-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
Phật Học
Phổ Thông
- Khóa Thứ
Ba
Thinh
Văn Thừa Phật Giáo
- --- o0o ---
- Bài Thứ 5
- Diệt Ðế
(Nirodha Dukkha)
-
A. Mở Ðề
- Sau Khi nói
về phương diện khổ đau xong, Ðức Phật nói về phương diện an
lạc.
- Sau khi giải
bày đầy đủ hiện tượng nhân quả về phần nhiễm, về phương diện đau
khổ xong, đức Phật liền thuyết minh các hiện tượng nhân quả về
phần tịnh, về phương diện An lạc. Nói một cách khác dau khi dạy
xong Khổ đế và tập đế, đức Phật liền dạy Diệt đế và đạo đế. Có
người chỉ thấy hai phần đầu của Tứ đế là khổ và Tập, nên đã
tưỡng Phật là đạo yếm thế, bi quan. Họ cho rằng Phật giáo gieo
vào lòng người sự chán đời là kẻ thấy cuộc đời xấu xa, đau khổ,
mà không tìm ra phương pháp để giải thoát ra khói cảnh ấy, mà
chỉ buông xuôi tay ngồi nhìn và khóc than, sàu khổ. Ðạo Phật
không làm như thế. Ðạo Phật trình bày cho mọingười nhìn thấy cái
hiện tại đen tối của mình, cái hoàn cảnh xấu xa, có nhiều sự sự
khuyết điểm, để cải đổi nó, kiến tạo lại một cuộc sống đẹp đẽ,
an vui hơn. Một giáo lý như thế, không thể gọi là yếm thế, bi
quan được mà chính là yêu đời, lạc quan, vì còn tin tưởng ở khả
năng kiến tạo của mình và chúng sinh. Cảnh giới mà Ðức Phật
trình bày cho chúng ta thấy ở đầyla một cảnh giới hoàn toàn trái
ngược với cảnh giiới tối tăm, sầu khổ, đớn đau mà chúng ta đang
sống. Cảnh giới ấy là cảnh giới huy hoàng, an lạc, mà chỉ những
người diệt tục, hết mê mới đạt được.
- Cảnh giới ấy,
chúng ta sẽ nghe đức Phật trình bày trong phần diệt đế sau đây:
-
B. Chánh Ðề
- I. Ðịnh
Nghĩa Sao gọi là Diệt đế?
- Diệt là tiêu
diệt, trừ diệt. Diệt ở đây tức là diệt dục vọng mê mờ, phiền não
Ðế là lỹ lẽ chất thật, đúng đắn do trí tuệ sáng suọt soi thấu và
thuyết minh. Diệt đế, chữ Pali gọi là "Nirodha Dukkha" tức là sự
thật đúng đắn, mà đức Phật đã thuyết minh về hoàn cảnh tốt đẹp
mà mọi người có thể đạt được khi đã diệt hết mọi phiênd não, mê
mờ. Phiền não, mê mờ là nguyên nhân của đau khổ, như chúng ta đã
nghe Phật thuyết trong Tập đế.
- Khổ là quả,
mà tạp là nhân. Diệt khổ mà chỉ diệt cái quả thì không bao giờ
hét khổ được. Muốn diẹt khổ tận gốc, thì phải diệt cí nhân của
nó, như muốn nhổ cái thân cây, thì phải băí cho hết cái rễ ăn
sâu trong lòng đất.
- Trong khi
nhân qủa, Phật dạy rằng: "Các ông phải biết, ví Tập nhân phiền
não mới có quả khổ sanh tử, vậy các ông phải dứt trừ phiền nào
tập nhân. Khi đã dứt trừ rồi, lại thường thương nắm chắc chổ dứt
trừ chjo chắn chắc, không khi nào nới bỏ. Ðến khi chứng được đạo
Niết Bàn, thì phải tất nhiên tập nhân phiền não phải diệt hết,
mả khổ luân hồi cũng không còn".
- Thế cho biết,
muốn giải thóa tất phải tu hành. Mà tu hành là gì?
- Là diệt trừ
tập nhân phiền não vậy. Diệt trừ phần nào tập nhân là đã bước
đến hết gần giải thoát chừng ấy, như một cái phao; càng bớt dần
chừng nào vật nặng dìm nó xuống, thì nó lại nổi dần lên mặt nước
chừng ấy vậy.
- II. Thứ
Lớp Ðoạn Hoặc (mê lầm)
- như chúng ta
đã biết trong bài tập đế, tập nhân phiền não rất phức tạp, có
thứ mong manh, cạn cợt, có thứ in sâu vào tâm thức từ lâu đời
lâu kiếp rất khó dứt trừ. Do tính chất cạn sâu của các thứ phiền
não ấy, nên đoạn trừ cũng phải tuần tự, theo thứ lớp.
- Có hai lớp đoạn hoặc chính là:
- 1. Kiến đạo
sở đoạn hoặc: Những mê lầm nầy, khi thấy chánh đạo mới đoạn
được. Ðây là sự dứt trừ những sai lầm về phần lý trí. Những
phiền não nầy thuộc loại cạn cợt gây ra bởi sự gần gũi tà sư, sự
tuyên truyền ta vạy của sách vở, cùng những người tri kiến không
chân chánh. Nếu gặp được Minh sư, thấy đưưọc chân lý, thì liền
đoạn hết. Vì thế sự dứt trù những phiên não nầy, gọi là "Kiến
đạo sở đoạn hoặc".
- 2. Tu đạo sở
đoạn hoặc: Những mê lầm nầy, khi tu đạo mới đoạn được. Ðây là sự
đoạn trừ những phiền não, sâu kín, đã đam sâu gốc rễ trong tâm
thức, biến thành thói quen, như sự chấp ngã, sự say đắm nhục
dục, tham, giận, kiêu căng v.v...Ðối với những thứ phiền não
nầy, phải cần nhiều công phu tu hành dẻo dai, chắc chắn mới có
thể đoạn trừ được. Do đó, mới gọi là "Tu đạo sở đoạn hoặc".
- III. Các
Tầng Bậc Tu Chứng
- Ðoạn trên đã
nói tổng quát về hai loại đoạn diệt phiền não cho dễ phân biệt
và dễ hiẻu. Ðến đây, để có một ý niệm rõ ràng về các tầng bậc tu
chứng mà một hành giả cần phải trải qua, chúng ta hãy tuần tự
điểm qua các quả vị từ thấp đến cao.
- 1. Tứ gia
hạnh: Muốn đoạn trừ kiến hoặc, trước tiên người tu hành phải rời
xa các tà thuyết, xoay tâm ý, tư tưởng dần vào chân lý: vô
thường, vô ngã, bất tịnh, tứ đế, để nhận chân được các tánh cách
vô thường, vô ngã, bất tịnh, không thật v.v...của cuộc đời. Nhờ
sự gần gũi với chân lý như thế, nên những điều thấy biết sai lầm
điên đảo sẽ tan hết và 88 món kiến hoặc cũng không còn. Tuy
nhiên, không phải chỉ trong một lúc mà đoan được tất cả kiến
hoặc; trái lại, phải cần nhiều thời giờ, công phu tu tập. Từ
những tư tưởng, thành kiến mê lầm của phàm phu mà đến Thánh trí
để dự vào lòng Thánh quả, người tu hành phải tu bốn gia hạnh sau
đây:
- a) Noản vị:
Noản là hơi nóng; vị là địa vị. Người xưa, khi muốn lấy nữa, họ
dùng hai thanh củi tre cọ sát vào nhau; trước khi lửa sắp bật
lên, phải qua giai đoạn phát ra hơi nóng. Người tu hành muốn có
lửa trí tuệ, cũng phải trải qua giai đoạn hơi nóng. Tất nhiên
hơi nóng lửa trí tuệ chưa đốt cháy được củi phiền não, nhưng
không thể không qua giai đoạn nầy được. Ðó là giai đoạn "Noản
vị".
- b) Ðảnh vị:
Ðảnh là chóp cao. Qua khỏi giai đoạn Noản vị, người tu hành tiếp
tục tiến bước và lên được trên chóp đỉnh núi mê lầm. Ðứng ở địa
vị nầy, toàn thân hành giả được tắm trong khoảng không gian rộng
rãi vô biên, nhưng chân chưa rời khỏi chóp núi mê lầm.
- c) Nhẫn vị:
Nhẫn là nhẫn nhịn, chịu đựng. Người biết nhịn, luôn luôn vẫn yên
lặng sáng suốt trước sự khuấy phá của đối phương. Người tu hành
lên đến bậc này, trí giác ngộ đã gần sáng tỏ, thân tâm vẫn giữ
được mực yên lặng trong sáng, mặc dù các pháp có lăng xăng và ẩn
hiện.
- d) Thế hệ
nhất vị: Bậc nầy cao quí nhất trong đời. Tu đến bậc này là một
công phu rất to tát, gần giải thoát ra ngoài vòng Dục giới, như
con diều giấy bay liệng giữa không trung, tự do qua lại, không
còn bị cái gì làm ngăn ngại, ngoài sợi giây gai nhỏ. Nếu bứt sợi
gai kia là diều bay luôn. Cũng như thế, người tu hành phá hết
phần kiến hoặc nhỏ nhít sau cùng là được giải thoát luôn.
- Tóm lại,
người tu hành thường xuyên qua bốn món gia hạnh nầy, tức là phá
được cái lầm về tri kiến hay kiến hoặc, cái lầm của Phi phi
tưởng mà chứng đặng quả Tu đà hoàn là quả vị đầu tiên trong
Thanh văn thừa.
- 2. Tu đà
hoàn: Tàu dịch là Dư lưu quả (dự vào dòng Thánh). Ở quả vị này,
ý thức đã sáng suốt, không còn bị mê lầm nữa, song thất thức còn
chấp ngã, nên phải trở lại trong cõi Dục, nhiều nhất là bảy phen
sanh tử nữa, mới gọt sạch các kiết sử phiền não thầm kín, nằm
nép trong tâm thức, và chứng quả A La Hán.
- 3. Tư đà hàm:
Tàu dịch là Nhất lai, nghĩa là một phen sanh lại cõi Dục để tu
hành và dứt cho sạch phần mê lầm ở cõi Dục, mới tiến đến bực A
La Hán. Trên kia, quả tu đà hoàn chỉ là kết quả của công phu tu
hành đoạn được kiến hoặc, chứ chứ đá động đến tư hoặc. Sau khi
chứng quả Thánh đàu tiên rồi, phải tu nữa để đoạn trừ tư hoặc,
mới chứng được bậc nầy. Tuy nhiên, ở cõi Dục có chín phẩm tư
hoặc, mà vị này chỉ mới đoạn có 6 phẩm, còn 3 phẩm nữa chưa
đoạn. Nghĩa là mới đoạn sáu phẩm thô thiển bên ngoài, còn ba
phẩm sâu kín bên trong chưa đoạn. Vì thế, phải trở lại một phen
để đoạn cho hết ba phần sau, mới bước lên Thánh quả thứ ba là A
na hàm được.
- 4. A na hàm:
Tàu dịch là Bất lai (nghĩa là không trở lại cõi Dục nữa). Khi
còn mê lầm của cõi Dục lôi kéo, mới sanh vào cõi Dục. Ðến địa vị
A na hàm nầy những mê lầm ấy không còn nữa, nên không bị tái
sanh ở đấy nữa, trừ trường hợp phát nguyện trở lại cõi nầy để độ
sanh. Vị nầy ở cõi Trời Ngũ tịnh cư thuộc Sắc giới, cũng gọi là
Ngũ bất hoàn thiên hay Ngũ na hàm. Vị nầy đã cách xa chúng ta
như trời vực, đã thoát ra ngoài cõi Dục. Tuy thế, họ vẫn còn
mang trong mình những mê lầm vi tế cu sanh của hai cõi Sắc và Vô
sắc. Vì vậy, ở Ngũ tịnh cư thiên, họ phải tu luyện để dứt cho
hết vi tế hoặc, mới bước lên Thánh quả A La Hán (Tư hoặc gồm có
9 phẩm. Từ đà hàm quả đoạn sáu hoặc, A na hàm quả đoạn thêm ba
hoặc; đến A La Hán quả là đoạn hết).
- 5. A La Hán:
Ðây là quả vị cao nhất, trong Thanh Văn Thừa. Tàu dịch có ba
nghĩa:
- a) Ưùng cúng:
Vị nầy có phước đức hoàn toàn, trí huệ hơn cả, đáng làm nơi
phước điền cho chúng sinh cúng dường.
- b) Phá ác. Vị
nầy đã phá tan những nhiền não tội ác, không còn bị chúng khuấy
phá sai sử trói vuộv nữa.
- c) Vô sanh.
Vị nầy không còn bọ xoay vần trong sanh tử luân hồi nữa, vì đã
phá trừ được phiền não là yếu tố của sanh tử luân hồi.
- Trong ba
nghĩa nầy, Vô sanh là nghĩa quan trọng hơn hết, nên đã được nêu
lên trong chữ A La Hán. Vị nầy không những đã phá hết mê hoặc
nông cạn, mà chính ngay chủng tử mê lầm thầm kín cũng đã dứt
sạch. Cho đến chủng tử cháp ngã là nguồn gốc phiền não, nguồn
gốc luân hồi, cũng bị dẹp lại một bên, không còn bóng dáng ra
vào trong A lại da thức nữa.
- Tách cách của
lòng ngã chấp là khiến chúng sanh luôn luôn cố chấp bản thân nhỏ
hẹp, tạo thành rang giới giữa mình và người, mình và sự vật, để
rồi gây nên vô lượng tội nghiệp và chịu vô lượg khổ báo. Một
tách cách nguy hại của lòng ngã chấp nữa là thường làm cho chúng
sanh không tỏ ngộ, không thể chấp được cái tánh "đồng nhất,
không mất" của vạn sự vạn vật. Do đó, chúng sanh phải chịu lắm
nỗi thăng trầm với xác thân bé nhỏ củ mình.
- Vị A La Hán,
do sự cố công bền chí, đã diệt được lòng chấp ngã ấy, nên không
bị sống chết khổ đau, lo buồn sợ hãi chi phối. Như đồ đẹ của ả
Phù dung, một khi đã bỏ được bệnh nghiền thì không còn ra vào
nơi tiệm hút làm bạn với bàn đèn ống khói nữa. A La Hán là vị đã
đoạn được cái sai lầm của cõi trờ Phi phi tưởng, nên không còn
vương vấn với các cõi trời ấy nữa.
- Song quả A La
Hán cũng chia làm hai bực, tùy theo căn cơ lanh lợi hoặc chậm
lụt của các vị ấy.
- a) Bất hồi
tâm độn A La Hán: là vị A La Hán trầm không trệ tịch, tự thỏa
chí vào địa vị đã chứng, chứ không phát tâm xoay về Ðại Thừa.
- b) Hồi tâm
đại A La Hán: là vị A La Hán lợi cứn lợi trí, phát tâm xoay về
Ðại Thừa rộng lớn chứ không tự mãn ở địa vị đã chứng.
- IV. Giá
Trị Diệu Dụng Của 4 Cõi Thánh
- Bốn quả tháng
của Thanh văn trên đây, đều là những kết quả giải thoát hiển
nhiên của công phu tu tập. Không cứ căn cơ nào đều có thể ở ngay
trong cảnh giới củ mình (kinh gọi là tự địa, tự giới), mà tu tập
để đạt đến bốn quả vị ấy. Hễ đoạn trừ mê lầm được chứng nào thì
chứng quả đến chứng ấy, chứ không phải chờ sanh qua thế gian
khác mới chứng quả kia đâu.
- Khi chứng đến
quả Tu đà hoàn thì gọi "Kkiến đạo sở đoạn". Ở đây, ý thức đã
tương ứng với Huệ tâm sở, sáng suốt, trực nhận đạo lý một cách
rõ ràng. Còn các vị sau, thuộc về "Tu đạo sở đoạn", nghĩa là sau
khi đã gội rửa các chủng tử mê lầm (tư hoăc) của A lại da thức
mới chứng được. Do sự dứt trừ phiền não sâu hay cạn đó, mà diệu
dụng của mỗi quả vị khác nhau.
- Ở địa vị
"Kiến đạo sở đoạn" là thành tựu được năm phép thần thông (công
dụng tự tại không bị chướng ngại).
- a) Thiên nhãn
thông: Nhãn lực soi thấy khắp muôn loài cùng sự sanh hóa trong
thế gian bao la hiện tại.
- b) Thiê nhĩ
thông: Nhĩ lực nghe khắp mọi nơi, đủ các tiếng tăm đồng loại và
dị loại.
- c) Tha tâm
thông: Tâm lực biết được tâm niệm, sở cầu của kẻ khác.
- d) túc mạng
thông: Trí lực hay biết các kiếp trước của mình.
- đ) Thần túc
thông: Có hai nghĩ: một là được thần thông tự tại như ý muốn,
hai là trong giây lát muốn đi đâu liền được như ý muốn, không bị
sự vật hữu hình làm chướng ngại.
- Năm phép thần
thông nầy, tuy có đặc biệt hơn nhân loại nhiều, song chưa phải
là điểm quan trọng của người tu hành cầu giải thoát. Ðiểm quan
trọng nhất của người tu giải thoát là "Lậu tận thông". Lậu tận
thông là được trí tuệ thông suốt cả ba đời, không còn bị các
phiền não hữu lậu làm ngăn ngại, nghĩa là giải thoát sanh tử.
Chỉ những vị A La Hán mới được qủa nầy.
- (Xem tiếp bài
thứ sáu)
--o0o--
|
|