-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Phật
Học Phổ Thông
- Khóa Thứ
Ba
Thinh
Văn Thừa Phật Giáo
- --- o0o ---
- Bài Thứ 9
(tt)
- Ð. Thất Bồ
Ðề Phần
-
A. Mở Ðề
- Thất Bồ đề
phần cũng là một pháp môn quan trọng không kém gì ngũ căn. Sở dĩ
đức Phật chế ra nhiều pháp môn như thế là để tùy căn cơ từng
người, ai hợp pháp môn nầy về tên gọi, về chi tiết thì có khác
nhau, nhưng về đại thể, về tinh thần thì có nhiều chỗ giống
nhau. Vì thế, chúng ta sẽ thấy trong pháp môn "Thất Bồ đề phần"
có nhiều điểm giống như trong "Tứ Như ý túc" hay "Ngũ căn, Ngũ
lực".
- B. Chánh Ðề
- I. Ðịnh
Nghĩa Thất Bồ Ðề Phần
- Bồ đề do
phiên âm chữ Phạn Boddhi mà ra. Người Trung hoa dịch là Giác
đạo, hay đạo quả gíac ngộ. Phần là từng phần, từng loại. Thất Bồ
đề phần là bảy pháp tu tập tuần tự hướng đến đạo quả vô thường
Bồ đề, hay bảy pháp giúp người tu hành thnàh tựu đạo quả Ðại
giác.
- Nó cũng có
tên là Thất giác chi. "Giác: tức là Bồ đề, còn "Chi" tức cũng
như phần vậy. Thất giác chi tức là bảy nhánh, bảy phương tiện đi
đến đích giác ngộ.
- II. Thành
Phần Và Nội Dung Của Thất Bồ Ðề Phần
- Thất Bồ đề
phàn gồm có:
- 1. Trạch
pháp: Trạch là lựa chọn; Pháp là pháp môn, là phương pháp tu
hành. Trạch pháp là dùng trí huệ để lựa chọn pháp lành để tu,
pháp dữ để tránh. Trong sự tu tập, nếu ta không có trí phân biệt
chánh tà, tất phải lầm lạc. Như các bài trước đã nói, lòng tin
của người Phật tử phải dựa trên lý trí, nếu không là mê tín. Ðức
Phật có dạy: "Hãy dùng trí huệ suy nghiệm, giải trạch các pháp,
rồi sẽ tin thọ, thật hành theo". Nếu tu lầm, tin chạ, điều có
nguy hại gắp trăm nghìn lần người không tu hành. Vì vậy, Phật tử
chúng ta muốn thẳng tiến trên đường giác ngộ, giải thoát, không
phải nghe ai bảo gì tin nấy, không phải tự bảo một cách bừa bãi:
"đạo nào cũng tốt cả"; không phải dung dung hòa Phật giáo với
ngoại đạo; trái lại, Phật tử cần sáng suốt để phòng sự đánh lộn
sòng của các ngoại đạo, sự xuyên tạc xảo quyệt để làm mất lòng
tin sáng suốt của chúng ta. Chúng ta phải luôn luôn tỉnh táo
phân biệt chánh, tà, chân, ngụy; phải thường trí huệ mà giản
trạch cả những pháp ở ngoài và những ý tưởng chơn vọng của tâm
để tu, để đoạn.
- 2. Tinh tấn:
Nhưng một khi đã lựa chọn được pháp môn chân chính để tu rồi,
thì phải tinh tấn, nghĩa là luôn luôn dũng tiến trên bước đường
tu tập, không quản ngại gian lao khó nhọc, không khiếp sợ; không
thối chuyển, không tự mãn, tự cao mà bỏ dở mục đích chưa đạt
được (như đã nói ở bài ngũ căn).
- 3. Hỷ: Nghĩa
là hoan hỷ. Nhờ tinh tấn tu hành, nên đoạn trừ được dần phiền
não thành tựu vô lượng công đức, do đó, sanh tâm hoan hỷ và phấn
chí tu hành.
- 4. Khinh an:
Khinh là nhẹ nhàng. An là an ổn. Nhờ sự tinh tiến tu tập nên
thân tâm được thanh tịnh; do đó người tu hành cảm thấy nhẹ
nhàng, khoan khoái, khinh an, như đã trút được gánh nặng dục
vọng, mê mờ.
- 5. Niệm:
(Cũng như chữ niệm trong mấy bài trước) nghĩa là thường ghi nhớ
chánh pháp để thực hành. Tâm niệm ta, nếu không thường nhớ chánh
pháp, tất nhiên tạp niệm phát sanh, phiền não tăng trưởng. Cũng
như một đám đát nếu không trồng hoa, thì cỏ mọc. Vì thế người tu
hành cần phải để tâm ghi nhớ chánh pháp, đừng cho xao lãng buông
lung nghĩ bậy.
- 6. Xả: Nghĩa
là bỏ ra ngoài không vướng bận. Xả tức là hành xả tâm sở, một
trong 11 món Thiện tâm sở.
- Hành xả nghĩa
là thế nào?
- Người tu
hành, nhờ trí sáng suốt, nhận biết "thọ là khổ", nên không nắm
giữ một thứ nào hết, dù quý báu bao nhiêu. Ngay trong sự tu hành
cũng vậy, họ không trụ trước ở các pháp mình đã tu, đã chứng;
trái lại họ luôn luôn xả bỏ những gì mình đạt đến, để tiến triển
trên bước đường đi đến giải thoát. Nếu người tu hành cứ mãi say
đắm vào quả vị mình đã chứng, thì suốt đời sẽ bị trầm một nơi
đó, không bao giờ có thể tiến lên, để đạt thành đạo quả vô
thượng Bồ đề. Kinh Kim Cang sớ có nói: "Người tu hành phải như
người nương thuyền qua sông, khi thuyền đã cập bến, nếu ta không
bỏ nó để lên bờ, thì đừng hòng đến dâu và biết gì được. Người
muốn thành đấng siêu việt tự tại, cần phải từ trước khước mọi
đắm say".
- Pháp hành xả
nầy giúp chúng ta thành tựu sự siêu việt.
-
C. Kết Luận
- Tóm lại,
người tu bảy pháp Bồ đề phần nầy, chắc chắn sẽ được bốn kết quả
quý báu sau đây:
- 1. Tất cả
pháp ác đều được tiêu trừ.
- 2. Tất cả
pháp lành càng ngày càng tăng trưởng.
- 3. Vì thường
tu thiện, đoạn ác, nên luôn luôn được an lạc, không bị đau khổ.
- 4. Sẽ chứng
thành Phật quả.
--o0o--
|
|