-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
-
Phật Học Phổ Thông
- Khóa Thứ Ba
Thinh Văn Thừa Phật Giáo
- --- o0o ---
- Bài Thứ 10
- Ðạo Ðế (Nirodha Gamadukkha)
(Tiếp Theo)
- E. Bát
Chánh Ðạo
-
A. Mở Ðề
- Trong 37
món trợ đạo, Bát Chánh đạo là một pháp môn chính, được nhắc
nhở đến nhiều nhất. Vì thế, mỗi khi nói đến Ðạo đế là người ta
liên tưởng đến Bát Chánh đạo. Thậm chí có người tưởng lầm rằng
Ðạo đế với Bát Chánh đạo là một.
- Sở dĩ Bát
Chánh đạo được xem là pháp môn chính của Ðạo đế, vì pháp môn
nầy rất đầy đủ có thể bao gồm được các pháp môn khác của Ðạo
đế. Nó rất phù hợp với mọi căn cơ, mọi thời đại, mọi phương
sở; đối với Tiểu Thừa cũng như Ðại Thừa, người Ðông phương
cũng như Tây phương ai ai cũng đều công nhận giá trị hoàn toàn
cao cả của Bát Chánh đạo, và đeù áp dụng pháp môn nầy trong sự
tu hành của mình để doạn trừ phiền não khổ đau, hầu bước lên
con đường giải thoát, an vui, tự tại.
-
B. Chánh Ðề
- I. Ðịnh
Nghĩa Bát Chánh Ðạo
- Bát Chánh
đạo là tám con đường ngay thangẻ hay tám phương tiện mầu nhiệm
đưa chúng sinh đến đời sống chí diệu.
- Người ta
cũng có thể dịch nghĩa "Bát Chánh đạo" là con đường chánh có
tám ngánh, để đưa chính sinh đến địa vị Thánh.
- Cũng có khi
người ta gọi Bát Chánh đạo là "Bát Thánh đạo" vì cái diệu dụng
của nó sau đây:
- a) Những kẻ
phàm phu học đạo, noi theo pháp môn nầy mà tu, thì khỏi lầm
lạc vào nẻo nguy hiểm, lần hồi sẽ chứng được quả Hiền Thánh.
- b) Những
bậc Hiền, Thánh nương theo tám phương tiện nầy thì sẽ đi đến
cảnh Niết Bàn.
-
Bát Chánh đạo gồm có:
- 1. Chánh
kiến
- 2. Chánh
tư duy
- 3. Chánh
ngữ
- 4. Chánh
nghiệp
- 5. Chánh
mạng
- 6. Chánh
tinh tấn
- 7. Chánh
niệm
- 8. Chánh
định
- II. Nội
Dung Và Giá Trị Mỗi Thành Phần Của Bát Chánh Ðạo
- 1. Chánh
kiến: Chánh là nagy thẳng, đúng đắn; Kiến là thấy, nhậ biết.
Chánh kiến hay Chánh tri kiến là thấy, nghe, hay, biết một
cách ngay thẳng, công minh, đúng với sự thật khách quan. Người
có chánh kiến thấy như thế nào thì nhận đúng như thế ấy, không
lấy trắng làm đen, xấu làm tốt, dở làm hay, hay trái lại. Sự
nhận xét sự vật của người ấy không bị tập quán, thành kiến,
dục vọng ngăn che hay làm sai lạc. Người có chánh kiến biết
phân biệt cái nào giả, cái nào thật. Và khi đã biết cảnh giả,
vật dối, thì mắt không chăm, tâm không chú; còn khi rõ biết
cảnh vật thật, lời lẽ chân, thì chuyên tâm vào sự lý chân thật
làm cho đèn huệ sáng ngời, tiền trần không phương che ám được.
- 2. Chánh tư
duy: Tư duy là suy nghĩ, nghiệm xét; nó thuộc về ý thức. Chánh
tư duy là suy nghĩ, xét nghiệm chân chánh, tư tưởng đúng với
lẽ phải.
- Người tu
theo phép Chánh tư duy, thường xét nghĩ đạo lý cao siêu, suy
tìm thể tánh nhiệm mầu, biết xét những hành vi lỗi lầm, những
ý nghĩ xấu xa để sám hối; biết suy nghĩ về ba món vô lậu học:
Giới, Ðịnh, Huệ, để tu giải thoát; biết suy xét vô minh và
nguyên nhân đau khổ, là nguồn gốc của tội ác, và tìm phương
pháp đúng đắn để tu hành hầu giải thoát cho mình và cho người.
- 3. Chánh
ngữ: Ngữ là lời nói; Chánh ngữ là lời nói chân thật, công
bình, ngay thẳng và hợp lý.
- Người tu
theo chánh ngữ, không bao giờ nói sai, không thiên vị, thấy dở
nói hay, không xuyên tạc, nghe một đường nói một ngả. Người
theo chánh ngữ rất thận trọng lời nói; trước khi muốn nói gì
phải suy nghĩ coi có lợi ích và chân thật không. Xưa đức Khổng
Tử vào viếng chốn cổ miếu, thấy bức tranh họa một hình người
kẹp miệng ba lần, Ngài day lại dạy môn đệ phải cẩn thận lời
nói.
- Ngày xưa,
trước khi đức Phật sắp nhập Niết Bàn, có Ðệ tử hỏi:
- Bạch đức
Thế Tôn, khi Phật nhập Niết Bàn rồi, người đời sau gặp nhièu
sách vở ngoại đạo không sao phân biệt với kinh Phật , như thế,
biết tin theo lời nào tu?
-
Phật dạy:
- Chẳng luận
là lời nói của ai miễn là lời ấy đúng sự thật, hợp chân lý thì
cứ tin theo mà tu.
-
Vậy, phàm những lời nói đúng lý, hợp lẽ, có lợi ích cho toàn
thể chúng sinh là chánh ngữ. Những lời nói ấy chúng ta phải
tin theo và tập nói cho đúng như thế.
- 4. Chánh
nghiệp: Nghiệp là do người Trung Hoa dịch chữ Phạn Karma mà
ra. Nghiệp hay Karma nghĩa là hành động tạo tác.
- Chánh
nghiệp là hành động, việc làm chân chính, đúng với lẽ phải,
phù hợp với chân lý, có lợi ích co người lẫn vật.
- Người theo
đúng "chánh nghiệp" là người luôn luôn thận trọng , giữ gìn
mọi hành động của mình, để khỏi làm tổn hại đến quyền lợi,
nghền ghiệp, địa vị, danh giá, hạnh phúc, tánh mạng của người
khác. Hơn nưa người theo đúng chánh nghiệp bao giờ cũng tôn
trọng lương tâm nghề nghiệp của mình, luôn luôn hành động có
lợi ích cho mọi người, mọi vật; và nếu cần, có thể hy sinh
quyền lời hay tánh mạng mình để giải thoát nỗi đau khổ cho
người khác.
- Ngoài ra
cũng gọi là chánh nghiệp, khi dùng trí huệ để quán tưởng những
pháp chân chính, hoặc ngồi Thiền, niệm Phật , hoặc trì tụng
kinh hành, để giữ gìn thân, khẩu, ý ba nghiệp cho thanh tịnh.
- 5. Chánh
mạng: Mạng là sự sống, đời sống. Chánh mạng là sanh sống một
cách chân chính bằng nghề nghiệp lương thiện, trong sạch của
mình. Người theo đúng Chánh mạng sống một cuộc đời ngay thật,
không gian tham, không làm giàu trên mồ hôi, nước mắt của
người khác, không làm cho người và vật phải đau khổ vì nghề
nghiệp của mình. Người theo đúng Chánh mạng sống một cuộc đời
có ý nghĩa lợi mình, lợi người, xứng với bát cơm mình ăn
không, manh áo mình mặc chứ không ăn không ngồi rồi, sống bám
vào người khác.
- Người theo
Chánh mạng sống đúng Chánh pháp, không mê tín dị đoan, và biết
thân tứ đại vốn vô thường, nên lấy tịnh giới làm thể, lấy trí
huệ làm mạng, bỏ niệm vọng cầu, an vui với chánh pháp.
- 6. Chánh
tinh tấn: Chữu tinh tấn ở đây cũng cùng nghĩa như tinh tấn đã
nói trong bài trước, nghĩa là chuyên cần, siêng năng, thẳng
tiến mục đích đã vạch sẵn không vì một lý do gì mà lùi bước.
Chánh tinh tấn là chuyên cần, siêng năng làm việc chánh nghĩa,
lợi lạc cho mình cũng như cho người và vật.
- Người theo
đúng Chánh tinh tấn, trước tiên, bao giờ cũng hăng hái sửa
mình, cương quyết bài trừ những điều ác, quyết tâm phát triển
mọi hạnh lành (xem bài Tứ Chánh cần). Người theo đúng Chánh
tinh tấn, dũng mãnh tiến lên trên đường đi đến giải thoát, cho
đến lúc nào đạt được mục đích cao cả, cùng tột ấy mới thôi
(xem đoạn "Tấn căn" trong bài Ngũ căn).
- Nói tóm
lại, người theo đúng Chánh tinh tấn, quyết tạo nghiệp vô lậu
xuấ thế gian, lấy chánh trí làm mãnh lực, lấy Niết Bàn làm chỗ
quy hướng, một lòng chẳng trễ, muôn kiếp không dời, quyết công
phu, định thành đạo quả để trước tự độ, sau hóa đôĩ chúng
sanh.
- 7. Chánh
niệm: Niệm là ghi nhớ (cũng như nghĩa chữ niệm ở các bài
trước). Chánh niệm là ghi nhớ đến những điều hay lẽ phải,
những điều lợi lạc cho mình cho người, những đạo lý chân chính
quý trọng cao siêu.
- Chánh niệm có hai phần:
- a) Chánh ức
niệm: là nghĩ nhớ đến các điều lỗi lầm để thành tâm sám hối,
và nghĩ nhớ đến Tứ trọng ân: ân cha mẹ, ân tổ quốc, ân chúng
sinh và ân Tam Bảo để lo báo đền.
- b) Chánh
quán niệm: là dùng tâm từ bi xét nghĩ cuộc đời là khổ não, tật
bệnh, mê mờ mà chúng sinh đang mắc phải, để mở rộng lòng
thương yêu và quyết ra tay cứu độ.
- Người theo đúng Chánh niệm,
thường quán sat cảnh chân đế, năng tưởng niêĩm các pháp trợ
đạo; bất luận ở đâu và làm gì, cũng nhớ nghĩ đến cái quả vô
lậu xuất thế gian, dù trải qua bao nhiêu số kiếp cũng không
thối tâm xao lãng.
- 8. Chánh
định: Chữ "Ðịnh" ở đây cũng đồng nghĩa như chữ định trong các
bài trước, nghĩa là tập trung tư tưởng vào một vấn đề gì, để
thấy cho rõ ràng. Chánh định là tập trung tư tưởng vào một vấn
đề chính đáng, đúng với chân lý, có lợi ích cho mình và người.
- Người theo
đúng Chánh định, thường tập trung tư tưởng để quan sát những
vấn đề chính sau đây:
- Quán thân
bất tịnh: (bất tịnh quán) túc là quán tưởng thân không thanh
tịnh, để trừ tham dục, sai ái (xem lại đoạn: "quán thân bất
tịnh" trong bài Tứ niệm xứ).
- Quán từ bi
(từ bi quán) là quán tưởng tất cả chúng sinh đều là một chân
tâm, bình đẳng không khác, để đoạn trừ thù hận, và mở rộng
lòng thương yêu để cứu độ chúng sinh.
- Quán nhân
duyên: (nhân duyên quán) là quán tưởng tất cả pháp hữu hình
như muôn vật, vô hình như tâm niệm đều là giả hợp, duyên nhau
mà có, chứ không có một cách chân thật, không trường tồn, để
đoạn trừ ngu si, pháp chấp.
- Quán giới
phân biệt: (giới phân biệt quán) nghĩa là phân biệt và quán
tưởng sự giả hợp của 18 giới: 6 căn, 6 trần, 6 thức để thấy
không thật có "ngã, pháp" ngõ hầu diêth trừ ngã chấp, pháp
chấp.
- Quán hơi
thở: (sổ tức quán) nghĩa là qúan tưởng bằng cách chuyên chú
đếm hơi thở ra vào, để đổi trị sự tán loạn của tâm thức.
-
C. Kết Luận:
- Như đã nói
ở đoạn mở đề, Bát Chánh đạo là pháp môn rất được thông dụng.
Sự thông dụng này sở dĩ có được là nhờ lợi ích thiết thực và
quý báu của nó đối với đời sống cá nhân của người tu hành, đối
với xã hội, và đối với đời sống tương lai. Có thể tóm tắt
những lợi ích, hay công năng của Bát Chánh đạo trong ba điểm
sau đây:
- 1) Cải
thiện tự thân: Nếu con người chuyên tu theo tám đường chánh
này, thì sửa đổi được tất cả mọi sự bất chính, mọi tội lỗi
trong đời sống hiện tại của mình, như ý niệm me mờ, ngôn ngữ
đảo điên, hành vi sái quấy, đời sống vô luân. Khi những điều
trên nầy đã được cải thiện, thì tất cả cuộc đời riêng của mỗi
người sẽ chân chính, lợi lạc và thiện mỹ.
- 2) Cải
thiện hoàn cảnh: Nếu trong xã hội ai ai cũng đều chuyên tu
theo tám đường chánh đạo nầy, không những có nhiều lợi lạc
trong cuộc đời hiện tại mà còn gây tạo cho mình một tương lai
tươi sáng, gieo trồng cho mình những hạt giống Bồ đề để ngày
say gặt háu quả vô thượng Niết Bàn, đầy đủ bốn đức Thường,
Lạc, Ngã, Tịnh.
- Vì những
lợi ích quý báu như thế, chúng tôi xin khuyên mọi Phật tử hày
phát nguyện cương quyết tu theo Bát Chánh đạo.
- Tổng Kết Về
Ðạo Ðế
- Chúng ta
vừa biết qua nội dung của Ðạo đế , hay 37 món trợ đạo là: Tứ
niệm xứ, Tứ chánh cấn, Tứ như ý túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất Bồ
đề phần, Bát Chánh đạo. Phần Ðạo đế đã chiếm hết bốn bài trong
mười bài nói về Tứ đế. Chỉ cái số lượng ấy cũng đủ nói lên sự
quan trọng mà đức Phật muốn dành cho phương pháp tu hành để
chứng nhập Niết Bàn. Nhưng chúng ta đừng nên thấy quá nhiều
pháp môn mà vội nản lòng, thối chí. Vì căn cơ chúng sinh không
đều, nên đức Phật cần chế ra nhiều pháp môn, để mỗi người có
thể tùy theo căn cơ mính mà lựa pháp môn thích hợp để tu hành.
Tất nhiên một người có thể tu nhiều pháp môn nếu có đủ khả
năng, trí tuệ, sức khỏe; những nếu không đủ điều kiện, thì tu
một pháp môn cũng được. Khi tu thành một pháp, các pháp kia
đều thành, vì nó là một nhiếp thuộc lẫn nhau.
- Vậy Phật tử
không nên ngã lòng thối chí. Với sự quyết tâm, với đức tinh
tấn, chúng ta tùân tự tiến dần vào Ðạo đế, không lo sợ, không
nghi ngờ, cũng không quá bồng bột, nóng nảy, rồi đây chậm hay
nhanh, thế nào cũng phải đến đích.
- Hỡi quí vị
Phật tử ! Mười phương các đức Như Lai, đầu tiên đều nhờ các
pháp môn nầy mà dần dần được viên thành Phật quả. Tất cả Thánh
giả trong ba thừa, đeù nương vào đây để tu hành cho đến ngày
đạt đích. Chúng ta, đạn con Phật , những người đang canh cánh
ôm ấp bên lòng trí nguyện thành Phật , để cứu độ và cứu độ
chúng sinh, lẽ nào trong lúc đức Phật đã vì lòng từ bi mà sửa
soạn cho chúng ta mọi phương tiện , mọi hành lý để tiến lên
đường giải thoát, chúng ta lại do dự, chần chờ hay thối thác !
- Vậy chúng
ta hãy mau mau cất bước lên đường giải thoát.
-
- HẾT
--o0o--
|
|