-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Phật
Học Phổ Thông
- Khóa Thứ
Ba
Thinh
Văn Thừa Phật Giáo
- --- o0o ---
- Bài Thứ 7
- Ðạo Ðế
(Nirodha Gamadukkha)
-
A. Mở Ðề
- Nói Tổng
Quát Về Ðạo Ðế
- Như trong bài
trước đã nói, muốn thực chứng, thể nhập Niết Bàn thì phải tu
theo phương pháp mà Phật đã dạy. phương pháp chân chính, có hiệu
quả chắc thật để thành Phật đó là Ðạo đế. Phần nầy là phần quan
trọng nhất trong bài Tứ diệu đế, vì nếu có rõ biết đời là đau
khổ, nguyên nhân của nó là gì, và nếu có thiết tha cầu giải
thoát khỏi cảnh khổ để đến một cõi an vui tốt đẹp nhất là Niết
Bàn, nhưng nếu không có phương pháp hiệu nghiệm để thực ghiện ý
muốn ấy, thì biết cho nhiều cũng vô cíhc và càng thêm đau khổ.
Do đó, Ðạo đế là phần quan trọng và được Phật dạy một cách rõ
ràng chu đáo.
- Ðạo đế có 37
phẩm, chia ra làm 7 loại:
- 1 Bốn món
Niệm xứ (Tứ Niệm Xứ)
- 2 Bốn món
Chánh cần (Tứ Chánh cần)
- 3 Bốn món Như
ý túc (Tứ Như ý túc)
- 4 Năm Căn
(ngũ Căn)
- 5 Năm Lực
(Ngũ Lực)
- 6 Bảy phần Bồ
đề (Thất Bồ đề phần)
- 7 Tám phần
Chánh đạo (Bát Chánh đạo phần).
-
B. Chánh Ðề
- A. Tứ Niệm
Xứ
- Ðịnh Nghĩa
Về Tứ Niệm Xứ
- TỨ là bốn;
NIỆM là hằng nhớ nghĩ; XỨ là nơi chốn. tứ Niệm Xứ là bốn chữ,
bốn điều mà kẻ tu hành thường để tâm nhớ nghĩ đến. Ðó là:
- Quán Thân bất
tịnh
- Quán Tâm vô
thường
- Quán Pháp vô
ngã
- Quán thọ thị
khổ.
- 1. Quán thân
bất tịnh: Quán nghĩa là tập trung tư tưởng để quan sát cho thấu
đáo. Bất tịnh nghĩa là không sạch. Quán thân bất tịnh nghĩa là
tập trung tư tưởng để quan sát một cách tường tận về sự dơ bẩn
của cái thân ta.
- Nói cái thân
là bất tịnh, chắc có nhiều người ngạc nhiên, phản đối cho là
Phật đã nói quá đáng.
- trong đời còn
cái gì quý báu hơn cái thân đâu? Người ta bảo bọc nó, nâng niu
nó, cung phụng nó đủ điều. Người ta cung cấp cho nó đủ thức ngon
vật lạ; người ta đùm bọc nó trong hàng lụa, là, gấm vóc; người
ta che chở nó trong nhà cao cửa lớn; người ta dàm làm tất cả
những việc bát nhân tổn đức để cho nó được sung sướng. Cái thân
được quí chuộng, tôn trọng như thế, mà bảo rằng nó là dơ bẩn,
gớm ghiếc thì ai mà nghe được.
- Song bình
tĩnh mà xét lại, cái thân nầy thật không có gi là trong sạch cả.
Ngay từ khi mới đầu thai, cái thân nầy đã bất tịnh rồi, vì nó là
do hai thứ nhơ nhớp là phụ tinh và mẫu huyết mà cấu thành. Ở
trạng thái đầu tiên, nó chẳng khác gì một con hộ trùng, rồi dần
dần lớn bằng hạt đậu, rồi bằng miếng thịt, nằm lẫn trong máu me
nhơ nhớp.
- Về sau, nhờ
sự duy trì của nghiệp thức nó tượng thành hình người, chìm ngập
trong một cái bọc đầy máu huyết. Cái thân nằm co rút trong đó
cho đến chín tháng mười ngày, rồi chun theo một con đường rất
bẩn thỉu, để ra khỏi bụng mẹ. Từ đó, nhừ những thực phẩm phần
nhiều cũng không được tinh khiết gì như thịt cá, mà cái thân lớn
dần. Nếu xét về sự tiêu hóa của thức ăn thì chúng ta cũng không
khỏi lấy làm khó chịu: những món ngon vật lạ, mới nuốt vào thì
cũng ưa thích, nhưng khi đã nuốt vào khỏi cổ cách một đem đẽ
biến thành đồ bất tịnh khi bài tiết ra thì không ai chịu nổi,
ngay đến chủ nhân của nó. Chưa nó đâu xa, cái thân nầy vài ngày
chưa tắm đã thấy bẩn thỉu, rít rắm; cái miệng sáng dạy chưa súc,
đã nghe có mùi hôi rồi. Trong thân, chín lỗ thường trôi chảy ra
những đồ bất tịnh như: đại, tiểu, ghèn, rái, mũi, dãi...lắm
chuyện nhơ nhớp. Ðó là mới nói bề ngoài, bề trong thân người lại
dơ hơn thập phần. Khi mổ bụng một con gà, con heo ta thấy một
đống nào bọc chứa, ruột non, ruột già, tim, gan, phèo, phổi,
bong bóng...như thế nào, thì các bộ phận trong cơ thể ta cũng
chẳng khác gì thế ấy. Nhất là bộ tiêu hóa là chỗ chứa đựng đủ
thứ vật thực hôi thúi, chẳng khác gì một thùng phân.
- Ðó là mới nói
khi lành mạnh, còn khi đau ốm lại càng dễ sợ hơn: nào đàm, nào
mũi, thúi tha tanh hôi không sao chịu được, nhất là gặp những
bệnh nan y như lao, cùi, giang mai, hoa liễu, thì thật là kh ai
dám lại gần. Ðó là khi trẻ, còn khi già đầu bạc răng long, lưng
còm, da nhăn, má cóp, đi đứng yếu ớt, không còn đủ sức để sửa
soạn bề ngoài thì lại càng nhớp nhúa hơn nữa.
- Ðến khi chết,
nghiệp thức không còn duy trì để thay lớn mới đổi lớp cũ, thì da
thịt rã rời, đụng đâu rệu đấy. Nếu không đem chôn cất cho kín,
thì ruồi bọ, troi giòi rúc rỉa, mùi hôi thúi xông lên không ai
chịu nổi.
- Vậy cái thân
nầy quả thật là bất tịnh, không còn chối cãi vào đâu được. Nhưng
người đời vì không xét kỹ nên mới yêu quí nó, cưng dưỡng nó đủ
điều: hễ thân ưa thì mình ưa, thân ghét thì mình ghét; làm nô lệ
cho thân, gây nghiệp, chịu quả báo đời đời kiếp kiếp không dứt.
Cũng vì thân, mà tham, sân, si nổi lên; cũng vì thân mà sát,
đạo, dâm sinh ra; cũng vì thân mà cọng ngôn, ỷ ngữ, lưỡng thiện,
ác khẩu hoành hành. Trăm ngàn vạn điều lỗi lầm, cũng vì quá cưng
dưỡng cái thân nầy mà tạo thành ra.
- vậy hành giả cần phải quan sát
rõ cái thân là bất tịnh, mới tránh được những nghiệp tham ai.
Nhưng quán sát như thế nào?
- Xưa ở Aán độ,
khi một hành giả muốn quán sát thân bất tịnh, thì tìm đến khu
rừng người ta bỏ xác người chết, gọi là thi lâm(1) để quán theo
lối" Cửu tưởng quán" của Phật dạy: Phép quán này gồm các giai
đoạn như sau:
- a) Trướng
tưởng: Ngày đầu ở gần bên cạnh thay chết, quán thây sình trướng
to lên.
- b) Thanh ứ
tưởng: Ngày thứ hai quán thây bị gió nắng xanh xám.
- c) Hoại
tưởng: Ngày thứ ba quán thây bị rã nát.
- d) Huyết đồ
tưởng: Ngày thứ tư, quán thây máu thịt rơi rớt lai láng.
- đ) Nồng lãnh
tưởng: Ngày thứ năm, quán thây chết da thịt rục rã.
- e) Hám tưởng:
Ngày thứ sáu, quán chim thú đến mổ ăn thây.
- ê) Tán tưởng:
Ngày thứ bảy, quán sau khi chim thú ăn, gân xương, đầu mình, tay
chân chia tan nát vỡ.
- g) cốt tưởng:
Ngày thứ tám, quán huyết thịt đã hết, chỉ còn bộ xương trắng bừa
bãi.
- h) Thiêu
tưởng: Ngày thứ chín, quán bộ xương trắng đốt cháy thành tro
đất.
- Chín phép
quán tưởng nầy, để đối trị lòng tham sắc dục.
- Một khi phép
quán nầy đã thuần thục, thì kẻ tu hành thấy một cách tường tận
như ở trước mắt, thân mình và tất cả mọi người điều bất tịnh,
không có gì đáng quý chuộng, ham muốn. Do đó, có thể đối trị
được bịnh tham sắc dục là một bịnh rất trầm trọng và nguy hiểm
của con người trên bước đường tu hành. Nhưng quán thân bất tịnh
là để trừ lòng tham sắc dục, chứ không phải để ghê tởm thân
mình, đến nỗi hũy bỏ mạng sống, hư sáu mươi vị Tỳ Kheo trong
thời Phật tại thế, sau khi qúan thân bất tịnh thuần thục ròi,
thấy ghê tởm mình và người chung quanh, đến nỗi thuê người giết
đi. Ðấy là một điều mà đức Phật nghiêm cấm.
- Ngày nay
chúng ta không có được huệ nhãn như Phật để trỏ vào bọn nữ sắc
mà Thiên ma sai đến để quấy rối, và bảo rằng: "Những cái túi gia
đựng toàn những đồ dơ bẩn kia, hãy đi đi, ta không dùng ! ".
Nhưng nhờ khoa học đã phát minh ra kgoang tuyến, chúng ta có thể
thấy được rõ ràng những bộ xương sườn, xương sống, đầu lâu, tim,
gan, phèo, phổi của một tuyệt thế giai nhân, qua ống rọi kiếng.
Và chỉ chừng ấy củng đủ cho chúng ta quan niệm rằng: Cái đẹp chỉ
là bộ mã bên ngoài , là lớp gia bọc, chứ bên trong thì bộ xương
nào cũng giống nhau cả, và chiếu qua quang tuyến X, thì cái đầu
lâu của một người đép, cũng chẵn khác gì cái đầu lâu trắng phêu
đang nằm lăn lóc ngoài bãi tha ma.
- Hỡi Phật tử,
nếu ai đã phát tâm chân thật tu hành, thì hãy cố gắng thi hành
pháp "quán thân bất tịnh "; nếu chưa đủ phương tiện để thực hành
phép quán ấy, thì cũng đừng bao giờ nên quên rằng: thân người
không trong sạch, không có gì đáng say mê đắm đuối để đến nỗi
phải gây ra bao nhiêu tai hại, tội lỗi không lường cho mình và
người chung quanh.
- 2. Quán tâm
vô thường: Tâm vô thường, nghĩa là cái tướng của tự tâm chúng ta
luôn luôn đổi thay, không thường. cái tướng của tự tâm là gì?
Chính là cái phân biệt, hiểu biết hằng ngày, cái thức.
- Người không
học Phật thì không nhận biết thể chơn như rộng lớn cùng khắp cả
vũ trụ, mà nhận lầm cái phân biệt, cái thức là Ta, và cho rằng
cái Ta ấy là thường còn, không thay đổi, như những ngoại đạo
chấp có thần ngã hay có linh hồn thường trụ.
- Thần ngã là
lối chấp của " Số luận sư ". Họ cho rằng mỗi chúng ta có thần
ngã tự tại, trong sạch, nhưng vì phân biệt, nên nhận thấy có vũ
trụ vạn hữu, rồi sanh lòng ưa muốn, bỏ mất thần ngã tự tại trong
sạch ấy. Vậy muốn cho thần ngã được giải thoát, thì phải dứt ca
ủ cái món phân biệt. Dứt cho hết sạch, không thấy, không nghe,
không biết nữa, thì thần ngã mới hiển lộ ra, và khi ấy mới nhận
biết rằng vì mình mới sanh ra có vũ trụ. Họ cho như thế là rốt
ráo, mà khônh biết thần ngã ấy cũng chỉ là vọng thức mà thôi.
- Còn linh hồn
là lối chấp của đa số thần giáo. Họ cho rằng duy có xác thịt
chết, chứ cái linh hồn trong trường hợp nào cũng vẫn nhận biết
mình, biết người, cũng thấy nghe như xác thịt, không bao giờ
chết...
- Nhưng sự thật
không phải thế: cái tâm của chúng ta không thường chút nào hết.
Nó thay đổi luôn, khi nhỏ khác, khi lớn khác, khi có học khác,
khi chưa học khác, khi vui khi buồn, khi thương khi ghét, khi
chuyên niệm về một chỗ, khi tản mát ra các trần duyên...thật
không có gí là thường hết. nó là tâm pháp vô thường, nó thay đổi
đủ cách, tùy chỗ tu tập của mình à tiến hóa. Nếu tâm là thường
thí không có sanh tử.Nếu tâm là thường, thì dù có tu hành cũng
không tăng trưởng, thì người dốt cứ dốt, người vụng cứ vụng,
người dữ cứ dữ. Nếu tâm là thường thì không ó nhân quả, tu cũng
chừng ấy, mà lành cũng chừng ấy, cho đến người học, người không
học cũng như nhau, chẳng có gì sai khác, thay đổi cả.
- Vì muốn đối
trị cái vọng chấp kia, nên Phật mới dạy phép quán "Tâm vô
thướng", để cho chúng sanh nhận biết rằng cái tâm không phải như
một vật bất biến vô dụng, không phải là cái "Ta" chắc thật muôn
đời, rồi nương vào đó mà sanh ra không biết bao nhiêu là vọng
tưởng phiền não. Những tánh tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến
v.v...đều do ngã chấp mà sanh ra cả.
- Lại cũng vì
chấp tâm là thường nên chi chi cũng là do bản tánh của mình,
không thể sửa đổi được , như bảo:" Tánh tôi hay nóng giận, hay
tham lam "; "Tánh tôi hay đa mê đờn ca xướng hát "; "Tánh tôi
thích cờ bạc rượu chè".
- Họ cho đó là
một lối bào chữa, vì không phải lỗi tại họ, mà tại cái bản ngã
chắc thật của họ như thế rồi, không làm sao sửa đổi được. Do đó,
họ không thể nâng cao tâm trí theo con đường chơn chánh được.
- Vậy, Phật tử
chúng ta cần phải quán sát cái "tâm vô thường" đổi cái tâm mê
lầm ra cái tâm giác ngộ, phải trừ ngã chấp để ra khỏi vòng sanh
tử luân hồi.
- 3. Quán pháp
vô ngã: Pháp, theo tiếng Phạn là Dharma. tàu dịch là quỹ trì,
nghĩa là năm giữ phạm vi của mình, như vuông, dài, tròn méo...để
mỗi khi người ta trông đến, liền nhận biết cái nầy là gi, và
khỏi lẫn lộn với vật khác. Nghĩa chữ Pháp rộng lớn mênh mông,
chỉ cho tất cả mọi sự thật trên vũ trụ, chẳng những các vật hữu
hình, cho đến các vật vô hình tưởng tượng như lông rùa, sừng
thỏ, cũng gọi là Pháp CẢ.
- Còn Ngã có
nghĩa là chủ lễ, là riêng có tự tướng của mình. Người ta thường
chấp các pháp đều có tự tướng của người, vật có tự tướng của
vật, thế giới có tự tướng của quốc gia, xã hội có tự tướng của
xã hội.
- Ðã chấp có tự
tướng của mình, tất nhiên thấy có tự tướng của người khác. Ðối
với tự tướng của một vật, hễ về mình thì không về người khác,
còn về người khác thì không về mình. Do đó, sinh ra tâm niệm
nhân, ngã, bỉ thử, quí trpngj, khinh rẽ, tranh chấp, đấu tranh
trong xã hội.
- Song, xét ra
cho kỹ thì các pháp nào phải thật có "tự tướng"? Nói về lục trần
thì sắc đối với không, động đối với tịnh, sanh đối với
diệt...nào có cái gì riêng một mình thật có tự tướng đâu? Trần
đối với căn mà có hình tướng, căn đối với trần mà có tác dụng,
ngoài trần không có căn, ngoài căn không có trần. Như thế, thì
biết tất cả các pháp, dù căn, dù trần cũng đều không có tự
tướng.
- trong kinh
Lăng Nghiên có câu: "Nhân duyên hòa hợp, hư vọng hữu sanh, nhân
duyên biệt ly, hư vọng hữu diệt". Nghĩa là: các nhân duyên nhóm
họp thì giả dối có sanh, các nhân duyên chia rẽ, thì giả dối có
hoại diệt. Vậy đủ biết: tất cả các pháp làm nhân duyên cho nhau,
in tuồng là có, chứ không có tự tướng. Không có tự tướng, tức là
"vô ngã".
- Ví như trong
giấc chiêm bao, vì nhân duyên chiêm bao hiện ra thấy có cảnh nầy
cảnh khác. Ðương khi ấy, người chiêm bao, cũng lầm tưởng là thật
có, đến khi thức dậy, mới nhận ra đó là cảnh giả dối trong chiêm
bao. Chúng ta cũng thế, vì mê lầm nên không nhận ra được sự giả
dối của sự vật. Trong khi tâm duyên với cảnh, cảnh duyên với
tâm, vạn pháp hiện ra giữa vũ trụ, chúng ta tưởng là thật có.
thật ra, các pháp đều không tự tướng, đều là "vô ngã".
- Chúng ta
không biết lý "pháp vô ngã", cho nên ngoài bị hoàn cảnh kích
thích, trong bị phiền não lay động, quay cuồng theo sự múa rối
của giả cảnh. Vì thế, tuy muốn tự tại mà chưa lúc nào chúng ta
được tự tại, muốn an vui mà chưa lúc nào được an vui, muốn
thường trụ mà vẫn phải trôi lăn trong vòng sanh tử.
- nếu chúng ta
chứng được pháp vô ngã rồi, thì một thể vô ngã trùm khắp cả pháp
giới. Cảnh cũng vô ngã, tâm thức cũng vô ngã, thì còn cái chi mà
ghét, mà thương, mà chịu sanh tử luân hồi nữa.
- Pháp vô ngã
là lối tu giải thoát rốt ráo. Nếu ai ai cũng biết tu hạnh vô ngã
một đôi phần thì đâu có sự ích kỷ hại nhân, và cảnh tượng thế
giới hòa bình đâu phải là điều không thể thực hiện được?
- 4. Quán thọ
thị khổ: Thọ là chịu, nhận lãnh. Thọ thi khổ nghĩa là có nhận
lãnh là có khổ.
- Nhận lãnh đây
là nhận lãnh cái gì?
- Nhận lãnh ở
đây có nghĩa vô cùng rộng rãi, nghĩa là nhận lãnh tất cả những
gì mà người đời có thể nhận được trong cuộc sống. Trước tiên
nhận lãnh cái thân nầy là cái thân rioêng của ta, cái tâm nầy là
cái tâm riêng của ta. Sự thọ nhận nầy là nguồn gốc đầu tiên để
thọ nhận những cái khác nhau về sau: để giữ gìn thân mạng, ta
thọ cái ăn, thọ cái mặc, thọ cái ở, thọ sắc, thanh, hương, vị,
xúc; thọ những cái gì làm cho ta khoái trá, thích thú, vui vẻ.
và lòng tham càng nhiều, thì thọ lại càng lắm. từ cái thọ cần
thiết cho cuộc sống, ta tiến dần đến những cái thọ ít cần thiết,
rồi đến những cái thọ xa xỉ, thừa thải vô ích, nhưng vì thói
quen óp nhặt, tham lam, ta không thể bỏ qua được. Nói tóm lại,
mỗi chúng sanh, mỗi cuộc đời là một chuỗi thọ nhận liên tiếp.
- Và chính thọ
nhận ấy là mần chính của đau khổ.
- Trước tiên ta
thọ nhận cuộc đời; nhưng cuộc đời là gì nếu không phải là một
trường đau khổ, như chúng ta đã thấy trong phần khổ đế? nào
sanh, nào lão, nào bệnh, nào tử, nào yêu mà phải xa lìa, nào oán
mà phải gặp gỡ v.v...thật là toàn những khổ nhưng đó là mới nói
những nỗi khổ căn bản. Ngoài ra, còn bao nhiêu nỗi khổ khác,
cũng do thọ mà ra như: nhận được một cái gì cho là quý thì nơm
nớp sợ mất, lo tìm kiếm cách nầy, chước nọ để giữ gìn nó. Nhưng
cuọc đời đã là vô thường thì còn cái gì là tồn tại mãi? Ngay
cuộc đời của ta mà cũng không giữ mãi được thì còn cái gì được
nữa? Do đó, sanh buòn thương, tiếc nuối, mất ăn bỏ ngủ. Và người
càng thọ nhiều chừng nào lại càng khổ chừng ấy. Kẻ giàu thì sợ
mất của, kẻ có địa vị thì sợ mất địa vị, kẻ có người yêu đẹp thì
sợ mất người yêu, kẻ có danh vọng lớn thì sợ mất danh vọng...
- Nhưng có phải
muốn thọ lãnh thì bao giờ cũng được thọ lãnh theo ý muốn đâu?
Thọ mà may gặp thuận cảnh thì được thỏa dạ trong phát đầu tiên,
nhưng thọ mà gặp nghịch cảnh thì càng thêm đau khổ. Ở đời, thuận
cảnh thì ít, mà nghịch cảnh thì quá nhiều. Thường thường, ta
ngửa tay mong nhận lãnh một cái nầy, mà một cái trái ngược khác
lại rơi vào tay ta ! Do đó, sanh giận dữ, thất vọng, khổ đau.
- Ðó là nghĩa
của "Thọ thì khổ". Phép quán nầy mục đích đối trị bệnh tham là
một bệnh trầm trọng nhất trong các bệnh phiền não, đã ăn sâu gốc
rễ trong lòng chúng sanh từ lâu đời lâu kiếp.
- Vậy Phật tử
chúng ta, muốn diệt trừ tánh tham, phải quán "thọ thị khổ". ta
phải luôn luôn nhớ lời Phật dạy: hễ có lãnh thọ thì có khổ; càng
lãnh thọ nhiều thì càng khổ lắm. càng ít lãnh thọ, thì khổ đau
càng ít. Tất nhiên chúng ta không thể xả bỏ tất cả trong một
lúc; nhưng chúng ta nên tuần tự xả những gì dễ xả, có thể xả
được, rồi đi dần đến những cái khó xả. Càng xả chứng nào lại
càng nhẹ gánh đau thương. Người đời thường cho rằng càng gánh
nhiều vàng bạc châu báu, danh vọng, địa vị, sắc đẹp, vui thú,
lại càng sướng; nhưng đã gọi là gánh gì thì gánh cũng là gánh,
và càng gánh nặng thì vai càng đau, chân càng mỏi, đi càng chậm;
tóm lại khổ càng nhiều. Trái lại, nếu chúng ta không lãnh thọ,
như sắc đẹp, mùi ngon, vị lạ v.v...thì thân tâm ta không bị lay
động. Ðối với cảnh ta thấy không có gì đáng ưa, cũng không có gì
đáng khổ sở. Như thế mới được an nhiên tự tại thoát vòng khổ
đau.
-
C. Kết Luận
- "Tứ niệm xứ"
là gíao lý căn bản trong phần Ðạo đế. Có hiểu được giáo lý nầy
một cách tường tận thì sự tu hành mới vững chắc được. Nó đánh đổ
được một cách rốt ráo bón thánh kiến sai lầm lớn lao của con
người là: tưởng thân mình là quý báu tốt đẹp trong sạch; tưởng
tâm mình là vĩnh viễn thường còn, như một linh hồn bất diệt;
tưởng mọi sự vật trên đời nầy chắc thật trường cữu; tưởng thu
nhận tom góp được nhiều chừng nào thì sung sướng chừng ấy.
- Nhưng sự thật
lại rất trái ngược:
- 1) Thân thì
bất tịnh, như một cái đãy đựng đồ dơ, không đáng nâng niu chìu
chuộng.
- 2) tâm thì vô
thường, luôn luôn biến đổi theo với hoàn cảnh bên ngoài, không
có gì là trường tồn, bất diệt.
- 3) Pháp thì
vô ngã, không có tự tánh nhất định, không chắc thật mà đều là
như huyễn như hóa.
- 4) thọ thì
khổ, chẳng hạn, ta thọ lãnh cái thân, thì cái thân là dơ bẩn; ta
thọ lãnh cái tâm, thì tâm là vô thường là luôn luôn biến đổi; ta
thọ lãnh sự vật ở chung quanh, thì sự vật đều là giả trá, như
khói, như mây. Do đó, càng thọ lãnh nhiều chừng nào, lại càng
đau khổ nhiều chừng ấy.
- vậy chúng ta
phải luôn luôn quán sát, ghi nhớ bốn sự thật trên đây. Càng
chứng được bốn sự thật ấy chừng nào thì sự chấp ngã, chấp pháp,
tham, sân, si lại càng bớt dần chừng ấy.
- Phật tử càng
nắm vững bốn sự thật ấy chừng nào, thì sự tu hành theo các môn
trong Ðạo đế sau nầy, như bốn món chánh cần, bốn món Như ý túc,
Ngũ căn, Ngũ lực v.v...mới dõng mãnh và chópng có kết quả chừng
ấy.
- (1) Ở Ấn-độ
có 4 cách táng người chết là thả xuống sông, hỏa tiêu, chôn và
bỏ vào rừng.
--o0o--
|
|