-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Phật
Học Phổ Thông
- Khóa Thứ
Ba
Thinh
Văn Thừa Phật Giáo
- --- o0o ---
- Bài Thứ 4
-
Tập Ðế (Sameda
Dukkha)
-
(tiếp theo)
- III. Tánh
Chất Của 10 Món Căn Bản Phiền Não
- Tánh chất của
mười món căn bản phiền não không giống nhau: có thứ nhanh nhẹn,
có thứ chậm chạp; có thứ mãnh liệt, có thứ yếu ớt; có thứ đam
sâu gốc rễ trong lòng người, có thứ nằm khơi khơi ở trên ý thức;
có thứ dễ dứt trừ, có thứ khó tiêu diệt. Vì tính chất không đồng
ấy mà đức Phật đặt cho chúng những danh từ khác nhau, để dễ phân
biệt, như Kiết sử, Kiến hoặc, Tư hoặc.
- 1. Kiết sử:
Mười thứ phiền não gốc: thâm, sân, si, mạn, nghi, thân kiến,
biên kiến, kiến thủ, giới cấm thủ, tà kiến cũng gọi là "Thập
Kiết sử".
- Kiết là trói
buộc; Sử là sai khiến. Mười phiền não nầy gọi là Kiết Sử, vì
chúng nó có mãnh lực trói buộc loài hữu tình không cho ra khỏi
ba cõi và sai sử chúng sinh phải quay lộn trong vòng sanh tử
luân hồi, từ đời nầy đến kiếp nọ, và phải chịu không biết bao
nhiêu điều khổ não.
- Tuy đều có
tánh chất sai sử, trói buộc cả, nhưng mười Kiết sử này có thứ
mạnh, thứ yếu, thứ chậm chạp, thứ mau lẹ, nên đức Phật chia
chúng ra làm hai thứ với hai tên gọi khác nhau là: Lợi sử và Ðộn
sử.
- a) Lợi sử là
những món phiền não rất lanh lẹ, dễ sanh khởi mà cũng dễ trừ bỏ
[ lợi là lanh lợi). Lợi sử gồm có năm là: Thân kiến Biên Kiến,
Kiến Thủ, Giới Cấm thủ ,Tà Kiến.
- b) Ðộn sử là
những món phiền não nặng nề, chậm chạm, sanh khởi một cách ngấm
ngầm, sâu a, nhưng mãnh liệt, khó dứt trừ (độn là chậm lụt).
Thuộc về Ðộn sử gồm có năm phiền não là: Tham, Sân, Si, Mạn,
Nghi.
- Người học
Phật muốn giải thoát, tất nhiên phải chựt đứt mười thứ dây nhợ,
xiềng xích nầy mới được.
- Trước khi
muốn chặt đứt chúng một cách có hiệu quả, phải hiểu rõ tánh chất
mềm hay cứng, bở hay dai của chúng để liệt chúng vào loại dễ
chặt hay khó chặt. Như người bửa củi, chia củi ra làm hai loại:
loại dễ bửa và loại khó bửa; loại dễ bửa thì dùng bú nhỏ, loại
khó bửa thì dùng búa lớn; cũng vậy, hành giả trước khi muốn chặt
đứt phiền não, phải liẹt chúng làm hai loại: lọi Kiến hoặc dễ
trừ, vf loại Tư hoặc khó diệt.
- 2. Kiến hoặc:
Chữ Kiến hoặc có hai nghĩa:
- a) Loại mê
lầm nầy mong manh cạn cợt, chỉ tu hành đến địa vị Kiến đạo (thấy
chân lý) thì đoạn được.
- b) Loại mê
lầm nầy tuộc về phần vọng kiến (vọng chấp), phân biệt của ý thức
đối với sự vô thường, vô ngã v.v....mà sinh ra; hay do lầm nghe
theo lời khuyên dạy của ta sư ngoại đạo mà sinh ra.
- Nói một cách
dễ hiểu hơn, Kiến hoặc là cái lầm thuộc về mê ly, do vọng chấp
(chấp sai) phân biệt của ý thức sanh ra. Ðến địa vị Kiến đạo là
đoạn trừ được cái hoặc này. Bởi chúng nó dễ trừ, cũg hư cỏ mọc
khơi trên mặt đất, hễ dẫy (phác) thì hết, nên cũng gọi là "Phân
biệt hoặc" (nghĩa là cái lầm về phần phân biệt của ý thức).
- Tóm lại, Kiến
hoặc hay Phân biệt hoặc là do mê ly mà sanh, và sẽ bị diệt trừ
khi ngộ được chân lý.
- Mười phiền
não nói trên, hay Kiến hoặc, nếu đem phối hợp với bốn Ðế trong
ba cõi, thì thành ra tám mươi tám hoặc.
- Ðể có một ý
niệm rõ ràng hơn, chúng ta hãy phân tách như sau:
- Mười món Kiến
hoặc là: Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi, Thân kiến, Biên kiến, Kiến
thủ, Giới cấm thủ và Tà kiến.
- Trong ba cõi
(Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới), mỗi cõi có bốn Ðế (khổ, tập,
diệt, đạo), mỗi đế có các hoặc (mê lầm) chung hiệp lại thành tám
mươi tám Kiến hoặc.
- Như Dục giới
có bốn Ðế: Khổ, Tập, Diệt, Ðạo. Khổ đế có đủ mười hoặc. Tập đế
và Diệt đế chỉ có bảy hoặc (vì trừ Thân kiến, Biên kiến và Giới
cấm thủ). Ðạo đế có tám hoặc (trừ Thân kiến và Biên kiến). Bốn
đé cộng thành ba mươi hai Kiến hoặc.
- Cõi Sắc và Vô
sắc cũng y như Dục giới, song ở trong đó mỗi Ðế đều trừ ra một
món Sân (vì hai cõi nầy chỉ có vui trong thiền định, nên chẳng
có Sân) nên mỗi cõi chỉ có hai mươi tám hợc. Hai cõi hiệp lại
thành năm mươi sáu hoặc; cộng với ba mươi hai hoặc ở cõi Dục
nữa, tổng cộng thành ra tám mươi tám món Kiến hoặc.
- Ðây là biểu
đồ 88 món Kiến hoặc
- I. Dục giới
(có 32)
- 1. Khổ đế: 10
- a) Tham, b)
Sân
- c) Si, d)
mạn, đ) Nghi
- e) Thân kiến
- ê) Biên kiến,
g) Kiến thủ
- h) Giới cấm
thủ
- I) Tà kiến
- 2. Tập đế: 7
- Như Khổ đế,
trừ Thân kiến, Biên kiến và Giới cấm thủ
- 3. Diệt đế:
7
- Như tập đế
- 4. Ðạo đế: 8
- Trừ Thân kiến
và Biên kiến
- II. Sắc giới
(có 28)
- 1. Khổ đế: 9
- Như Khổ đế ở
Dục giới, trừ Sân.
- 2. Tập đế: 6
- Như Tập đế ở
Dục giới, trừ Sân.
- 3. Diệt đế: 6
- Như Diệt đế ở
Dục giới, trừ Sân.
- 4. Ðạo đế: 7
- Như Ðạo đế ở
Dục giới, trừ Sân.
- III. Vô sắc
giới (có 28)
- Như Khổ, Tập,
Diệt, Ðạo ở Sắc giới.
- Sắc giới và
Vô sắc giới đều trừ Sân, là vì hai cõi nầy ở trong thiền định,
có hỷ có lạc, nên Sân không sanh khởi.
- Khổ đế đủ
mười hoặc là vì thuộc về Quả. Tập đế ít hơn (có 7) là vì thuộc
và Nhân. Diệt đế là quả xuất thế nên chỉ có 7. Dạo đế về phần tu
hành nên chỉ có 8.
- 3. Tư hoặc:
Trong số mười phiền não căn bản nói trên, có bốn thứ ăn sâu gốc
rễ từ vô thỉ rất khó diệt trừ là Tham, Sân, Si, mạn (bốn Ðộn sử)
thì gọi là Tư hoặc. Theo tân dịch thì Tư hoặc có hai nghĩa:
- a) Nó ngấm
ngầm khởi lên, do mê muội về sự vật mà sanh; như đói với sự vật
ăn, mặt, ở ( sắc, thanh, hương, vị, xúc) sanh tham gia trước.
- b) Sự mê lầm
này phải đến địa vị Tu đạo mới trừ dứt được.
- Chúng nó có
từ vô sỉ đén giờ, hễ có ta là có nó, nó với ta đông minh mộit
lượt, nên cũng gọi là "câu sanh hoặc ". Chúng nó có tiềm tàng
sâi kín, và chi phối sai tử chúng tamột cách mãnh liệt, nên hành
giả phải hết sức tu trì, mới có thể lần trừ hồi được. Cũng như
cỏ cú, phải ra công moi đào nhiều lần, mới nhổ sạch tâĩn gốc.
- Tóm lại Tư
hoặc cũng có tên Câu sanh hoặc, do sự mê là sanh, và chỉ khi đến
địa vị Tu đọ mới đoán ra được.
- Mười món này
phối hợp với bốn đế ở ba cõi, sẽ thành 81 món như sau:
- Mười món Dục
giới, có 4: Tham, San, Si, Mạn.
- Tư Hoặc Sắc
giới, có 3: Tham, Si, Mạn.
- Vô sắc giới,
có 3: Tham, Si, Mạn
- (hai cõi sâu
vì ở trong thiền định, nên không có sân)
- Bốn thứ tư
hoặc này lại chia ra làm ba hạng: hạng nhất là bậc thượng; hạng
vừu là hạng bậc trung; hạng kém hơn là hạng bậc hạ. Mỗi hạng như
hé lại chia ra làm ba bậchay ba phẩm nữa (thượn, chung, hạ),
cộng tất cả thành chín phẩm.
- (Xem biểu
chín phẩm Tư hoặc dưới đây)
- Mười thứ I.
Thượng 1. Thượng thượng
- Tư hoặc 2.
Thượng trung
- chia làm 3.
Thượng hạ
- chín phẩm II.
Trung 1. Trung thương
- 2. Trung
trung
- 3. Trung hạ
- III. Hạ 1. Hạ
thượng
- 2. Hạ trung
- 3. Hạ hạ
- Chín phẩm Tư
hoặc nhân cho ba cõi (gồm chín địa 81 thứ) hoặc.
- (Xem biểu đồ
81 moán Tư hoặc đưới đây)
- I. Dục giới
1.Ngũ thứ tạp cư địa, có:9 phẩm Tư hoặc
- II.Sắc giới
2. Sơ Thiền, ly sanh hỷ lạc địa: __
- 3. Nhị thiền
định sanh hỷ lạc địa: __
- 4. Tam thiền
ly hỷ lạc địa: __
- 5. Tứ thiền
xả niệm thah tịnh địa: __
- III. Vô sắc
giới 6. Không vô biên xứ địa __
- 7. Thức vô
biên xứ đia __
- 8. Vô sỡ hữu
xứ địa __
- 9. Phi phi
tưởng xứ địa __
- Cộng: 9 địa
Thành: 81 phẩm Tư hoặc
- VI. Tóm Tắt
Về Ý Nghĩa Kiến Hoặc và Tư Hoặc
- Nói tóm lại,
nhưng cái mê lầm thuộc về phần phan biệt (do ý thức phân biệt mà
sanh) đều thuộc về Kiến hoặc. Nhừn cái mê lầm thuộc về phând Câu
sanh (ngấm ngầm cùng với ta đồng sanh) th ì thuộc về phần Tư
hoặc.
- Lại một nghĩ
nữa, những cái mê lầm thuộc về phần mê lý, đến khi Kiến đạo là
đoạn trừ đuợc, nên gọi là Kiến hoặc. những cái mme lầm thuộc về
phần mê sự, phải tu hành đến địa vị Tu đạo, mới lần đoạn trừ,
tjhì gọi là tư hoặc. Ðoạn Kién hoặc chỉ mới là ếwt cái lầm trên
phương diện kiến thuắc; đến khi đoạn Tư hoặc thế gian hì cả cái
lầm trên phương diện ý thức, hanhd vi đều không còn nữa.
- Ðoạn 88 cái
lầm về Kiến hoặc và 81 cái lầm về Tư hoặc thì sẽ chứng được 4
quả thánh Thanh văn của Tiểu thừa, trong đó quả vị cao nhất là
quả vị A la hán (1)
-
C. KẾT LUẬN:
- Sỡ dĩ chúng
sinh chịu được các đều khổ não, nguyên nhân là do phiền não gây
tạo ra nghiệp Tập đế. Tập đế gồm có nhiều thứ phiền não; nhưng
có mười thư can bản phièn não là: tham, sân, si, mạn, nghi, thân
kiếm, biên kiến, kiến thủ, giới cấm thủ và tà kiến.
- Trong 10 món này, vì căn cứ theo
nhiều cái dễ phát sinh dễ trừ là năm món sau, thì gọi là ngũ lợi
sữ; còn 5 món trước tánh nó ngấm ngầm phát sanh và khó đoạn trừ
thì gọi là Ngũ độn sử.
- Ðứng về
phương diên Tu chứng mà xét, thì hành giả trong khi tu hành,
chia 10 món phiền não trên làm hai loại, để đoạn trừ trong thời
kỳ sau đây:
- 1. những cái
me lầm khi thấy đạo (chân lý) mới đoạn được, thì gọi là Kiến
hoặc.
- 2. Những cái
mê lầm khi đén địa vị tu đạo mới đọan đư2ợc thì gọi là Tư hoặc.
- Về Kiến hoặc,
ở cõi Dục giới có 32 món mê lầm, ở cõi sắc giới có 28 và Vô sắc
giới cũng có 28, cộng lại thành 88 món mê lầm. Cái lầm ở cõi dục
rất thô, đến cõi sắcvà Vô sắc giới thì vi tế hơn. Ðoạn được 88
thứ Kiến hoẳc trong ba cõi, thì chứng đặng quả thánh thứ nhất
trong bốn quả của Tiẻu thừa là Tu đà hoàn (Tàu dịch là Dự lưu).
Ðến qủa này, 81 phẩm tư hoặc của ba cõi vẫn chưa đoạn trừ.
- Về Tư hoặc
thì cõi Dục giới có 4: tham, sân, si man. Cõi sắc giới và vô
sắc, mỗi cõi có ba (vì trừ sân). Cộng chung lại là mười món Tư
hoặc. Vì chúng có thô vi tế không đồng nên phân ra có thượng,
trung, hạ phẩm. Mỗi phẩm lại phân ra ba phẩm nữa là: Thượng,
trung, hạ cộng thành 9 phẩm.
- Trong ba cõi
có chia ra làm 9 địa mỗi địa có 9 phẩm Tư hoặc từ thô đến tế,
công chung 9 địa thành ra 81 Tư hoặc (1) (1)
- Chín phẩm Tư
hoặc ở cõi Dục thì rất thô, còn hai cõi trên lần vi tế. Các thứ
phiền não Tư hoặc vi tế dây, chiêu cảm với nhữn khổ quả sanh tử,
luân hồi trong cõi, chứng quả A la Hán.
- Phần Phụ Chú
Tứ Ðế là thuộc về giáo lý tiểu thừa. Trong khi nghiên cứu và
trung thành với giáo giáo lý này, chung tôi chỉ kể chỉ có hai
thứ hoặc và kiến hoặc và Tư hoặc. Nhưng theo giáo lý Ðqị thừa
thì ngoài hai hoặc trên, có hai thứ hợc khác nữa là Trần sa
hoặc. ếu chứng quả vị Ðại Thừa Bồ tát hay Phật, thì phải đoạn
trừ hai hoặc sau này
- Ðể có một ý niệm tổng quát về
các thứ hoặc, chúng tôi xin được phụ chú dưới đây hai loại hoặc
ấy:
- 1. Trần sa
hoặc: Trần sa hoặc là cái mê lầm như cát bụi. Cái mê lầm không
phải của mình, vì khi chưng đươc quả A la Hán thì cái me lầm về
phần Kiến Hoặc và Tư hoặc nơi cá nhân mình đã hết. Cái chơn trí
ở nơi tâm mình đã sáng suốt rồi. Nhưng so với mình, còn thấy cái
mê lầm của chúng sinh nhiều như cát bụi, nên sanh tâm chán ngán,
thối chí độ sanh, cứ trầm không thu tịch, thủ cảnh thiên không
Niết Bàn của Tiểu Thừa, không chịu ra hóa đạo độ sanh (vì còn
pháp chấp, mê lầm thấy thật có pháp mình tu, Niết Bàn mình
chứng).
- 2. Vô minh
hoặc: Vô minh là mê lầm, không rõ được bản chất chơn tâm. Thứ mê
lầm này là góc của các thứ mê làm khác, nên gọi là bản vô minh.
Nó rất vi tế, phá trừ trần sa hoặc rồi mới phá trừ được Vô minh
hoặc.
- Cứ theo lối
tu chứng của Ðại Thừa mà luận, thì phải trải qua 51 địa vị, mới
phá hết dược các vô minh. khi mãn địa vị Thập tín rồi bắt đầu
lên thập trụ (10 vị) phá một phần vô minh thì được một phần đức
pháp tánh (3 đức: Pháp thân, bát thân, Giải thoát), chứng len vị
sơ trụ. Như thế cú phá thêm một phần vô minh là chưng lên một
địa vị; cho đến phá được 10 phần thì phá đước Thập trụ. Bước qua
Thập hạnh (10 vị), Thập hồi hướng (10 vị) và thập địa (10 vị )
cũng thế, nghĩa là phá một phần vô minh thì chứng lên một địa
vị. Cho đến địa vị thứ 51; là Ðẳng giác, dùng trí kim cương phá
sạch hết tướng vô minh rất tinh tế rồi, thì chứng được địa vị
thưa 52 là quả Diệu giác (Phật). Lúc bấy giờ vô minh diệt hết
trí giác thế gian toàn minh, cũng như trăng rằm Trung thu, bao
nhiêu mây mờ vẹt hết, tỏa ánh sáng khắp mười phương.
- Chúng ta nên
lưu ý: Kiến hoặc, Tư hoặc là chiêu cảm phần đoạn sanh tử trong
ba cõi. Ðoạn Kiến hoặc. Tư hoặc thì không thọ phần sanh tử ra
ngoài tam giới, được thiên lý chơn, chúng nhị thừa: Thanh văn,
Duyên giác. Ðoạn Trần sa hoặc chứng quyền thừ Bồ tát. Ðoạn sạch
vô minh chứng quả Phật vô thuợng. Xét như thế thì từ khi phát
tâm tu hành cho đến thành Phật, phải trải qua một công trình lớn
lao và một thời gian lâu xa mới được.
- (1) Sở dĩ gọi
là phẩm mà không gọi là món, loại hay thứ là vì trong mỗi mê lầm
ấy, không khác chất, chỉ khác phẩm lượng mà thôi, nghĩa là nó
đậm hay nhạt, mạnh hay yếu mà thôi.
--o0o--
|
|