-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Phật
Học Phổ Thông
- Khóa Thứ
Tư
- Duyên Giác
và Bồ Tát Thừa Phật Giáo
- Bài Thứ 8
- Ðộ thứ
năm: Thiền Ðịnh Ba La Mật
-
A. Mở Ðề
- Kẻ tu hành
muốn đến bờ giải thoát hoàn toàn, cần phải tu cả phước lẫn huệ.
Trong bốn đọ trước của lục độ mà chúng ta đã học, chỉ nói về tu
phước. Trong hai độ cưối cùng là Thiền định và Trí huệ, chúng ta
sẽ học về tu huệ.
- Trước tiên,
chúng ta hãy tìm hiểu tánh cách quan trọng và giá trị của Thiền
định.
-
B. Chánh Ðề
- I. Ðịnh Nghĩa
- Thiền định là
gì? Thiền phiên âm theo tiếng Phạn là Thiền na, xưa dịch là tư
duy, nay các học giả dịch là Tĩnh lự. Tu Tư duy có nghĩa là tu
tập bằng phương pháp suy nghiệm, nghiên tầm và suy cứu về những
đối tượng của tâm thức. Tĩnh lự có nghĩa là dùng tâm thể vắng
lặng để thẩm sát các vấn đề đạo pháp.
- Còn chữ Ðịnh
phiên âm theo tiếng Phạn là Tam muội (Samadhi), có nghĩa là tập
trung tâm lý vào một đối tượng duy nhất, không để cho tâm ý tán
loạn. Hợp hai chữ Thiền và Ðịnh lại, ta có một định nghĩa chung:
Tập trung tâm ý vào một đối tượng duy nhất không cho tan loạn,
để tâm thể được vắng lặng và cho tâm dụng được mạnh mẽ, hầu quan
sat và suy nghiệm chân lý.
- II. Các Loại
Thiền định
- Thiền định có
thể gọi là một trạng thái của tâm lý, trạng thái ấy gọi là trạng
tahí Tĩnh lự. Song ở Dục giới, tâm lý không thể có được trạng
thái ấy, vì nó chỉ phát hiện ở Sắc giới, và Vô sắc giới. Rõ hơn
nữa là Thiền thuộc về Sắc giới và Ðinh thuộc về Vô sắc giới. Ở
mỗi giới, Thiền và Ðịnh đều phân làm bốn cấp bực từ thấp lên
cao, cho nên có danh từ là Tứ thiền và Tứ định.
- Tứ thiền và
Tứ định này, tuy là kết qủa của công phu tu tập Thiền định, hay
gieo trồng thiện căn, nhưng cũng là chung cho cả Phật pháp, cả
Thế gian pháp,cả Thánh cả Phàm. Nói rõ hơn, là dù theo phương
pháp Ðạo Phật hay phương pháp nào, nếu có đường lối, có công phu
đều có thể đạt đến Tứ thiền và Tứ định; nhưng đây cũng chỉ là
thế gian pháp mà thôi.
- Còn nói về
pháp Ðịnh của chư Phật, Bồ Tát và A La Hán thì khác. Ðó là Thiền
định thuộc Xuất thế gian pháp, không thể phát hiện trong phạm vi
Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới được.Muốn đạt đến trạng thái
Tĩnh lực của các bậc ấy, người ta phải đạt đến sự thoát ly tam
giới. Còn lẩn quẩn trong tam giới thì tâm ý chỉ có thể đạt đến
Tứ định là cùng.
- Muốn có được
Tứ thiền và Tứ định, chỉ phải thoát ly và đoạn diệt phiền não ở
Dục giới. Nhưng nếu muốn đạt các pháp Ðịnh vô lậu, thì phải diệt
trừ tất cả các phiền não của Vô sắc giới.
- Trước khi
mong đến được Ðịnh vô lậu, phải vần đến Thiền, bởi vì Thiền là
căn bản của Ðịnh. Có được ngũ nhãn, lục thông cũng nhờ Thiền. Vả
lại, Thiền có công dụng thẩm sát, nghiên cứu. Nếu muốn quan niệm
chân lý, tất phải nhờ đến Thiền do đó Thiền là pháp tối yếu cho
kẻ học đạo.
- Ðứng về
phương diện các trình độ của Thiền, kinh sách có dạy như sau:
- 1. Thế gian
thiền. Thiền này có hai loại: Căn bản vị thiền và Căn bản tịnh
thiền. Căn bản vị thiền gồm có mười hai phẩm, phân làm ba: Tứ
thiền, Tứ vô lượng và Tứ không.
- Người phàm
chán cảnh tán loạn của Dục giới thì tu Tứ thiền. Người muốn
phước lớn thì tu Tứ vô lượng. Kẻ nhàm chán cảnh sắc giới chật
hẹp thì tu Tứ không. Vì mười hai phẩm Thiền này có thể làm căn
bản cho thịện pháp xuất thế gian, nên gọi là căn bản Thiền. Với
lại, an trú trong mười hai phẩm ấy, người tu Thiền còn ưa thích
cảm giác lạc thọ của Thiền, nên gọi là căn bản vị Thiền.
- Căn bản vị
thiền, phân làm hai: Lục diệu môn và Thập lục đặc thắng. Ai có
huệ tánh nhiều thì tu Lục diệu môn, kẻ nào có định tánh nhiều
thì tu Thập lục đắc thắng. Những ai có huệ tánh và định tánh đều
nhau thì có thẻ tu cả hai loại. Vì người ta có thể căn cứ vào
pháp Thiền này để phát sinh vô lậu trí, không phải chỉ thuần hữu
lậu, như ở Căn bản vị thiền, nên gọi là căn bản tịnh thiền.
- Tuy nhiên, cả
hai loại đều chỉ là thế gian thiền mà thôi, vì trước thời Phật
giáng thế, phép Thiền này đã có.
- 2. Xuất thế
gian thiền. Pháp thiền này làcủa bậc xuất thế. Có bốn thứ Thiền
quán: Cửu tướng quán, Bát bối xả quán, Bát thắng xứ quán và Thập
nhất thiết xứ quán. Tu bốn thiền quán này, tuy là lấy các pháp
hữu vi làm đối tượng suy nghiệm, những có thể đi đến kết quả ly
dục, phát sinh vô lậu trí, nên gọi là Xuất thế gian thiền.
- 3. Xuất thế
gian thượng thượng thiền.
- Ðây là pháp
Thiền cao tột của các bậc đại nhân. Kinh Ðịa trì có giải về chín
môn đại thiền này như sau:
- Một là "Tự
tánh thiền", nghĩa là quán sát thật tướng của tự tâm, không cần
lấy đối tượng ngoại cảnh.
- Hai là "Nhất
thiết thiền", có công năng tự hành và hóa tha.
- Ba là "Nan
thiền", môn Thiền gian nan, thâm diệu, khó tu.
- Bốn là "Nhất
thiết môn thiền", có nghĩa là tất cả các pháp Thiền định đều do
môn (cửa) này mà phát xuất.
- Năm là "Thiện
nhân thiền", môn Thiền của những chúng sanh có đại thiện căn
cùng tu.
- Sáu là "Nhất
thiết hạnh thiền", bao nhiếp tất cả hạnh pháp của Ðại Thừa.
- Bảy là "Trừ
não thiền", có năng lực trừ diệt phiền não, khổ đau cho chúng
sinh.
- Tám là "Thử
thế tha thế lạc thiền", có năng lực làm cho chúng sinh an lạc
trong hiện tại và tương lai.
- Chín là
"Thanh tịnh tịnh thiền", có năng lực đoạn trừ hoàn toàn các hoặc
nghiệp, và chứng được Tịnh báo đại Bố đề. Ðến môn Thiền này, tâm
ý hoàn toàn thanh tịnh và lại cũng không còn thấy cái tướng
thanh tịnh ấy nữa, nên gọi là Tịnh báo.
- III. Công
Năng Của Thiền định
- Theo Bồ Tát
hạnh, có thể tu tập Thiền định và đạt đến mười kết quả tốt đẹp
sau đây:
- Một là được
an trụ trong pháp thức uy nghi. Tu Thiền định phải theo pháp
thức mà hành trì, như vậy trải qua một thời gian kha lâu, thì
ngũ căn được tịch tịnh, chánh định phát khởi, không cần có sự cố
gắng mà vẫn được an trụ trong pháp thức oai nghi.
- Hai là được
thực hành cảnh giới từ bi. Khi tu Thiền định, thì giữ được tâm
từ bi, thương yêu chúng sinh, muốn cho tất cả được an ổn.
- Ba là không
còn phiền não. Nhưò năng lực Thiền định mà các phiền não tham,
sân, si, không còn phát sinh nữa.
- Bốn là gìn
giữ được các giác quan. Không cho sắc, thanh, hương, vị, xúc lay
động.
- Năm là vui vẻ
lạc thú. Xem Thiền định là một món ăn ngon lành hơn tất cả các
món ănm khác trong thế gian.
- Sáu là xa lìa
được ái dục. Một khi tâm niệm đã lắng yên, ái dục không còn phát
sinh và làm nhiễm trước được nữa.
- Bảy là chứng
được chân không ,những không bao giờ bị rơi vào chỗ chấp đoạn
diệt hư vô.
- Tám là cởi mở
được tất cả những dây trói buộc sự giải thoát.
- Chín là khai phát được trí huệ
vô lượng và an trú trong cảnh giới của chư Phật.
- Mười là đạt
đến sự giải thoát thành thục, đến chỗ mà tất cả hoặc nghiệp
không còn nhiễu lại được nưũa.
-
C. Kết Luận:
- Chúng ta có
thể tóm tắt thành quả tốt đẹp của Thiền định như sau:
- Ngũ căn được
tự tại, phiền não được dứt trừ ,từ bi được mở rộng, trí huệ được
phát chiếu, cảnh giới giải thoát được phô bày ra trước mắt. Một
pháp môn có công năng quí báu, có diệu dụng phi thường như thế,
làm sao chúng ta có thể bỏ qua được?
- Mong rằng vì
lợi ích thiết thực nói trên, quí vị Phật tử hãy gắng công tu tập
pháp môn Thiền định này cho chíng có kết quả.
--o0o--
|
|