-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Phật
Học Phổ Thông
- Khóa Thứ
Tư
- Duyên Giác
và Bồ Tát Thừa Phật Giáo
- Bài Thứ 6
(tt)
- Ðộ thứ
hai: Trì Giới Ba La Mật
-
A. Mở Ðề
- Bất luận một
đoàn thể, một tổ chức nào trong xã hội, muốn có qui củ, có đường
lối để tiến triển, đều phải có ky ủluật hay giới điều. Kỷ luật
càng chặt chẽ thì đời sống chung của tổ chức, cũng như của mỗi
cá nhân trong tổ chức ấy lại càng mau tiến phát. Trái lại, một
đoàn thể không kỷ luật là một toán người ô hợp, dù ban đầu có
đông đảo, hùng mạnh bao nhiêu, rồi chẳng bao lâu cũng sẽ tan.
- Kỷ luật bao
giờ cũng do những người lãnh đạo đặt ra. Một người lãnh đạo càng
sáng suốt bao nhiêu, có kinh nghiệm bao nhiêu, thì qui luật,
giới điều mà họ chế ra, lại càng có giá trị thực tiễn, có công
dụng quí báu bấy nhiêu.
- Ðạo Phật là
một cái đạo có mục đích đưa người đến chỗ giác ngộ, và sáng lập
là đức Thích Ca, một đấng giác ngộ hàon toàn. Vậy những giới
luật, những giáo điều của đạo Phật tất nhiên là phải có một giá
trị, một công dụng quí báu, bổ ích vô cùng cho những ai muốn
theo dấu chân của đức Phật.
- Chính vì sự
quan trọng và lợi ích lớn lao của giới luật như thế, nên đức
Phật đã nhiều lần nhắn nhủ với các hàng Ðệ tử của Ngài ,phải
nghiêm trì giới luật. Ngài thường dạy: "Gặp thời không có Phật
,hãy lấy giới luật làm thầy". Kinh Phạm võng cũng có chép: "Giới
sáng như mặt nhật, quí báu như ngọc châu anh lạc, các vị Bồ Tát
đều do trì giới thanh tịnh mà thành Chánh giác".
-
B. Chánh Ðề
- I. Ðịnh Nghĩa
- "Trì" là giữ
giới chặt chẽ; "Giới" là những điều răn dạy, ngăn cấm, những qui
luật mà đức Phật đã chế ra để hướng dẫn các Ðệ tử của Ngài đi
vào con đường chánh, và tránh cho họ những hầm sâu hố hiểm mà họ
có thể rơi vào, trên con đường đi đến quả vị Phật.
- Vật trì giới
ba la mật là một môn tu để đi đến bờ giác ngộ bằng cách giữ gìn
nghiêm chỉnh, trọn vẹn giới luật mà đức Phật đã răn dạy.
- II. Thành
Phần Của Giới Luật
- Căn cơ của
chúng sanh không đồng nhau, và sự tu hành của Ðệ tử Phật cũng có
nhiều cách; vì thế, đức Phật phải chế ra rất nhiều giới luật và
phân ra nhiều loại để áp dụng cho sát vào căn cơ và lối tu của
mỗi hạng người. Tuy thế, chúng ta có thể phân chia giới luật của
Phật ra làm ba phần và hai cấp bậc:
- Giới tại gia
cho hàng Tiểu Thừa.
- Giới xuất gia
- Giới Ðạo và
Tục thông hành (Bồ Tát giới) cho hàng Ðại Thừa.
- 1. Giới tại
gia. Giới tại gia là những giới dành cho những người chưa xuất
gia trong hàng Tiểu Thừa, tức là những cận sự nam và cận sựĩ nữ
(cư sĩ tại gia). Những người này có thể thọ trì từ một đến năm
giới (Ngũ Giới) hay tám trai giới (bát quan trai).
- 2. Giới xuất
gia. Xuất gia gồm có năm chúng: Sa di, Sa di ni, Thức xoa ma na
ni, Tỳ kheo và Tỳ kheo ni. Các chũng này tùy theo sự tu hành
thấp hay cao, nam hay nữ mà giữ giới nhiều hay ít:
- Sa di và Sa
di ni phải giữ 10 giới.
- Thức xoa ma
na ni phải giữ 6 điều giới và tập 296 hạnh giới.
- Tỳ kheo phải
giữ 250 giới
- Tỳ kheo ni
phải giữ 348 giới.
- 3. Giới đạo
tục thông hành. Giới đạo tục thông hành chính là giới Bồ Tát. Ấy
là giới mà Phật tử tại gia và xuất gia trong hàng Ðại Thừa phải
thọ trì, sau khi đã phát tâm Bồ đề tu Bồ Tát hạnh để mở rộng bề
làm Phật sự và hóa độ thế chúng sinh.
- Phạm vi bài
này chỉ nói về Ðại Thừa Bồ Tát giới và đây những giới mà người
tu hạnh trì giới ba la mật cần phải biết và giữ cho đúng.
- Bồ Tát giới
gồm có:
- Nhiếp luật
nghi giới. Người thọ trì "Nhiếp luật nghi giới" là người quyết
giữ đúng mười hai giới trọng và bốn mươi tám giới khinh, nghìa
là quyết không làm một việc ác nào cả.
- Nhiếp thiện
pháp giới. Người thọ trì "nhiếp thiện pháp giới" là người quyết
tâm làm tất cả các việc lành.
- Nhiêu ích hữu
tình giới. Người thọ trì giới này là người quyết tâm tu hạnh từ
bi ,hỷ xả, làm tất cả những điều lợi ích cho tất cả chúng sinh,
không một loài nào mà chẳng hóa độ.
- III. Phải Trì
Giới Như Thế Nào Mới Ðúng Chánh Pháp
- Cũng như pháp
tu bố thí nói ở bài trước; trì giới ba la mật cũng có hai cách:
Trì giới sai chánh pháp và trì giới đúng chánh pháp, hay nói
theo danh từ nhà Phật là: Trì giới chấp tướng và trì giới không
chấp tướng.
- 1. Trì giới
chấp tướng. Trì giới chấp tướng là trì giới mà chỉ có hình thức
bên ngoài, chứ bên trong thì rất nhiễm ô. Chẳng hạn trì giới vì
háo thắng để được người đời khen ngợi; trì giới với một tâm lý
tự cao tự đại, cho mình hơn người, và khinh dễ người phàm giới;
trì giới vì bị ép buộc, nên thiếu hoan hỷ mà sanh tâm buồn
phiền, miễn cưỡng...Trì giới như thế là thiếu thành tâm, là giả
dối, đánh lừa mình và người. Trì giới như thế chẳng ích lợi gì,
chỉ thêm mất thời giờ và không phải là trì giới Ba la mật.
- 2. Trì giới
không chấp tướng. Trì giới không chấp tướng là làm theo đúng vẹn
toàn các điều răn cấm mà đức Phật đã chỉ dạy, không vì danh lợi,
không vì háo thắng, không vì bị hoàn cảnh ép buộc mà làm.
- Trong khi trì
giới, hành giả không hề nghĩ mình giỏi hơn người, cũng không
chấp nê theo giới luật, khinh dễ người phạm giới. Hành giả chỉ
vì thuận theo đức tánh vốn không nhiễm trước mà làm điều lợi ích
cho tất cả chúng sinh và nhìn nhận "trì giới" là bổn phận của
mình không thể bỏ qua được. Trì giới như thế mới đúng là trì
giới Ba la mật, công đức sẽ vô lượng vô biên.
- IV. Công Ðức
Trì Giới Ba La Mật
- Như trên đã
nói, trì giới Ba la mật có một hiệu lực rất lớn lao cho việc tu
hành của người Phật tử. Phật tử thọ trì giới luật nghiêm trang
thanh tịnh thì lúc hiện tiền tâm được thơ thới an vui, không có
gì phải ân hận. Ðối với làng nước, hành giả được niềm nở kính
nhường, nhất là đối với các tín đồ, lúc nào cũng được hoan hỷ,
quý trọng. Trong kiếp vị lai, hành giat chắc chắn được chứng quả
Bồ đề, thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi.
- Nếu chúng ta
đem so sánh pháp môn bố thí với trì giới Ba la mật, thì sẽ thấy
phép trì giới hơn hẳn bố thí một bậc.
- Người Phật tử
có tài thí, pháp thí mà không có trì giới, thì không thể thành
Phật được, vì người ấy vừa tạo phước và cũng vừa gây tội, do chỗ
không trì giới, thành thử gây nghiệp thiện ác xen tạp, đâu được
trọn lành mà mong chứng đến quả Thánh?
- Trái lại,
người Phật tử, nếu chỉ chăm chú nghiêm trì giới luật, thì chắc
chắn sẽ thành Phật. Vì sao vậy? Vì trong lúc chuyên tâm trì giới
là đã có tài thí và pháp thí hàm súc rồi:
- Khi hành giả
trì giới được thanh tịnh, thì tâm từ bi ,hỷ xả bủa khắp. Hễ họ
thấy kẻ nào làm hạnh tài thí, pháp thí cho ai, thì liền sanh tâm
hoan hỷ tán thành công đức, như thế tức là người ấy được một
phần công đức "tùy hỷ bố thí".
- Hơn nữa, khi
hành giả thành thật chuyên trì giới luật, thực hành theo đúng
lời Phật dạy, làm gương mẫu cho quần sinh bắt chước, tức là đã
thí pháp bằng thân gáio. Cònd khi hành giả trì tụng giới luật
cho nhập tâm thuần thục, cũng tức là thí pháp bằng khẩu giáo.
- Xem như thế
thì trì giới Ba la mật là một pháp môn rát thần diệu, có thể bao
gồm cả bố thí lẫn trì giứoi, chắc chắn sẽ đưa hành giả đến bờ
giải thoát.
-
C. Kết Luận
- Giá trị và
công năng của trì giới Ba la mật đã được chứng minh một cách rõ
ràng, chúng ta không còn nghi ngờ điều gì nữa. Giờ đây chúng ta
còn một quyết định dứt khoát là phát tâm dõng mãnh trì giới Ba
la mật.
- Sự tu chỉ cốt
ở thực hành. Dù thông minh tài trí đén đâu, du thâm hiểu giáo lý
đến đau, mà không thực hành, thì cũng vô ích. Chúng ta đừng nên
quên rằng chữ "hành" thường đi theo chữ "học" và chữ "tu" (học
hành, tu hành). Ðạo Nho cũng có câu: "học nhi thời tập chi". Ðạo
Phật lại dạy một cách mạnh mẽ hơn: "tu mà không học là tu mù;
học mà không tu là cái đảy sách". Nhất là khi đã mang danh Phật
tử, đã thọ giới mà không giữ giới, thì chẳng khác gì đem giới
luật của Phật ra mà phỉ báng và làm trò cười cho thế nhân.
- Vậy chúng tôi
xin khuyên quí Phật tử, sau khi đã nhận chân giá trị cao quí và
lợi ích lớn lao của pháp môn trì giới Ba la mật, hãy mau mau
phát tâm rộng lớn tu hành trì giới này, để chóng thoát vòng sinh
tử khổ đau.
--o0o--
|
|