-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Phật
Học Phổ Thông
- Khóa Thứ
Tư
- Duyên Giác
và Bồ Tát Thừa Phật Giáo
- Bài Thứ 6
- Lục Ðộ
Ðộ thứ
nhất: Bố Thí Ba La Mật
-
A. Mở Ðề
- Ðạo Phật
thường được gọi là Ðạo Từ bi, vì tình thương trong Ðạo Phật rất
bao la, sâu rộng. Ðức Phật tổ vì từ bi mà xuất gia để tìm đạo
cứu khổ cho chúng sinh. Vậy người Phật tử, khi noi theo dấu chân
Phật, cũng phải lấy từ bi làm động tác chính cho sự tu hành của
mình.
- Những làm thế
nào để thể hiện được lòng từ bi và làm cho nó tăng trưởng?
Phương pháp mầu nhiệm nhất là thực hành pháp môn Bố thí Ba la
mật, một trong sáu pháp môn(lục độ) mà đức Phật đã chế ra cho kẻ
tu hành có tâm trí rộng lớn thực hành để độ mình và độ người ra
khỏi biển sanh tử luân hồi và đến bờ giác ngộ.
-
B. Chánh Ðề
- I. Ðịnh Nghĩa
- Bố thí là
cùng khắp: thí là cho, là trao tặng. Bố thí là cho cùng khắp,
cho tất cả mọi người, mọi vật, mọi nơi.
- Ba la mật
nguyên âm tiếng Phạn là Paramita. Người Trung hoa dịch nghĩa là
"Bỉ ngạn đáo", nói theo tiếng Việt là "đến bờ bên kia".
- Bố thí Ba la
mật, tức là một môn tu hành bằng phương pháp bố thí, co công
năng như một chiếc thuyền, đưa mình và người từ bờ mê lầm của
chúng sinh sang bờ giác ngộ của chư Phật.
- II. Thành
Phần Của Bố Thí Ba La Mật
- Bố thí Ba la
mật gồm các loại sau đây: Tài thí, Vô úy thí. Dưới đây chúng ta
lần lượt tìm hiểu ý nghĩa của các loại bố thí ấy:
- 1. Tài thí.
Tài thí tức là đem tiền bạc, của cải, vật thực của mình ra cho.
Tài thí có hai loại:
- a) Nội tài.
Là những vật chí thân quí báu nhất của mình như thân mạng, đời
sống của mình. Thí nội tài ở đây tức là hy sinh thân mạng để cứu
vớt kẻ khác ra khỏi nguy nan. Trong các chuyện tiền thân của đức
Phật Thích Ca, chúng ta đã thấy nhiều gương thí nội tài, như cấu
chuyện Ngài lái buôn kia, trong khi đi biển bị thuyền chìm đã tự
hy sinh thân mạng bằng cách buông tay khỏi cột buồm mà mình đang
bám vào, để nhường chỗ cho những hành khách xấu số khác khỏi
chết đuối.
- Thí nội tài
là một cử chỉ hy sinh cao đẹp nhất mà chỉ những người giàu lòng
từ bi, bác ái mới làm được. Nếu còn xem thân mạng mình là quý,
là trọng hơn thân mạng kẻ khác thì chắc chắn không bao giờ thực
hiện được loại bố thí này.
- b) Ngoài tài.
Ngoại tài là những vật thường dùng của mình như thức ăn đồ mặc,
tiền bạc, xe cộ, ruộng vườn, nhà cửa v.v...Ðem những vật ấy ra
cho những người túng thiếu, nghèo khổ thì gọi là thí ngoại tài.
- 2. Pháp thí.
Ðem lời hay, lẽ phải, những chân lý đúng đắn, những lời dạy quí
báu của đức Phật để chỉ bày, khuyên bảo người khác; hoặc y theo
giới luật của Phật tu hành thành thật để làm khuôn mẫu cho người
bắt chước, bỏ dữ theo lành, cải tà quy chánh đều là pháp thí.
Pháp thí có một giá trị rất lớn lao hơn cả tài thí, và tài thí
chỉ giúp người khác đơc túng thiếu về phương diện vật chất trong
một thời gian, hay nhiều nhất là cứu giúp một đời người. Nhưng
pháp thí giúp đỡ người rất nhiều về phương diện tinh thần, không
riêng gì đối với người nghèo khó, mà cả người giàu sang, chức
tước; không phải chỉ có ảnh hưởng tốt trong một giai đoạn, mà
gieo nhân lành cho nhiều đời kiếp về sau. Vì những lẽ đó, nên
người Phật tử chân chính, không bao giờ bỏ mất một dịp nào mà
không làm pháp thí, cả về phương diện khẩu giáo (dùng lời lẽ
đúng Phật pháp để chỉ dạy_ lẫn phương diện thân giáo (dùng đời
sống chân chính hợp đạo để chỉ dạy).
- 3. Vô úy thí.
Vô úy nghĩa là không sợ. Vô úy thí là làm cho người khác không
sợ, hết sợ. Phép thí này mới nghe thì tưởng như là không quan
trọng gì cả. Nhữnh nếu suy nghĩ một cách chín chắn, chúng ta sẽ
thấy đức Phật thật vô cùng thâm thúy khi chế ra pháp thí này.
- Chúng ta hãy
nghĩ lại mà xem, có phải trong một đời người, cái sợ đã chiếm
nữa cuộc đời rồi không? Khi nhỏ chúng ta sợ la rầy, sợ đánh đập,
sợ ma quỉ...khi tráng niên sợ thiếu ăn, thiếu mặc, sợ giặc, sợ
thiếu công danh, sự nghiệp; khi già sợ đau, sợ ốm, sợ già, sợ
chết...Chỉ toàn sợ và sợ. Ðó là chưa nói đến gặp thời buổi loạn
lạc, còn phải sợ sưu cao, thuế nặng, sợ quan tham, lại nhũng, sợ
trộm cướp, lưu manh, sợ tù, sợ tội, sợ chém, sợ giết...Bao nhiêu
thứ sợ chồng chất lên đầu người, làm cho họ không dám ngửng lên,
lưng họ còm xuống, đầu gối họ sắp quỵ. Muốn có một hình ảnh
tượng trưng cho sự sợ hãi, thì hãy lấy hình ảnh của người dân
quê Việt nam trong thời Pháp thuộc thì rõ: Hai tay họ sẵn sàng
chắp lạy, mắt không dám nhìn lên, lưng còng xuống và hai đầu gối
sẵn sàng để quỳ xuống mỗi khi nghe tiếng nạt của ông quan hay
ông thực dân hống hách.
- Ðời sống đã khổ, lại càng khổ
thêm vì sợ. Cho nên làm cho người hết sợ, chính là đã cứu cho họ
bớt đi quá nửa khổ đau trong liếp sống. Lòng từ bi của đức Phật
nở thấy chúng sinh khổ sở vì sợ, nên đã chế ra phép thí vô úy.
- Muốn thực
hành pháp môn này, hành giả trước tiên phải luyện cho mình một
đức tính đừng sợ gì cả. Mà kẻ tu hành chân chính, hiểu rõ giáo
lý của Phật, thì còn sợ nỗi gì? Tiền của, họ không tham lam cho
nên không sợ mất; danh lợi, họ không màn, nên không sợ thiếu,
sanh mạng, họ xem như giả tạm, nên không sợ chết. Do cái tâm lý
đó mà cõi lòng họ luôn luôn không xao động, nét mặt họ luôn luôn
bình tĩnh trước mọi sự đổi thay, gian nan nguy hiểm. Người tu
hạnh thí vô úy sẵn sàng để nhảy xuống nước vớt người sắp chết
chìm, nhảy vào lửa để cứu người sắp chết thiêu, xông vào đám
cướp để cứu người lương thiện, đến gõ cửa công, để minh oan cho
người vô tội...
- Tóm lại,
người tu hạn thí vô úy, hhẽ đi đến đâu thì đem đến đó một nỗi
binh tĩnh, an vui cho mọi người và mọi vật.
- III. Phải Bố
Thí Như Thế Nào Mới Ðúng Chánh Pháp
- Chúng ta đã
biết qua các lối Bố thí Ba la mật. Ðến đây, chúng ta cũng cần
biết rõ thái độ của người tu hành bố thí phải như thế nào.
- Sự bố thí như
đã nói trên, thật ra không khó và không hiếm. Rất nhiều người có
thể làm được. Trong đời, chúng ta thường thấy có nhiều kẻ giàu
có đem bạc ngàn bạc vạn ra bố thí, có nhiều người bỏ cả tài sản
ra lập nhà thương, ký nhi viện, trường học, có nhiều người dám
liều mạng xông vào lửa để cứu kẻ sắp chết thiêu, nhảy xuống nước
cứu người sắp chết đuối; có những kẻ anh hùng đem tài năng ra
bảo vệ kẻ yếu hèn, hay dám đương đầu với bọn xâm lăng để giữ gìn
đất nước.
- Về phương
diện thí pháp, có nhiều người đi đâu cũng đem đạo lý ra giảng
nói, đi đâu cũng tỏ ra ta đây hiểu đạo, chứng quả.
- Nếu nhìn bề
ngoài, thì những hành động ấy đều là bố thí cả. Nhưng nếu xét về
tâm lý và động lực thúc đẩy bên trong, thì có thể có hai trường
hợp khác xa nhau.
- 1. Bố thí
chấp tướng. Nghĩa là bố thí với một dụng tâm không trong sạch.
Chúng ta đã biết bố thí do từ tâm mà ra. Bố thí là một pháp môn
để tự độ và độ tha. Những nếu bố thí với một dụng tâm khác như
cầu danh, cầu tài lợi (cho ít mà cầu được trả nhiều), hoặc vì
ganh đua, hoặc vì muốn làm nhục người chịu ơn, hoặc vì bị ép
buộc, hoặc cho với một tâm lý khinh rẻ, hối tiếc hoặc cho với
một tâm lý lừa lọc, bất công, thiên vị; nếu bố thí với một tâm
lý, một thái độ như thế, thì tất là bố thí chấp tướng.
- Chẳng hạn đem tiền của ra lập
nhà thương, trường học để được nêu trên báo, để được nhắc nhở
đến luôn; hoặc nhảy xuống sông cứu người chết đuối để được
"người đẹp" tán thưởng; hoặc giết giặc để mong được tấm huy
chương, hoặc giảng đạo lý để tỏ ra mình học rộng biết nhiều.
Những hành vi bên ngoài đẹp đẽ ấy, bên trong thật không có giá
trị gì.
- Bố thí với
tâm lý, với động lực như thế, không phải là Bố thí Ba la mật; và
phước đức của những hành động ấy thuộc về hữu lậu rất mỏng manh,
như mây nổi giữa hư không, gặp gió thổi liền tiêu tan.
- 2. Bố thí
không chấp tướng. Nghĩa là bố thí với một dụng ý trong sạch,
đúng với ý nghĩa của nó.
- Trong khi bố
thí, hành giả vì tâm từ bi bình đẳng, xem chúng sinh như con,
nên không sinh tâm vị kỷ, không phân biệt bỉ thử, thân sơ. Hành
giả vì biét tài sản cũng như thân mạng mình đều là giả tạm, vô
thường, nên không tham lam, tiếc nuối. Hành giả vì biết cái ngã
không có thật, nên khi cho không thấy có kẻ cho và người nhận,
không tự cao, tự đại.
- Bố thí với
một tâm địa trong sạch như trên sẽ được phước vô lậu thanh tịnh,
mới đúng là Bố thí Ba la mật.
- IV. Công Ðức
Bố Thí Ba La Mật
- Pháp bố thí
là cái nhân lành của quả phúc ở thế gian và xuất thế gian. Trong
lục độ vạn hạnh, pháp bố thí đứng đầu, vì nó tương đối dễ làm
hơn tất cả các pháp, mà công đức lại lợi lạc được cả đôi bên
người nhận và kẻ cho:
- 1. Ðối với
người nhận. Người đời không ai là đầy đủ. Kẻ được phần này thì
thiếu phần khác: kẻ được vật chất thì mất tinh thần, kể đầy đủ
tinh thần thì thiếu thốn vật chất.
- Kẻ đang thiếu thức ăn mà được
ăn, kẻ đang thiếu mặc mà được mặc, kẻ đang đau xót mà được vỗ
về, an ủi, kẻ đang lo sợ mà được đùm bọc che chở thì thật là may
mắn sung sướng vô cùng. Trong một xã hội có được nhiều người
giàu lòng từ bi bác ái, luôn luôn tìm cách giúp người, thì xã
hội ấy chắc chắn sẽ được an vui thịnh đạt.
- 2. Ðối với
người cho. Sự bố thí đã đành là lợi lạc cho người nhận, những
đối với người cho cũng không kém phần quý báu. Ngoài sự sung
sướng được thấy mình làm việc phải, được thấy quần sinh sung
sướng, vui mừng, hành giả còn nhờ bố thí mà tiến mau, tiến xa
trên đường đạo. Mỗi khi đem của cải ra cho, là hành giả có một
dịp để chiến thắng lòng tham lam, bỏn sẻn, ích kỷ và noiứ rộng
lòng từ bi; mỗi khi hy sinh tánh mạng để cứu giúp người, là hành
giả có dịp để thử thách lòng tham sống, sợ chết, và trau dồi đức
tánh lợi tha, bình tĩnh. Mỗi khi cho mà không kể kẻ thân người
thù, là hành giả có dịp để chiến đấu với ngã chấp ngã ái, bãg
mạn. Nếu hành giả thí pháp, thì đó là những cơ hội để mình tự
nhắc nhở, ghi nhớ những lời đức Phật dạy, nhữ công đức mà Ngài
đã làm để noi theo.
-
C. Kết Luận
- Chúng ta đã thấy rõ giá trị của
pháp Bố thí Ba la mật. Công đức của nó không những chỉ riêng cho
người nhận, mà lẫn cả người cho nữa. Nó vừa độ người mà vừa độ
mình. Nó công năng đưa mình và người từ bờ mê lầm đến bờ giác
ngộ, từ địa vị phàm phu đến quả vị Bồ Tát.
- Vậy xin
khuyên các Phật tử đều phát tâm Bồ đề, tu hạnh Bố thí Ba la mật,
để trên cầu thành quả Phật, dưới hóa độ chúng sinh, đền ơn Tam
Bảo.
-
--o0o--
|
|