-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Phật
Học Phổ Thông
- Khóa Thứ
Tư
- Duyên Giác
và Bồ Tát Thừa Phật Giáo
- Bài Thứ 3
- Quán Từ Bi
-
A. Mở Ðề
- Trong các
nguyên nhân gây ra đau khổ cho mình và cho người, tánh nóng giận
là một nguyên nhân lớn, chẳng kém gì lòng tham lam và tánmh ngu
si. Từ vo thỉ đến nay sự xây dựng của loài Ngài lớn lao vô kể;
những sự phá hoại vì lòng giận dữ của họ, cũng lớn lao vô cùng.
Loài người xây rồi phá, phá rồi xây không ngừng, chẳng khác gì
những đứa trẻ xây nhà trên cát, xây xong rồi đạp đi, để rồi xây
lại. Và nguyên nhân của sự phá hoại ấy là lòng nóng giận. Có
những sự nóng giận nho nhỏ trong nhà giữa vợ chồng làm đổ vỡ
chén bát; có những sự nóng giận giữa anh em làm u đầu sưng trán;
có những sự nòng giận giữa bạn bè làm đoạn tuyệt đường đi lối
về; có những sự nóng giận giữa tình địch, hay đồng nghiệp kinh
doanh cần phải thanh toán bằng lưỡi dao, mũi súng hay lọ át xít;
có những sự nóng giận lớn lao hơn, giữa nước này với nước khác,
màu da này với màu da nọ, chủ nghĩa này với chủ nghĩa kia, mà
kết liễu là những thấy ma nằm ngổn ngang trên bãi chiến trường,
những kẻ tật nguyền trong các bệnh viện, và những chiếc khăn
tang trên đầu các cô nhi quả phụ...
- Tất cả những
tai họa trên đều do sân hận mà ra. Sân hận nằm sẵn trong lòng
mỗi người, như những ngọn lửa âm ỉ cháy, như những ngòi thuốc
súng sẵn sàng bùng nổ bất luận lúc nào. Lửa gặp lửa, thuốc súng
gặp thuốc súng, không nói, chẳng ai cũng biết tai hại do chúng
gây ra lớn lao như thế nào !
-
B. Chánh Ðề
- I. Ðịnh Nghĩa
- Thông thường,
người ta có quan niệm sai lầm rằng: Từ bi là bi lụy, mềm yếu,
than khóc, tiêu cực...Người ta tưởng rằng hễ đã từ bi , thì ai
muốn làm thế nào mình cũng chịu, sống trong hoàn cảnh thế nào
mình cũng theo, thiếu tinh thần tiến thủ...Tóm lại, từ bi theo
nghĩa thông thường là than khóc và nhu nhược.
- Những thật
ra, từ bi theo Ðạo Phật có nghĩa khác xa. Phật dạy: "Từ năng dữ
nhứt thiết chúng sinh chi lạc; Bi năng bạt nhứt thiết chúng sinh
chi khổ". Nghĩa là Từ cho vui tất cả chúng sinh; Bi là diệt trừ
cái khổ cho tất cả mọi loài. Diệt khổ và cho vui đó là tất cả
nguyện vọng và hành động lợi tha, cứu đời của người có lòng từ
bi. Thế nên, từ bi không phải là thụ động, là trốn đời hay nhu
nhược. Cái khổ và cái vui nói ở đây không chỉ là khổ và vui vật
chất mà còn cả khổ và vui tinh thần.
- Hết khổ và
được vui tức là khía cạnh của cuộc đời, nhưng không thể rời bỏ
nhau được. Khi được vui một phần nào, tức là đã bớt khổ một phần
nào, ấy là trong Từ có Bi; và trái lại, khi bớt khổ một phần
nào, tức là đã được vui một phần ấy như thế là trong Bi có Từ.
Cũng như một đứa bé đang khổ sở vì đi lạc đường, bỗng có ai chỉ
đường cho nó, nó liền vui mừng và hết khổ.
- Vậy từ bi là
một lòng thương rông lớn vô biên, nó xui khiến người ta vận dụng
tất cả khả năng, tâm tư, phương tiện để làm cho mọi người, mọi
vật thoát khỏi được vui.
- II. So Sánh
Từ bi Với Bác Aùi
- Bác ái là
tình thương yêu rộng lớn. Như thế thì bác ái và từ bi đều có một
tánh chất giống nhau ở chỗ rộng hẹp, sâu cạn mà thôi. Có người
cho rằng bác ái rộng hơn từ bi.Cho như thế là vì chưa hiểu rõ
hai chữ Từ bi. Như trên đã định nghĩa: Từ là cho vui tất cả
chúng sinh; Bi là diệt trừ mọi nỗi khổ cho tất cả mọi loài.
Chúng ta đã biết Phật dùng hai chữ chúng sinh là để chỉ cho tất
cả mọi sinh vật. Vậy Từ là cho vui tất cả mọi sinh vật, chứ
không phải riêng cho loài người. Tất cả mọi vật có sự sống đều
được chung hưởng tình thương ấy. Còn Bi là diệt trừ mọi nỗi khổ
cho chúng sinh. Chúng ta nên để ý là trong câu định nghĩa chữ
Hán, các kinh dùng chữ "bạt" nghĩa là nhổ tận gốc rễ. Vâng, nhổ
tận gốc rễ của cái khổ chứ không phải chỉ thoa dịu cái quả khổ
trong hiện tại, mà để mặc cho cái nhân gây ra khổ mãi về sau.
Người có lòng Bi là vừa thoa dịu vết thương đau khổ trong hiện
tại và vừa chữa cho khỏi nguyên nhân hay gây ra đau khổ, như
người làm vườn, không phải chỉ phác cho sạch cỏ trên mặt đất, mà
còn đào sâu xuống dưới, nhổ cho hết gốc rễ của cỏ nữa.
- Như thế thì
Từ bi, về phương diện không gian, bao gồm tất cả mọi loài, còn
về phương diện thời gian, bao gồm tất cả quá khứ, hiện tại và
tương lai. Còn bác ái thì chỉ chú trọng nhiều về loài người mà
ít để ý đến sinh vật; và chỉ lo cứu khổ, cho vui trong hiện tại
mà ít nghĩ đến cái quả trong tương lai.
- Nói một cách
khác, Từ bi là gồm hết nghĩa bác ái ở trong ,còn bác ái htì
chẳng trùm được lý Từ bi.
- III. Từ Bi
Cứu khổ Và Cho Vui Như Thế Nào
- Trong khi so
sánh Từ bi với Bác ái, chúng tôi đã nói, về phương diện không
gian, Từ bi bao gồm tất cả mọi loài. Thật thế, tình thường của
Ðạo Phật vô cùng rộng lớn. Phật dạy không được sát sinh người mà
cả muôn loài vật nữa. Người Phật tử chân chính, triệt để tuân
theo lời Phật dạy, không những không giết hại sinh vật để ăn, mà
cũng không giết hại sinh vật trong các cuộc săn bắn hay câu cá
để mua vui. Ngày xưa, các vị Tỳ kheo trước khi uống nước ao hồ,
phải dùng mọt cái lọc để lọc nước, như thế vừa hợp vệ sinh, vưà
tránh khỏi sát sinh những sanh vật nhỏ ở trong nước. Mỗi khi vào
cầu, những người tu hành phải gõ xuống đất ba tiếng, để cho
những sinh vật dưới cầu biết mà tránh trước. Những cử chỉ ấy mặc
dù nhỏ nhặt, những đã thể hiện được một cách chân thành lòng từ
bi của người Phật tử chân chính. Chính nhờ lòng từ bi ấy mà cuộc
đời bớt tàn khốc, chiến trường được thu hẹp, người và vật không
còn sát hại nhau, mà trái lại còn xem nhau như anh em.
- Những nếu chỉ
cho vui và diệt khổ trong hiện tiền mà không nghĩ đến cho vui và
diệt khổ trong tương lai thì cũng chưa gọi là Từ bi.Bởi thế, cần
phải gây nhân vui và diệt nhân khổ. Nhân vui và nhân khổ ở đâu
mà có? Trong kinh thường dạy: Khổ do nghiệp, nghiệp do hoặc.
Hoặc tức là phiền não. Phiền não đều ở trong tâm mỗi chúng ta.
Tâm nguồn gốc của mọi hành động, của mọi kết quả. Vậy thì quả
khổ hay vui chỉ do tâm cả. Tâm chúng sinh đầy dẫy phiền não tật
xấu, dung chứa vô số hạt giống cay chua, đắng độc. Dĩ nhiên,
những mầm mống ấy sẽ trổ ra những quả khổ gian lao. Bởi thế, Ðạo
Phật rất chú trọng vấn đề tu tâm, dưỡng tánh cho chính mình và
người.
- Muốn cứu khổ
cho thật tình, chẳng những lo cứu khổ quả, mà còn pahỉ trừ nhơn
khổ cho sớm. Thế mới đúng như định nghĩa đã nói ở trên về chữ BI
(Bạt nhứt thiết chúng sinh chi khổ). Chẳng hạn, muốn một người
nào khỏi bị cái khổ tù đày, lao lý, bắt bớ, hành hạ, ta phải dạy
họ đừng tham lam, trộm cướp và cần thiết phải biết bố thí, qúy
trọng của cải của người. Muốn cho người nào khỏi khổ vì sự chia
rẻ, sát hại, thù hằn, ta phải dạy cho họ đừng sân mà cần phải
biết nhu hòa, nhẫn nhục. Muốn cho người nào khỏi khổ vì sự ngu
si cám dỗ, bóc lột, khinh hèn, ta phải dạy cho họ được sáng
suốt, giác ngộ cảnh đời. Khi họ hiểu rồi, tất nhiên không bảo họ
tránh khỏi, họ vẫn tránh.
- Muốn cho sự
nghiệp lợi tha này được hoàn toàn, người tu hạnh Từ bi,còn có
bổn phận phải chỉ bảo cho người chung quanh những phương pháp tu
hành cho có hiệu quả, như niệm Phật, tham thiền chẳng hạn, để
cho tâm địa của họ được tăng trưởng công đức lành.
- IV. Phương
Pháp Quán Từ Bi
- Trong các
đoạn trên, chúng ta đã phân tách ý nghĩa và tác dụng của từ
bi.Chúng ta đã thấy được giá trị tốt đẹp và lớn lao của từ bi.
Ðến đây chúng ta hãy đề cập đến vấn đề: "làm thế nào để huấn tập
được lòng từ bi".
- Một trong
những phương pháp hiệu nghiệm để huấn tập được lòng từ bi là
"quán từ bi". Quán Từ bi có ba từng bậc thấp cao, tùy theo căn
cơ của ba hạng tu hành:
- 1. Chúng sinh
duyên từ. Pháp quán này thường dành cho hạng tu Tiểu Thừa thực
hành.
- Chúng sinh
duyên từ, nghĩa là lòng từ bi do quán sát cảnh khổ của chúng
sinh mà phát khởi.
- Chúng sinh
tức là muốn nói đến những hạn còn đang say mê, chìm đắm trong bể
khổ sanh tử, còn đang trói mình trong vòng phiền não nhiễm ô.
Chẳng hạn như loài địa ngục bị hành phạt đủ điều, ngạ quỷ bị đói
rách bứt bách, súc sanh bị cảnh dao thớt hành hình, A tu la đấu
tranh, chém giết. Ðến như chúng sinh ở cõi tời tuy vui thú,
nhưng vẫn còn bị ngũ suy tướng hiện, luân hồi, đọa lạc như
thường. Mà vẫn hơn hết là loài người, cũng chịu không biết bao
nhiêu là cảnh khổ, từ vật chất đến tinh thần, từ cá nhân đến
đoàn thể. Nhất là đối luật vô thường: sanh, già, bịnh, chết,
chưa ai thoát khỏi được. Ðã không thoát được mà lại còn vô tình
đi gây chuốc thêm lấy khổ, lắm khi cứ quên mất cái tuổi già, mối
ngày mỗi chồng chất, thật đáng thương hại !
- Vậy, đứng
trước những cảnh khổ của chúng sinh, người Phật tử phải làm như
thế nào? Phải phát lòng từ bi !Nhưng làm sao cho lòng từ bi ấy
được phát?
- Ðức Phật có
dạy chúng ta phải quán sát tất cả chúng sinh trong lục đạo, mười
phương đều như bà con thân thuộc.
- Ðây là phương
pháp đầu tiên để hòa hợp với mọi chúng sinh. Dùng cảm tình mà
tập quán Từ bi. Trước kia, chúng ta có thói quen là cái gì ngoài
"ta" thì ít khi quan tâm đến. Giờ đây, quán từ bi tức là chúng
ta đã phá bỏ cái vỏ ích kỷ hẹp hòi ấy mà giác ngộ và nhận định
rằng:
- Thế giới của
loài người chúng ta đang ở đây, tỷ như một cái nhà lớn, nơi sum
họp và đoàn kết của dại gìa đình. Vẫn biết rằng nhân loại khác
nhau về màu da, chủng tộc; những cái khác đó chẳng qua là khác
về bề ngoài, chứ đã là người thì ai ai cũng có một thân hình
xương thịt như nhau cũng đồng sợ khổ ưa vui, biết xấu biết tốt
v.v...Vì thế đối với người lớn tuổi, ta phải kính trọng như ông
bà cha mẹ; người ngang hàng hay tuổi xấp xỉ, xem như anh chị em
ruột thị; người nhỏ tuổi hơn nữa xem như con cái cháu chắt...
- Rộng ra một
tầng nữa, đối với chúng sing trong năm loại, chúng ta hãy xem
như những thành phần của đại gia đình là chú, bác, cô, dì...Vẫn
biết rằng về hình thức, loài người khác với loài khác, và nhiều
khi ta không gặp mặt nữa, nhưng xét cho cùng, đã là chúng sinh,
thì tất nhiên đồng chung một nguồn sống, và đã có sống thì tất
nhiên đều ham sống sợ chết, đều biết cảm nỗi vui sướng và khổ
đau. Gần với chúng ta nhất mà chúng ta có thể thấy, gặp và nhờ
cậy được là loài súc sinh. Tuy chúng không biết nói như chúng
ta, nhưng nếu chúng ta đối đãi tử tế, chúng cũng biết thương mến
và trung thành với ta. Tuy không có học thức, chúng vẫn biết
nghe lời ta và giúp đỡ ta trong nhièu công việc nặng nề. Chẳng
qua vì nghiệp nặng, nên đời này chúng làm súc vật, nhưng biết
đâu đời trước, chúng không phải là anh em của ta? Và sau này,
biết đâu chúng lại không sẽ là bà con quyến thuộc của ta?
- Phương pháp
tu tập của Tiểu Thừa này tuy chưa phá được ngã chấp, những cũng
đã mở rộng được phạm vi hẹp hòi của cái ngã mnhỏ và thể nhập vào
cái ngã to hơn là đại gia đình; rồi từ cái ngã to tình cảm ấy,
sẽ chuyển dần sang giai đoạn lý trí cao siêu hơn, bằng phép quán
"Pháp duyên từ" sau đây.
- 2. Pháp duyên
từ. Pháp duyên từ là lòng từ bi do duyên "Pháp tánh" mà phát
khởi. Ðây là pháp quán dành cho các bậc Trung thừa.
- Hành giả
trong khi tu pháp môn này, quán sát thấy tất cả chúng sinh, cùng
mình đều đồng một "pháp giới tánh", nên chúng sinh đau khổ là
mình đau khổ; vì vậy hành giả khởi lòng từ bi cứu khổ ban vui
cho tất cả chúng sinh. Ðến địa vị này, các Ngài không còn phân
biệt là nam hay nữ, không còn quan niệm mình khác với người,
không nghĩ rằng đó là bà con quyến thuộc, chỉ thấy mình cùng
người đồng một "pháp giới tánh" mà thôi. Bồ Tát đã nhận chúng
sinh và mình đồng một bản thể, nên khi cứu khổ, không cần biết
đó là ai, và khi làm, không chấp mình đã làm. Chúng sinh có khổ
thì Bồ Tát có Bi. Sự thông cảm tự nhiên ấy như tình thiêng liêng
giữa mẹ và con, hễ có cảm là có ứng, như tánh sốt sắng của vị y
sĩ có lương tâm nhà nghề, hễ thấy bịnh thì liền trị. Với ý nghĩa
này, trong kinh Trung A Hàm có tỷ dụ: Trước một nạn nhân bị
trúng tên độc ấy ra lập tức. Ông không cần phải hỏi người ấy tên
gì, ở đâu, con ai, cũng không cần coi cây tên ấy làm bằng gì, ai
bắn v.v...
- Sự cứu khổ
cho chúng sinh, đối với các vị Bồ Tát đã chứng được "pháp duyên
từ" này cũng như thế, chỉ nhằm mục đích làm sao cho kẻ khác hết
khổ được vui mà thôi.
- 3. Vô duyên
từ. Trong phạm vi bài này, chúng ta chỉ nên học qua hai hạng từ
bi trên mà thôi, là: Lòng từ bi do duyên mình với chúng sinh khổ
sở mà phát ra, hay do duyên mình và chúng sinh đống một thể tánh
mà phát khởi. Còn loại từ bi thứ ba tức là "Vô duyên từ" là một
loại cao siêu đặc biệt của Ðại Thừa, chúng ta chưa đủ căn cơ,
trình độ tu tập. Tuy nhiên, để có một ý niệm đầy đủ về lòng từ
bi , chúng ta cũng nên biết qua về loại này.
- Vô duyên từ,
là lòng từ bi không có tâm năng duyên và cảnh bị duyên, không
còn dụng công, không còn quan sát, đối đãi giữa mình với người,
mình và vật như hai thứ từ bi trước. Lòng từ bi này xứng theo
thể tánh chơn tâm mà tự khởi ra bao la, trùm khắp, không thiên
lệch một nơi nào. Cũng như ánh sáng mặt trời chiếu khắp cả gần
xa, không phân biệt thấp cao, không chú ý một nơi nào, chiếu soi
tất cả một cách vô tư và không dụng công.
- V. Lợi Ích
Của Pháp Quán Từ Bi
- Có người lo rằng nếu ai cũng từ
bi thì sẽ trở thành nhu nhược, dân tộc sẽ yếu hèn, và sự tham
tàn bóc lột sẽ lừng lẫy v.v...
- Lo như thế là
quá lo xa mà thành ra không thực tế. Từ xưa đến nay, loài người
không phải khổ sở vì quá từ bi , xã hội không phải yếu hèn, đảo
điên vì tình tương quá rộng lớn. Trái lại, sự đau khổ của cá
nhân cũng như của đoàn thể, một phần rất lớn là do lòng người
còn độc ác. Một nhậ xét không ai có thể chối cãi được là một xã
hội càng văn minh thì lòng ác độc càng bớt, tình thương càng
tăng thêm, hay ngược lại, tình thương càng tăng, hay ác độc càng
giảm, thì xã hội càng văn minh, hạnh phúc. Hãy khoan lo sợ từ bi
làm cho con người mềm yếu, mà chỉ nên lo sợ, nếu sự thù hằn, độc
ác không giảm, thì loài người chắc chắn sẽ bị tiêu diệt.
- Khái lược
theo kinh Tăng Nhất A Hàm thì quán Từ bi sẽ được những lợi ích
như sau:
- a) Khi thức
hay ngủ đều được an vui
- b) Hiện tại
được nhiều người thương
- c) Sống trong
đời không bị tai nạn trộm cướp
- Nhưng thực
hành pháp quán từ bi , không phải chỉ để cho chúng ta cầu những
quả báo lợi ích riêng cho mình, và có bấy nhiêu đó. Mục đích
chúng ta tu là cốt làm sao chúng ta và mọi chúng sinh trong lục
đạo đeù khỏi khổ được vui. Lẽ tất nhiên, trong khi tu chúng ta
sẽ:
- Trừ được lòng
sân hận độc ác
- Dẹp được ngã
chấp hẹp hòi
- Ðoàn kết được
với mọi người
- Ðời sống cá
nhân và đoàn thể nhờ thế được vui vẻ, có ý nghĩa.
-
C. Kết Luận
- Từ bi là một
phương thuốc trị tâm sân hận. Sân hận là đầu mối sát hại ghê
ghớm, là cái chìa khóa của tất cả kho tội lỗi. trừ được nó tức
là trừ được chết chóc, và dập tắt được cái ngòi biến loạn. Bao
nhiêu súng đạn và nhất là bom nguyên tử sẽ trở thành vô dụng.
Trong nhân loại, không còn ai là cừu địch không còn có giai cấp
bóc lột, đấu tranh. Ai cũng là người đáng thương, đáng giúp đỡ.
Giữa người và người, giữa người và vật sẽ có một sự liên lạc,
đoàn kết mật thiết. Con người sẽ vô cùng sung sướng khi thấy
xung quanh mình đều là bà con quyến thuộc, bốn biển đều là anh
em và cùng chan hòa trong Phật tánh.
--o0o--
|
|