ngược tắt thở cũng không còn".
- Có người đối
trước những cảnh buồn lòng, nghịch ý, những chuyện tình duyên
trắc trở, tưởng rằng chết là hết đau khổ, là giải thoát tất cả,
nên họ đã không ngần ngại mượn chén thuốc độc, hay dòng sông sâu
để kết liễu đời mình. Họ đâu có ngờ rằng chết rỗi vãn chưa hết !
Lối chấp này, kinh Phật gọi là "Ðoạn kiến ngoại đạo".
- 8. Kiến thủ:
nghĩa là chấp chặt sự hiểu biết sai lầm của mình.
- Kiến thủ có
hai phương diện:
- a) Kiến thủ
vì không ý thức được sai lầm của mình. hành vi của mình sai
quấy, ý kiến của mình sai lầm, nhưng vì không đủ sáng suốt để
nhận thấy, nên cứ bảo thủ hành vi, ý kiến của mình, tự cho là
giỏi, ai nói cũng chẳng nghe.
- b) Kiến thủ
vì tự ái hay vì cứng đầu. Biết mình làm như thế là sai, nói như
vậy là dở, nhưng vì tự ái, cứ bảo thủ cái sai cái dở của mình,
không chịu thay đổi. Như ông bf trước đã lờ theo tà đạo, nay con
cháu vẫn biết đó là tà, nhưng cứ theo như thế mãi không chịu
đổi. Họ cứ nói một cách liều lỉnh: "Xưa sao nay vậy", hy "Xưa
bày này làm". Hay như cha mẹ trước đã lỡ làm nghề tội lỗi, đến
đời con cháu, vẫn cứ bảo thủ nghề ấy không chịu thay nghề khác.
- Nói rộng ra
trong thế giới, có một số đông người, mặc dù thời thế đã cải
đổi, tiến bộ mà họ cứ vẫn giữ lại những lề thói, cổ tục hủ bại
mãi. Chẳg hạn như ở Việt Nam ta, đến bây giờ mà vẫn có những
Phật tử, hễ trong nhà có người chết là giết heo bò để cúng kiến;
khi đưa đám tang, gánh theo những con heo quay to tướng, đi biểu
diễn qua các đường phố; mỗi khi tuần tự hay kỵ giỗ, thì đốt giấy
tiền vàng bạc, áo quần kho phướg, mỗi năm phải hội họp để cúng
tế tà thần, ác quỷ v.v...Chấp chặt những hủ tục như thế, đều
thuộc và "Kiến thủ" cả.
- 9. Giới cấm
thủ: nghĩa là làm theo lời răn cấm của ngoại đạo tà giáo. Nhưng
sự răn cấm nầy nhiều khi thật vô lý, mê muội, dã man, không làm
sao đưa người ta đến sự giải thoát được, thế mà vẫn có nhiều
người tin và làm theo. Chẳng hạn như ở Aán độ, có phái ngoại đạo
lấy đá dằn bụng, đứng một chân giữa trời nắng, nằm chỗ bẩn thỉu,
leo lên cao nhảy xuống, gieo mình vào lửa, hay nhảy xuống sông
trầm mình để được phước. Có đạo, mỗi năm lại bắt tín đồ giết một
người để tế thần, hay như đạo của anh chàng Vô Não, phải giết
một trăm người lấy một trăm ngón tay xâu làm chuỗi hạt mới đắc
đạo.
- Những thứ cuồn tín như thế,
không làm cho cuộc đời sáng sủa, mà còn làm đen tối, khổ đau
thêm.
- 10. Tà kiến:
nghĩa là chấp theo lối tà, không chơn chánh, trái với sự thật,
trái với luật nhân quả. Nói một cách khác, Tà kiến nghĩa là mê
tín dị đoan, như thờ đầu trâu, đầu cọp, bình vôi, ông táo, xin
xâm, bói quẻ, buộc tôm, đeo niệt, coi sao, cúng hạn v.v...
- Nói rộng ra,
cả bốn món chấp trên, đều thuộc và Tà kiến cả.
- (Tiếp bài thứ
tư)
--o0o--
|
|