-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Phật
Học Phổ Thông
- Khóa Thứ
Tư
- Duyên Giác
và Bồ Tát Thừa Phật Giáo
- Bài Thứ 4
- Quán Nhân
Duyên
-
A. Mở Ðề
- Người đời, vì
không hiểu dự vật trong vũ trụ này từ đâu mà có, cho nên sanh ra
nhiều quan niệm sai lầm. Có người nghĩ rằng vũ trụ do tự nhiên
sanh. Có người lại nghĩ vũ trụ do một vị thần toàn trí, tòan
năng tạo ra v.v...
- Theo Ðạo Phật
thì vũ trụ là vô thỉ, nghĩa là không có điểm khởi đầu, và mọi sự
mọi vật trong vũ trụ không thể đứng riêng một mình mà có được;
trái lại, phải nương nhờ nhau mà thành. Nói một cách khác, từ
vật lớn cho đến vật nhỏ, từ vâth hữu hình cho đến vô hình, đều
không ngoài nhân duyên mà có. Vì thế, trong kinh Phật thường
nói: "Chư pháp tùng duyên".
- Sự hiện hữu
của loài hữu hình, hay nói riêng của loài người, cũng không
ngoài công lệ ấy được.Muốn hiểu rõ một cách tường tận cái guồng
máy của sự sanh tử luân hồi của kiếp trong bể khổ trần gian,
chúng ta cần phải học lý "Thập nhị nhân duyên". Sau khi hiểu rõ
lý thập nhị nhân duyên, chúng ta lại còn phải tìm hiêu phương
pháp để dứt trừ cái vòng lẩn quẩn sanh tử luân hồi nữa.
- Muốn hiểu và
dứt trừ cái vòng sanh tử luân hồi, chúng ta phải học và thực
hành pháp quán nhân duyên, mà chúng tôi xin trình bày trong bài
giảng này.
-
B. Chánh Ðề
- I. Ðịnh Nghĩa
- Sao gọi là
"Nhân duyên"? Nhân là nguyên nhân, chỉ cho những sự vật chính đó
là nhân, trực tiếp sanh ra một vật khác, như hạt lúa lam nhân
sanh ra cây lúa. Duyên là trợ duyên, chỉ cho những vật gì có
tánh cách trợ gíup trực tiếp hay gián tiếp cho vật khác được
thành. Như phân, nước, ánh sáng, nhân công...là trợ duyên giúp
cho hạt lúa được thành cây lúa. Vậy nhân duyên là chỉ cho các
vật làm nhân cho nó mà cũng vừa là trợ duyên cho tất cả vật
chung quanh nó.
- Chữ "Nhân
duyên" lại có nghĩa thứ hai: Các vật đều là "nhân", các "nhân"
đó "duyên" với nhau mà thành ra các vật khác. Như vôi, gạch,
ngói, gỗ v.v...là nhân, các nhân này duyên nhau (nương giúp) mà
thành ra cái nhà. Vì các pháp trùng điệp nhiều lớp làm duyên cho
nhau, mà thành ra vật thế này hay thế khác, nên trong kinh chép:
"Chư pháp trùng trùng duyên khởi".
- II. Thành
Phần Của Nhân Duyên
- Ðoạn trên đã
nói: "Các pháp do nhân duyên hòa hợp sanh". Vậy những nhân duyên
gì sanh ra loài hữu tình". Vậy những nhân duyên sau đây:
- 1. Vô minh,
2. Hành, 3. Thức, 4. Danh sắc, 5. Lục nhập, 6. Xúc, 7. thọ, 8.
Ái, 9. thủ, 10. Hữu, 11. Sanh, 12. Lão tủ.
- 1. Vô minh có
nhiều nghĩa và nhiều loại:
- a) Theo Ðại
Thừa giải thích: "Không tỏ ngộ chân tâm gọi là vô minh" (Bất
giác đệ nhất nghĩa đế, vị chi vô minh).
- b) Thông cả
Ðại Thừa và Tiểu Thừa giải thích: "Hiểu biết các pháp không đúng
như thật (hiểu sai lầm), nên gọi là vô minh" (Bất như thật tri
chư đế lý, vị chi vô minh); như vô ngã mà chấp thật ngã, vô pháp
mà chấp thật pháp v.v...
- c) Ngoài ra,
còn những nghĩa thông thường như: vô minh là không sáng, tối
tăm, mờ ám, si mê v.v...
- Vô minh, lại
có khi để chỉ các phiền não như tham, sân, si. Xưa có người đến
chùa hỏi:
- Thế nào là vô
minh?
- Tổ sư trả
lời:
- Quê mùa dốt
nát đến thế, cũng đến chùa hỏi đạo lý !
- Ông khách nổi
giận, mặt mày đỏ bừng...Tổ sư nói tiếp:
- Vô minh là đó
(chỉ cái sân), đó là vô minh.
- Vô minh có
khi chỉ riêng cho Si tâm sở. Như nói "độc hành vô minh" hay
"tương ưng vô minh" là đều chỉ riêng cho "si tâm sở": Khi nó
khởi riêng một mình, hoặc chung cũng với phiền não, tham, sân
v.v...
- Vô minh lại
phân ra hai loại: căn bản vô minh và chi mạt vô minh. Như trong
mười hai nhân duyên, cái "vô minh" đầu là căn bản, vì nó là gốc
sanh ra các vô minh sau; còn "ái, thủ, hữu" là chi mạt vô minh.
Trong tứ hoặc, thì kiến hoặc, tư hoặc, trần sa hoặc là chi mạt
vô minh; còn vô minh hoặc là căn bản vô minh. Trong ngũ trụ địa,
thì kiến nhất xứ trụ địa, dục ái trụ địa , sắc ái trụ địa và hữu
ái trụ địa là chi mạt vô minh, còn vô minh trụ địa là căn bản vô
minh.
- Nói chung
lạu, tất cả phiền não, hoặc thô, hoặc tế của Ðại Thừa hay Tiểu
Thừa, có tánh cách làm cho chân tâm bị ẩn, gương trí tuệ lu mờ
thì gọi là vô minh.
- 2. Hành là
hành động , tạo tác. Do vô minh phiền não nổi lên, làm cho thân,
khẩu, ý, tạo tác ra các nghiệp lành hay dữ nên gọi là "hành".
- 3. Thức là
thần thức, chỉ cho phần tinh thần. Do thân, khẩu, ý, ba nghiệp
tạo tác những nghiệp lành hay dữ nên khi chết rồi, các nghiệp
dẫn dắt thần thức đi lãnh thọ quả báo (thân) khổ hay vui ở đời
sau.
- 4. Danh sắc
là thân thể. Trong thân thể người có hai phần:
- a) Phần tinh
thần (tâm) chỉ có tên kêu gọi, chứ không có hình sắc nên gọi là
"danh".
- b) Phần thể
chất cí hình sắc, nên gọi là "sắc".
- 5. Lúc nhập,
gọi nôm na là sáu chỗ vào. Khi đã có thân thể rồi, cố nhiên phải
có sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý) là chỗ của sáu trần
(sắc, thinh, hương, vị, xúc và pháp) phản ảnh vào, nên gọi là
"lục nhập".
- 6. Xúc là
tiếp xúc. Trong sáu căn, ngoài sáu trần thường gặp gỡ tiếp xúc
với nhau, như mắt tiếp xúc với sắc, tai tiếp xúc với tiếng, mũi
tiếp xúc với mùi, lưỡi tiếp xúc với vị, thân tiếp xúc với ấm
lạnh, trơn nhám, ý tiếp xúc với pháp trần.
- 7. Thọ là
lãnh thọ. Khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần, rồi lãnh thọ những
cảnh vui hay buồn, sướng hay khổ, hay cảnh binh thường.
- 8. Ái là ưa
muốn. Khi lành thọ cảnh vui thì sinh lòng tham, muốn làm sao cho
được, khi gặp cảnh khổ thì sanh tâm sân hận, buồn rầu, muốn xa
lìa, gặp cảnh binh thường thời si mê. Ðây là cái động cơ thúc
đẩy thân, khẩu, ý, taoc tác các nghiệp.
- 9. Thủ là giữ
lấy, tìm cầu; nói rộng ra là các hành động tạo tác. Do gặp cảnh
thuận thì tham cầu, gặp cảnh nghịch lại sân, si muốn xa lìa; mục
đích là muốn tìm phương này kế nọ để bảo thủ cho được bản ngã
của mình. Do đó mà tạo ra các nghiệp sanh tử.
- 10. Hữu là
có. Vì đời này đã có nhân lành hay dữ do mình tạo ra, thì đời
sau quyết định phải "có" quả khổ hay vui mà mình phải thọ nhận.
- 11. Sanh. Là
sanh ra. Do "ái, thủ, hữu" làm nhân hiện tại tạo ra các nghiệp,
cho nên qia đời sau, phải sanh ra đời để thọ quả báo.
- 12. Lão, tử.
Là già, chết. Ðã có sanh ra, tất nhiên phải chịu các khổ già và
chết v.v...
- Mười hai nhân duyên này liên
quan mật thiết với nhau, vừa làm quả cho nhân trước, vừa làm
nhân cho quả sau, nối tiếp không dứt trong thời gian và làm cho
chúng sinh phải mãi mãi xoay tròn trong vòng sanh tử.
- III. Phương
Pháp Quán
- Phương pháp quán mười hai nhân
duyên có thể chia làm hai phần là: quán Lưu chuyển và quán Hoàn
diệt.
- 1. Quán lưu
chuyển. Là quán sát trạng thái sanh khởi và luân lưu của mười
hai nhân duyên. Sự quán sát này có ba loại:
- a) Quán sát,
trạng thái sanh khởi của mười hai nhân duyên trong quá khứ xa
xôi, từ vô thỉ. Từ vô thỉ, vì vô minh vọng động, làm cho bản tâm
thanh tịnh phản uẩn khuất, như mây áng nên trăng mờ (vô minh),
do đó, các vọng động từ từ sanh khởi (hành), thành ra có tâm
(thức) và cảnh, đủ cả thế giới và chúng sinh (danh sắc); trong
thân chúng sinh có sáu căn là chỗ của sáu trần thường pảhn ảnh
vào (lục nhập), rồi căn, trần thường tiếp xúc (xúc) nhau sanh ra
cảm thọ (thọ), nhân thọ sanh ra ưa (ái), vì ưa mới giữ (thủ); do
đó mà có (hữu) sanh (sanh) và già, chêý (lão, tử).
- Ðây là nói về
trạng thái của mười hai nhân duyên từ vô thỉ, do vô minh vọng
động, tạo tác mà có thế giới và chúng sinh, rồi cứ như thế, tiếp
tục sanh khởi cho đến ngày nay, và mãi mãi về sau v.v...
- b) Quán sát
trạng thái lưu chuyển của mười hai nhân duyên trong ba đời: quá
khứ, hiện tại, vị lai. Ðây là quán sát sự xoay vần của mười hai
nhân duyên trong thời gian từ quá khứ đến hiện tại, từ hiện tại
đến vị lai. Mười hai nhân duyên cũng như sợi dây chuyền có mười
hai vòng, vòng này móc vào vòng kia, vòng kia móc vào vòng nọ,
nối tiếp nhau không có mối manh, và liên quan cả ba đời: quá
khứ, hiện tại, vị lai. Nhưng trong quá khứ vô minh và hành (căn
bản vô minh) làm nhân, sinh ra quả hiện tại (thân đời này) là
"thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ"; quả hiện tại (thân đời
này) trở lại tạo nhân (trong hiện tại) là "ái, thủ, hữu" (chi
mạt vô minh); nhân hiện tại lại sẽ thành quả vị lai(thân đời
sau) là "sanh, lão, tử). Nói tóm lại, do mê hoặc (vô minh) nên
tạo nghiệp (hành), vì tạo nghiệp nên chịu quả khổ, nhân chịu quả
khổ, rồi lại mê hoặc tạo nghiệp v.v...nhân sanh quả, quả lại
sanh nhân, nối tiếp trong ba đời, quanh quẩn trong sáu đường
sanh tử luân hồi, như cái bánh xe lăn tròn trên sợi dây. Chỉ có
khác là bánh xe thật thì chỉ có một cái và biến đổi rất chậm
chạp; còn bánh xe mười hai nhân duyên thì vừa chạy tới mà vừa
biến đổi, luôn luôn hoại và thành, thành và hoại...liên tiếp
trong ba đời; quá khứ, hiện tại và tương lai.
- c) Quán sát
sự sanh khởi và lưu chuyển của mười hai nhân duyên trong một
niệm của hiện tại. Nếu lấy một khoảng thời gian ngắn trong hiện
tại để quán sát, hành giả cũng có thể thấy được sự sanh khởi và
lưu chuyển của mười hai nhân duyên, chứ không cần phải quán sát
ba đời. Nhưnh khi đối cảnh, không rõ các pháp đều là lưu chuyển
(vô minh) mà khởi vọng niệm (hành) phân biệt (thức) các cảnh vật
(sắc); rồi trần cảnh lại phản ảnh vào căn (lục nhập), căn lại
tiếp xúc (xúc) với trần, sanh ra lãnh thọ (thọ), nhân thọ sanh
ra ưa muốn (ái), tím cầu (thủ), do đó tạo ra các nghiệp (hữu)
rồi theo nghiệp thọ quả báo (sanh, lão, tử).
- Phân tách ba
pháp quán trên, hành giả sẽ rút ra những nhận xét sau đây:
- Trong mười
hai nhân duyên, có hai nhóm làm nhơn và hai nhóm làm quả: Một
nhóm nhân quá khứ (gồm có vô minh và hành) và một nhóm nhân hiện
tại (gồm có sanh, lão, hữu).
- Về phía quả,
thì có một nhóm quả hiện tại (gồm có thức, danh sắc, lục nhập,
xúc, thọ) và một nhóm quả vị lai (gồm có sanh, lão tử).
- "Vôâ minh,
hành" là căn bản vô minh, "ái, thủ, hữu" là chi mạt vô minh. Có
thể nói "vô minh, hành" là cái biệt hiệu của "ái, thủ, hữu", còn
"thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ" là cái dị danh của "sanh,
lão, tử". Nói như thế là vì, nếu ta đổi qua tráo lại, sẽ thấy
rõ: trong "ái, thủ, hữu", có "vô minh và hành", còn trong "sanh,
lão, tử" có "thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ".
- Vô minh thuộc
về "hoặc"; hành thuộc về "nghiệp"; thức, danh sắc, lục nhập,
xúc, thọ, thuộc về "khổ"; ái thuộc về "hoặc"; thủ, hữu thuộc về
"nghiệp"; sanh, lão, tử thuộc về "khổ".
- HOẶC
- Khổẫ Nghiệp
- Xem bản đồ:
- 12 nhơn duyên
liên quan 3 đời nhơn quả
- 1. NHƠN (quá
khứ)
- 1. Vô minh
(hoặc)
- 2. Hành
(nghiệp
- Căn bản vô
minh (có ái thủ, hữu)
- 2. QUẢ (hiện
tại)
- 1. Thức
- 2. Danh sắc
- 3. Lục nhập
- 4. Xúc
- 5. Thọ
- (khổ) Thân
hiện tại
- 3. NHƠN (quá
khứ)
- 1. Aùi (hoặc)
- 2. Thủ
(nghiệp)
- 3. Hữu
- Chi mạt vô
minh (có vô minh, hành)
- 2. QUẢ (vị
lai)
- 1. Sanh
- 2. Lão, tử
(khổ)
- Thân vị lai
- 2. Quán hoàn
diệt. Là quán sát sự tiêu diệt của mười hai nhân duyên. Có hai
cách quán:
- a) Diệt vô
minh gốc rễ (căn bản vô minh). Trong phần quán sát trên, hành
giả đã thấy rõ: do vô minh mà có hành, do hành mà có thức
v.v...Vậy thì bây giờ, nếu ta diệt vô minh, thì hành sẽ bị diệt,
hành bị diệt thì thức cũng không có v.v...Hay nói một cách khác:
do "mê hoặc" nên tạo "nghiệp", do tạo nghiệp nên mới chịu quả
"khổ". Vậy muốn hết khổ, lẽ tất nhiên là phải diệt nghiệp, muốn
dứt nghiệp trước phải trừ vô minh.
- Trừ căn bản
vô minh có hai cách:
- Ðối với các
bậc Ðại Thừa Bồ Tát, vì thấy rõ thể tánh chân tâm do vô minh
vọng động mà có thế giới chúng sinh, ngã và pháp, nên các Ngài
dùng trí Bát nhã phá trừ "sinh tướng vô minh", để trở lại với
bản thể chân tâm. Khi đã ngộ được chân tâm rồi, thì tất cả sanh
tử luân hồi đều hết. Như trong Bát nhã Tâm kinh có chép: "Ngài
Quán tự tại Bồ Tát khi đi sâu vào trí Bát nhx Ba la mật đa rồi,
thì thấy tất cả năm uẩn đều không, nên khỏi các điều khổ
ách...". Hay như trong kinh Lăng Nghiêm có chép: "Ðối với người
tỏ ngộ được chơn tâm, thì mười phương thế giới đều tiêu hết".
- Ðối với người
không thể phá trừ ngay được căn bản vô minh để trực ngộ chân
tâm, thì phải lần hồi trải qua vô số kiếp tu hành, khi đến địa
vị Ðẳng giác, dùng trí Kim cang phá trừ được "sanh tướng vô
minh", mới chứng quả Diệu giác (Phật ).
- b) Diệt vô
minh ngành ngọn (chi mạt vô minh). Ðối với hàng phàm phu và Tiểu
Thừa, căn cơ thấp hẹp, thì không thể trực tiếp phá trừ vô minh
gốc rễ như hai bậc trên, mà chỉ có thể phá trừ vô minh ngành
ngọn là "ái, thủ, hữu". Khi ngành ngọ đã bị chặt rồi, thì gốc rễ
dần dần bị tiêu diệt, như bụi tre mà bị xắn hết cả măng, thì sẽ
phải tàn rụi.
- Diệt trừ vô
minh ngành ngọn cũng gồm hai phương diện.
- Quán lý: Là
dùng lý lẽ để nhận thấy rằng các pháp chỉ do nhân duyên hòa hợp
mà sanh ra, chứ không có thật (không hữu); bởi không có thật,
nên không nên tìm cầu chấp thủ (không thủ). Ðã không chấp thủ,
thì cũng không tham muốn (không ái). Nghĩa là bắt đầu quán
"hữu", rồi đến "thủ", rồi cuối cùng là "ái". Nếu ba cái nhân này
không có, thì cái quả "sanh, lão, tử" cũng chẳng có.
- Quán sự: Là y
theo sự tướng mà quán sát rồi thực hành. Hành giả bắt đầu quán
"ái" trước, rồi đến "thủ" và "hữu". Kinh chép: "Hữu ái sinh ưu,
hữu ái sinh úy, vô sở ái nhạo hà ưu hà úy?". nghãi là: Bởi có
tham muốn thì có lo sợ gì? Vì khi đối cảnh, sanh tâm tham muốn
(ái), nên mới tạo tác ra các nghiệp (thủ), do đó phải chịu sanh
tử luân hồi (hữu). Bấy giờ, nếu đối cảnh không tham ưa (không
ái), thì chẳng tìm cầu chấp thủ ( không thủ), vì không chấp thủ
nên chẳng có sanh tử luân hồi (không hữu). Cũng như trong kinh
Lăng nghiêm Phật dạy: "..Chỉ khi các ông đối cảnh, không khởi
vọng niệm phân biệt, thì tham, sân, si chẳng khởi; tham, sân, si
kh khởi thì sát, đạo, dâm, vọng không sanh...".
- Tóm lại, mê
hoặc hết (ái) thì nghiệp chẳng có (thủ), nghiệp không thì khổ
chẳng còn (hữu).
- Trong bốn
cách trừ vô minh, chỉ có pháp "quán sự" này dễ dàng và thiết
thật nhất, lại hợp với căn cơ của người tu hành hiện tại.
- IV. Hiệu Quả
Của Pháp 12 Nhân Duyên
- Hành giả sau
khi thành tựu pháp quán mười hai nhân duyên này, thì sẽ trừ được
tâm si mê là nguyên nhân chính của khổ đau và luân hồi của chúng
sinh. Ðức Phật thường bảo: "Sự khổ ở tam đồ chưa hẳn là khổ, chỉ
có người thiếu trí huệ mới là khổ thôi". Xem thế thì đủ biết trừ
được tâm si mê và làm cho trí huệ được phát chiếu là một điều
quan trọng bậc nhất của kẻ tu hành.
- Hơn nữa, hành
giả còn nhờ pháp quán mười hai nhân duyên này mà sẽ chứng được
quả Duyên giác. Khi Phật chưa giáng sinh, cũng có nhiều vị tu
hành nhờ quán sát sự sanh hóa của vũ trụ mà được ngộ đạo. Những
vị ấy người ta thường gọi là Ðộc giả, nghĩa là tự nghiên cứu một
mình mà được giác ngộ. Ðến khi Phật giáng sinh, chỉ dạy pháp
quán nhân duyên nhièu người y theo pháp qúan này tu hành mà được
giác ngộ, nên gọi là "Duyên giác" (nghĩa là những vị giác ngộ
nhờ quán mười hai nhân duyên).
- Chỗ giải
thoát của quả vị Duyên gíac và A La Hán đều giống nhau, nhưng về
trí huệ và thần thông thì quả Duyên giác cao hơn quả A La Hán.
- Sau đây là
một thí dụ về sự thành tựu pháp quán mười hai nhân duyên của hai
vị đại Ðệ tử của đức Phật Thích Ca , là Ngài Xá Lợi Phất và Ngài
Mục Kiền Liên, lượt thuật theo kinh Nhân quả:
- Ở thành Vương
xá, có hai người Bà la môn rấy thông minh trí huệ, một người tên
là Xá Lợi Phất và một người tên là Mục Kiền Liên. Hia người đều
tu theo ngoại đạo, có trên một trăm Ðệ tử , và có hứa hẹn với
nhau rằng, nếu ai nghe được pháp mầu trước, thì phải chỉ dạy lại
cho người kia.
- Một hôm, ông
Xá Lợi Phất đi đường, được nghe mọt vị Ðệ tử của Phật là Tỳ kheo
A Xá Bà Kỳ, giảng giải về đạo lý nhân duyên và tóm tắt lại trong
một bài kệ như sau: "Cội gốc của tất cả pháp là nhân duyên sinh,
không ai làm chủ, nếu ai hiểu được pháp này, thì chứng được đạo
chân thật" 1.
- Khi nghe
xong, ông Xá Lợi Phất liền xa lìa trần cấu, chứng được đạo qủ
thanh tịnh.
- Lức trở về,
ông Xá Lợi Phất giảng nói lại cho ông Mục Kiền Liên nghe. Ông
này nghe xong, cũng chứng được đạo quả. Hai ông này liền đem 200
Ðệ tử của mình, đến xin Phật cho xuất gia làm Ðệ tử.
-
C. Kết Luận
- Ðể độc giả có
một ý niệm chung về bài giảng này và dễ nhớ, chúng tôi xin tóm
tắt những yếu điểm sau đây:
- A. Tất cả sự
vật không một vật nào riêng biệt mà tồn tại được. Chúng phải
nương tựa vào nhau mới thành vật này hay vật khác. Ðó là lý nhân
duyên sanh, hay trùng trùng duyên khởi. Riêng về loài hữu tình
như kiếp người chẳng hạn, thì do mười hai nhân duyên nương nhau
mà thành một chuỗi sanh tử dài vô hạn, nối tiếp từ quá khứ đến
hiện tại và vị lai. Tùy theo cái tác dụng của nó mà mười hai
nhân duyên ấy có thể chia làm ba nhóm là: hoặc (mê mờ), nghiệp
(tạo tác) và khổ (kết qủa).
- B. Muốn dứt
trừ chuỗi sanh tử dài trong biển khổ đau của cõi tục, phải quán
mười hai nhân duyên. Pháp quán này có hai phần là quán lưu
chuyển và quán hoàn diệt:
- 1. Quán lưu
chuyển. là quán hiện tượng sanh khởi và tiến triển của mười hai
nhân duyên từ vô minh, hành, thức..đến lão, tử. trong khi quán
lưu chuyển hành giả có thể chỉ quán sát sự sanh khởi và tiến
triển của mười hai nhân duyên trong quá khứ, trong hiện tại hay
cả trong quá khứ, hiện tại và tương lai.
- 2. Quán hoàn
diệt. Là quán theo phương pháp làm cho mười hai nhân duyên phải
tiêu diệt. Có hai pháp quán hoàn diệt:
- a) Một pháp
dành cho những bậc đại căn trí, như hạng Ðại Thừa Bồ Tát, đó là
pháp "diệt căn bản vô minh".
- b) Một pháp
dành cho những người căn cơ thấp thỏi như chúng ta, đó là pháp
"diệt chi mạt vô minh".
- Pháp quán sau
đây lại chia ra làm hai là quán lý và quán sự:
- Quán lý: là
quán các pháp không thật có (hữu) nên không chấp thủ (thủ); bởi
không chấp thủ nên không tham ái (ái).
- Quán sự: là
áp dụng cái lý đã quán ở trên trong hoàn cảnh thực tại: Hành giả
phải cô gắng thực hiện sao cho kho đối cảnh không khởi tâm tham
ái (ái), nhờ không tham ái mới không tạo ác tìm cầu (thủ); do
không tìm cầu nên không có (hữu) thọ quả sanh tử về sau.
- Hành giả
thành tựu được pháp quán mười hai nhân duyên này thì sẽ dứt trừ
được vô minh, thoát khỏi sanh tử và chứng được quả vị Duyên
giác.
- Cầu mong cho
quí vị độc gỉa thấu hiêu được chân giá trị của pháp quán này và
tinh tấn tu hành để đạt được quả vị qúy báu nói trên.
- Ghi Chú: Có
chỗ nói bài kệ như vầy:
- "Chư pháp
tùng duyên sanh, diệc tùng nhân-duyên diệt,
- Ngã- Phật Ðại
Sa-Môn, thường tác như thị thuyết".
- Dịch nghĩa:
- Các pháp do
nhân-duyên, cũng do nhân-duyên diệt,
- Ðức Phật của
chúng ta, thường dạy nói như vậy.
- Theo Ðại Thừa
thì bài kệ về nhân-duyên như vầy;
--o0o--
|
|