-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Phật
Học Phổ Thông
- Khóa Thứ
Tư
- Duyên Giác
và Bồ Tát Thừa Phật Giáo
- Bài Thứ 5
- Quán Giới
Phân Biệt
-
A. Mở Ðề
- Hầu hết người
đời đều tin rằng, mỗi người từ khi mới lọt lòng mẹ cho đến chết
và cả sau khi chết nữa, đều có một linh hồn duy nhứt, bất biến
làm chủ tất cả ý nghĩa, hành động của mình. Nói theo thuật ngữ
Phật giáo thì tin như thế gọi là "ngã chấp", nghĩa là tin có một
ngã riêng biệt, tồn tại bất biến...Từ cái ngã chấp ấy, mà sinh
ra "ngã ái", nghĩa là thương yêu, chăm sóc, gìn giữ cái ngã, bất
chấp phải trái, hay dỡ; ngã mạn, nghĩa là ngạo mạn, cho "cái ta"
của mình là cao quý, tốt đẹp hơn bao nhiêu "cái" khác, đối lập
với tất cả những gì không phải là ta hay trái ý với ta.
- Do sự chấp
ngã ấy mà cuộc sống đáng lẽ phải rộng rãi vô biên, trường tồn
bất diệt, lại bị ngăn cách chia xẻ, giam hãm trong những cái vỏ
cứng là "cái ta" riêng biệt; và người đời, hay nói rộng hơn, tất
cả chúng sinh đều phải sống, chết, quay cuồng, điêu cứng, khổ
đau vì cái ta riêng biệt mà họ tưởng là thuần nhất, bất biến ấy.
- Nhưng thật
ra, có một cái "Ta" như thế không? Nếu có, thì cái Ta ấy ở đâu?
Trong sáu căn hay trong sáu trần, hay trong sáu thức? Muốn hiểu
rõ vấn đề này một cách tường tận, chung ta phải quán Giới phân
biệt là một trong Ngũ đình tâm quán.
-
B. Chánh Ðề
- I. Ðịnh Nghĩa
- Quán Giới
phân biệt: Giới có ý nghĩa là giới hạn, là phạm vi phân chia
phần này với phần khác, bộ phận này với bộ phận khác. Chẳng hạn
như trong vật chất người ta phân chia ra nhiều loại: loại màu
sắc, loại âm thanh, loại mùi vị v.v...Hay trong con người, các
bộ phận tiếp xúc với ngoại cảnh, như mắt, tai, mũi, lưỡi...là
những Giới riêng biệt.
- Trong thế
giới Ta Bà gồm những vật hữu hình và vô hình này, mặc dù có
thiên hình vạn trạng, nhưng theo triết lý của đạo Phật, thì có
thể chia ra làm mười tám giới (loại, phạm vi). Vận dụng trí tuệ
để quan sát, nhận định từng phạm vi, từng giới một trong mười
tám giới ấy, để xét xem thử có một cái ngã trường tồn bất biến,
duy nhất hay không, đó tức là quán Giới phân biệt.
- II Phân Giải
18 Giới:
- Mười tám giới
có thể phân ra ba loại lớn: Sáu căn, sáu trần và sáu thức.
- 1. Sáu căn
Căn tức là chỗ nương tựa, làm gốc cho những cái khác nẩy nở,
phát sinh. Sáu căn ở đây tức là: nhă căn, nhĩ căn, tỹ căn, thiệt
căn, thân căn và ý căn.
- a) Nhãn căn:
tức là hai con mắt, bộ phận để làm chỗ nương tựa cho sự nhận
thấy của người được rõ ràng, khi tiếp xúc với cảnh vật chung
quanh.
- b) Nhĩ căn:
tức là hai lỗ tai, bộ phận làm chỗ phát sinh cho sự nghe biết
của người được rõ ràng, khi tiếp xúc với tiếng động ở chung
quanh.
- c) Tỹ căn:
tức là lỗ mũi, bộ phận làm chỗ nương tựa cho sự ngửi biết được
xác thực, khi tiếp xúc với các mùi như thơm, thúi...ở chung
quanh.
- d) Thiệt căn:
tức là cái lưỡi, bộ phận làm chỗ nương tựa của sự nếm biết của
người được rõ ràng khi tiếp xúc với các chất như chua, mặn
v.v...ở ngoại cảnh.
- đ) Thân căn:
tức là da bao bọc thân người, bộ phận làm cho nhận biết được cảm
giác, nóng, lạnh, cứng, mềm của các vật chung quanh.
- Năm căn nay
là năm bộ phận thuộc về thể chất nằm ở bên ngoài, dễ tiếp xúc
với ngoại vật. Chúng có hình tướng to tứ đại hợp thành, có thể
thấy được, chỉ được, rờ mó được. Duy thức học liệt chúng về nội
căn sắc pháp. Nội can sắc pháp này có thể phân tách ra làm hai
phần: phù trần căn và tịnh sắc căn. Phù trần căn là chỉ cho hình
tướng thô phù hiện ra bên ngòai, như tròng mắt, vành tai, lưỡi
đỏ v.v...Còn tịnh sắc căn là chỉ cho phần ẩn phục của năm căn,
tức là phần ứng dụng, phần hoạt động, phần sống của năm căn. Nói
một cách rõ ràng đơn giản hơn, tức là những dân thần kinh hệ của
con người vậy. Phù trần thì thô thiển, tinh sắc lại tế ẩn. Nếu
hai phần này rời nhau, năm căn sẽ vô dụng.
- e) Ý căn: tức
là bộ phận để cho sự phân biệt phát sinh, tức là thức thứ Bảy.
Phần này rất tinh tế thuộc về phần tinh thần. Cho nên không có
hình sắc như năm căn trước.
- 2. Sáu trần.
Trần, nghĩa đen là bụi. Bụi thì nhơ nhớp luôn luôn dời đổi lăng
xăng, tụ tán không chừng. Nghĩa bóng, trần tức là chỉ cho phần
vật chất, cảnh vật chung quanh con ngươi. Sáu trần là: sắc trần,
thanh trần, hương trần, vị trần, xúc trần và pháp trần.
- a) Thanh
trần: là sáu sắc, đường nét hình dáng, những gì mà mắt có thể
thấy được.
- b) Thanh
trần: là tiếng do vật hữu hình hay vô hình phát ra, nghĩa là
những tiếng mà tai nghe được.
- : là mùi do
vật hữu hình hay vô hình bốc lên, tỏa ra, vật mà mùi ngửi được.
- d) Vị trần:
là chất trong vật hữu tình hay vô tình, vậy mà lưỡi nếm được.
- đ) Xúc trần:
là những thứ mềm, cứng, trơn, nhám...của vật hữu tình hay vô
tình, những vật mà thân tiếp xúc được.
- e) Pháp trần:
là những hình ảnh, màu sắc, hương vị.. trừu tượng của năm trần
lưu lại sau khi đã năm căn duyên, chính là cảnh bị duyên của ý
căn. Màu sắc tiếng tăm, hương vị ở đây không phải là vật thật
của ngoại cảnh mà chỉ là những hình bóng, âm vang...của ngoại
cảnh sau khi đã lọt qua năm giác quan, và đang bị ý căn duyên.
- Chúng ta có
thể làm một thí dụ tho thiển sau đây cho dễ hiểu:
- Sắc trần dụ
như cảnh vật bên ngoài.
- Nhãn trần dụ
như cái máy quay phim.
- Pháp trần dụ
như những hình ảnh đã giữ được trong cuốn phim.
- Ý căn dụ như
người xem hình trong cuốn phim chiếu lên. Có thể lam một thí dụ
thứ hai sau đây:
- Thanh trần dụ
như các tiếng hát của một ca sĩ.
- Nhĩ căn dụ
như cái máy ghi âm.
- Pháp trần dụ
như cuốn băng nhựa đã ghi âm.
- Ý căn dụ như
người nghe tiếng do cái máy phát ra.
- 3. Sáu thức.
thức là sự phân biệt, hiểu biết, phán đoán do sáu căn tiếp xúc
với sáu trần mà phát sinh. Nó thuộc về tâm pháp (vô hình). Sáu
thức là: nhãn thức, nhĩ thức, tỹ thức, thiệt thức, thân thức và
ý thức.
- a) Nhãn thức:
là sự phân biệt, hiểu biết do nhãn căn tiếp xúc với sắc trần mà
phát sinh.
- b) Nhĩ thức
là sự phân biệt hiểu biết do nhĩ căn tiếp xúc với sắc trần phát
sinh.
- c) Tỹ thức là
sự phân biệt hiểu biết do tỹ căn tiếp xúc với hương trần mà phát
sinh.
- d) Thiệt thức
là sự phân biệt do thiệt căn tiếp xúc với vị trần mà pháp sinh.
- đ) Thân thức
là sự phân biệt, hiểu biết do thân căn tiếp xúc với xúc trần mà
phát sinh.
- e) Ý thức là
sự phân biệt, hiểu biết, phê phán do ý căn tiếp xúc với pháp
trần mà phát sinh.
- Chúng ta có
thể làm một thí dụ cụ thể sau đây cho dễ nhận:
- Sáu thức như
một hội đồng giám khảo của cuộc thi thì về văn nghệ, nữ công và
gia chánh. Hội đồng này gồm có sáu người: Một ông chủ tịch và
anưm hội viên chuyên môn về năm ngành:
- Một người
chuyên về màu sắc và hình ảnh\
- Một người
chuyên về âm thanh
- Một người
chuyên về mùi hương
- Một người
chuyên về chất vị
- Một người
chuyên về xúc giác
- Năm hội hiên
này sau khi lấy khả năng chuyên môn của mình ra phân tách, phê
phán rồi, liền trình sự nhận xét của mình lên ông chủ tịch, ông
này thu góp tất cả những nhận xét của năm hội viên, làm tông kết
và tuyên bố kết quả của cuộn thi ấy. Ông chủ tịch này chính là ý
thức hay là thức thứ sáu.
- III. Phương
Pháp Quán
- Sau khi chúng
ta đã biết được rõ ràng phạm vi và công năng của mỗi giới trong
mười tám giới rồi, đến đây, chúng ta có thể bắt đầu tập phương
pháp quán. Pháp quán này gồm có hai phần: Quán sát sự liên hệ
giữa căn, trần và thức; và quán sát sự giả dối của căn, trần và
thức.
- 1. Quán sát
sự liên hệ giữa căn, trần và thức. Vẫn biết căn là một nội sắc,
nhưng chúng ta rất quan hệ mật thiết. Căn là phần chủ động, có
khả năng duyên được với trần, còn trần là phần bị động "được
duyên" với căn. Nhờ có căn phù trần và tịnh sắc, nên con người
mới có thể nhận biết các cảnh vật chung quanh trong sự sống hằng
ngày.
- Nếu không có
căn, dĩ nhiên không có thức, thì con người không phải là con
người. Họ không sáng tác, xây dựng, cải cách, tiến hóa, và thế
giới này phải là thế giới "chết", mờ mịt không có ý nghĩa.
- Nếu không có
trần, con người cũng không sống nổi. Ngoại cảnh là trường hoạt
động của con người. Nó dạy khôn dạy khéo cho con người trong
cuộc sinh hoạt và làm cho con người có ý thức về cuộc sống của
mình.
- Thức lại tác
động vào căn và trần làm cho cuộc sống càng thêm tiến bộ, sung
túc thịnh vượng.
- Ba thứ này
ảnh hưởng lẫn nhau như cây quẹt, chất điện và đốm lửa. Sự liên
quan này chứng minh một cách hùng hồn sự không độc lập của sắc
pháp và tâm pháp, cả về phương diện cá thể lần phương diện tổng
thể.
- Mười tám giới
này, như đoạn đầu đã nói, gồm cả thế giới và nhân sinh, cả vật
vô tình và vật hưũ tình. Một khi chúng đã không tự lập, thì
trong vũ trụ này, không có một vật gì, kể cả con người, cả cái
ngã, do chúng cấu tạo ra lại có thể biệt lập, thuần nhất được.
- 2. Quán sát
sự giả dối của căn, trần và thức. Phần trên, chúng ta thấy cái
ngã không thể do tổng hợp của căn, trần và thức mà có được một
cách thuần nhứt. Ðến đây, chúng ta sẽ đi sâu vào một tầng nữa,
quán sát xem cái ngã có thể có trong một phần nào của căn, trần
và thức năng?
- a) Sáu căn là
ngã chăng? Trước tiên, chúng ta hãy xét bản chất của sáu căn là
gì? Chính là một khối xương da máu thịt, hợp lại có trật tự, có
tổ chức, chứ không gì khác. Mà đã là thịt da, xương máu thì
không có gì là bền bỉ, thuần nhất. Từ "khi trắng răng đến thuở
bạc đầu", thử xem con người đã mấy lần thay đổi. Và sau một trăm
năm, thử hỏi thể xác ấy sẽ còn lại gì, ngoài "nắm cỏ khâu xanh
rì"?
- Giả sử có một
cái ngã ở sáu căn, thì thử hỏi:
- Nếu cái ngã ở
nơi mắt, thì năm căn kia không phải là ngã. Nếu cái ngã ở nơi
tai, thì năm căn kia không phải là ngã. Lần lượt xét cả sáu căn,
chúng ta không thể nói được cái ngã ở một phần nào trong sáu
căn.
- Nếu cho rằng
sáu căn đều là ngã, thì thành ra con người có đến sáu cái ngã.
Nói thế chắc không ai công nhận được.
- Còn nếu bảo
rằng: Do sáu căn hòa hợp mà có cái ngã, thì với trái với định
nghĩa về cái ngã, là thuận nhất, bất biến. vả lại khi đã cho
rằng cái ngã do nhièu thứ hợp lại, thì cũng phải công nhận luôn
là cái ngã ấy là không thật, là giả hợp.
- Do đó, Duy
thức học bảo "nhân vô ngã".
- b) Sáu trần
là ngã căn? Trần với căn không khác gì mấy. Căn đã không tự tại
trong cuộc sinh tồn, thì trần làm sao đứng vững, còn hoài.
- Giả sử, "ngã"
nằm trong sắc, thì trên thế giới này phải không có sự đổi trắng,
thay đen. Như hoa nở rồi tàn, hết ngày rồi đêm, bãi bể biến
thành vườn dâu, cuộc đổi thay đã bày rành rành ra trước mắt.
- Vậy "ngã" nằm
trong thanh chăng? Cũng không có lý. Thanh không bao giờ tự
nhiên mà có. Nếu có không do vật hữu tình phát ra, thì cũng do
sự va chạm của những vật vô tình mà có. Như thế, thanh rõ ràng
là một pháp hữu vi, có tạo tác. Mà đã là hữu vi, thì thế nào
cũng vô thường. Vả lại, vật sinh ra nó là sắc kia đã là vô ngã,
vô thường, thì nó không thể nào thường, là ngã được.
- Cho đến
hương, vị, xúc, pháp cũng đều là vô thường, vô ngã như sắc,
thanh cả. Chúng chỉ như làn gió thoảng qua, như màn sương phảng
phất, đã vô hình lại bất định, nên sự vô ngã của chúng lại càng
rõ rệt hơn sắc, thanh nhiều.
- c) Sáu thức
là ngã căn? Như đoạn trên đã nói, thức là sự nhận biết do căn và
trần đối nhau mà có. Ðiều ấy đã chứng minh rằng thức không thật
có. Nói một cách đơn giản thì thức là do căn và trần đối nhau mà
thành, nhưng nếu chia chẽ một cách rốt ráo theo duy thức học,
thì thức sỡ dĩ có được còn là nhờ nhiều nhâ duyên khác nữa.
Chẳng hạn như nhãn thức, sanh khởi được là nhờ chín duyên sau
đây:
- Không: là
khoảng trống không, cách biệt giữa căn và cảnh vật.
- Minh: là ánh
sáng soi chiếu bởi mặt trời, trăng, sao, hay đèn đóm.
- Căn: là chỗ
nương tựa của thức.
- Cảnh: là các
sự vật mà căn duyên được.
- Tác ý: là sự
mong muốn được thấy.
- Phân biệt y:
là chỗ nương để phân biệt, tức là ý thức, hay thức thứ sáu.
- Nhiễm tịnh y:
là thức thứ bảy hay là tiềm thức.
- Căn bản y: là
thức thứ tám.
- Chủng tử: bản
năng sẽ được phát sinh.
- Ðể có một ý
niệm rõ ràng hơn về nhãn thức, chúng tôi xin giảng giải chín
duyên trên ra như sau:
- Khi mắt ta
thấy một vật gì, nó phải ở cách vật ấy gần hay xa (không ), khi
thấy là ban ngày, hay ban đêm có trăng, sao, hoặc pha đèn
(minh). Sự thấy ây dĩ nhiên là phải từ con mắt mà có (căn) và
đồng thời, lúc đó phải có vật gì mới thành sự thấy (cảnh). trước
lúc thấy, ta đã có ý muốn ngó rồi (tác ý). Tác ý đây lại do ý
thức đã khởi động trước (phân biệt y). ý thức lại phải nương
thức thứ bảy, vì là căn của nó (nhiễm tịnh y). Thức thứ bảy lại
luôn luôn và chấp thức thứ tám là ngã (căn bản y). Thức này lại
là nơi dung chứa các thức chủng tử. Chủng tử là cái nhơn chánh
để có ra sự vật.
- Xét từ trong
đến ngoài, từ duyên đầu đến duyên chót, nhãn thức đã không có
mảy may gì là chơn thật cả. Các thứ kia như nhĩ thức, tỹ thức,
thiệt thức cũng như vậy cả; nhưng ít duyên hơn, như nhĩ thức thì
chỉ có tám duyên (vì không có Minh: nghe không cần có ánh sáng).
Còn tỹ, thiệt và thân thức, thì chỉ bảy duyên (vì không cần có
Minh và Không). Ý thức thì chỉ có năm duyênm, là: căn, cảnh, tác
ý, căn bản y, chủng tử.
- Xem thế thì
đủ rõ sáu thức đều là không thật, nghĩa là cũng vô ngã như sáu
căn và sáu trần.
- Tóm lại, từ
căn thân cho đến thế giới, gồm trong mười tám giới, đều không
thật có, không thật ngã. Hành tướng do nhân duyên hòa hợp thì
có, những thật thể thì hoàn toàn không.
- IV. Hiệu Quả
của Pháp Quán Giới Phân Biệt
- Pháp quán
giới phân biệt có công năng phá tan cái ngã không còn manh giáp.
Cái ngã đã bị tấn công đủ mọi mặt, từ ngoài vào cho đến tận sào
huyệt, và cuối cùng, bị phân tán, chia xẻ, phanh phui cho đến
mảy mún. Từ trước đến nay, cái ngã chấp sỡ dĩ hoành hành được là
nhờ núp vào bóng tối của si mê. Từ nay phán quán giới phân biệt
như là một ngọn đèn pha chiếu sáng cả vòm trời u tối làm cho cái
hình bóng giả dối là cái ngã cũng tan biến như,ấy khói. Ngã chấp
đã không còn, thì ngã ái, nãg mạn cũng không biết nương tựa vào
đâu để tồn tại. Nói một cách khác, phiền não, ác nghiệp, khổ
đau, do ngã chấp mà sanh. Nay ngã chấp đã bị diệt, thì phiền não
khổ đau cũng sẽ hết. Phiền não, khổ hết thì an vui, tự tại tức
thời hiện ra. Ðó là cái kết quả chắc chắn thật đầu tiên của pháp
quán giới phân biệt.
- Rồi từ sự an
vui, tự tại tương đối ấy, hành giả sẽ cố gắng tiến dần trên
đường đạo. Càng tiến, hành giả càng sáng suốt thêm, càng nhận rõ
thêm chân lý. Hành giả sẽ dần dần chứng được các quả vị Tu đà
hoàn, Tu đà hàm, A na hàm, A La Hán. Nhưng hành giả cũng không
dừng lại ở các quả vị ấy. Hành giả không cố chấp ở quả vị đã
chứng được của mình, do đó sẽ giải thoát được tam giới, làm bực
Thanh văn, Duyên giác.
- Nếu hành giả
cố gắng tu thêm, đến khi không còn chấp trước các pháp mình tu,
mà chỉ coi đó như là ngón tay chỉ mặt trăng, như liều thuốc trị
bệnh, chỉ cần trong lúc đau, nếu cố gắng tu được như thế, thì
hành giả sẽ đến bực "Vô trí, vô đắc", tức là chứng được đạo quả
vô thượng Bồ đề.
-
C. Kết Luận
- Chúng ta đã
thấy rõ công năng, diệu dụng và hiệu quả tốt đẹp của pháp giới
phân biệt. Những thấy được ,mặc dù dã là quý, mà làm được mới
thật là quý hơn. Trong trên, chúng tôi đã hai ba lần nhấn mạnh ở
những chữ "nếu cố gắng..."Thật thế, nếu không cố gắng thì đâu sẽ
hoàn đó, và cái ngã, mặc dù giả dối, vẫn còn tồn tại mãnh liệt
và tác oai, tác quái như thường. Cái chấp ngã được tạo dựng và
củng cố từ muôn ngàn kiếp, mối khi một ít, những lâu ngày trở
thành rắn chắc, như những vỏ nghêu, vỏ ốc bám vào mõm đá. Ngày
nay chúng ta được may mắn đức Bổn sư chỉ bày pháp quán giới phân
biệt, để cho chúng ta thấy được cái giả tướng của nó. Những đâu
phải chỉ quán năm bảy lần, hay vài ba chục lần là thành tựu? Cái
ngã được bồi đắp lâu đời lâu kiếp, thì công phu tu luyện để phá
trừ nó cũng cần phải nhiều thời gian. Lý trí có thể chấp nhận dễ
dàng không có thật ngã, nhưng tình cảm đâu có chấp nhận dễ dàng
như thế? từ trước đến nay ta đang tin tưởng quí chuộng, cưng
dưỡng cái ngã, bỗng hôm nay có người bảo rằng nó không có, nó
không thật, thì thế nào tình cảm cũng nổi dậy phản dối, bịt tai
không muốn nghe, bịt mắt không muốn thấy. Ta phải cần nhiều kiên
nhẫn lắm, may ra mới thuyết phục được tình cảm. Những trận giặc
chiến đấu với cái ngã, đến giai đoạn này, đâu phải đã chấm dứt !
Cái ngã chưa đầu hàng mà lui vào sào huyệt sâu kín nhất, vào
"mật khu" nguy hiểm nhất là tiềm thức hay nói theo danh từ Duy
thức học là thức thứ bảy. Sự chấp ngã ở đây có một hình thức
toàn diện, vô cùng bén nhậy, như trong mật khu của mỗi người
dân, từ trẻ đến già, từ đàn ông, đàn bà đến con nít, là một
chiến sĩ; và khoảng đất, mỗi lùm cây mỗi cành lá là một cạm bẫy
làm trở ngại rất lớn cho sự chiến đấu chống cái ngã. Sự chấp ngã
của tiền thức hay vô thức diễn ra trong mỗi cử chỉ mỗi hành
động, trong thức cũng như trong khi ngủ, trong khi lành mạnh
cũng như trong khi mê sảng, trong khi sống cũng như trong khi
chết (theo thần0thức và đi đầu thai). Lực lượng của địch (chấp
ngã) mạnh mẽ và hùng hậu như thế đấy. Chúng ta cần phải hiểu rõ
trước khi chiến đấu. Biết mình, biết người, trăm trận trăm
thắng.
- Chúng ta
không bao giờ được phép khinh địch. Phải chuẩn bị đầy đủ trước
khi chiến đấu. Và trong khi chiến đấu phải quyết tâm và kiên
nhẫn. Với hai điều kiện căn bản ấy, chắc chắn hành giả sẽ thành
công trong cuộc chiến đấu, dẹp tan cái ngã tên giặc nguy hiểm
nhất trong mỗi chúng ta, và cầm đầu các tên giặc khác là: tham,
sân, si. Trừ được tên đầu đảng này là hành giả đã hoàn toàn
thành công trong trận giặc chống phiền não, khổ đau và bắt đầu
bước lên đài giải thoát
--o0o--
|
|