-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Phật
Học Phổ Thông
- Khóa Thứ
Tư
- Duyên Giác
và Bồ Tát Thừa Phật Giáo
- Bài Thứ 8
(tt)
- Ðộ thứ sáu:
Trí Huệ Ba La Mật
-
A. Mở Ðề
- Trong đạo
Phật, hai tiếng vô minh được nhắc nhở đến luôn, vì chính vô minh
là nguồn gốc, là đầu dây mối nhợ của đau khổ của sanh tử luân
hồi. Phật thường dạy: "Cái khổ của lạcđà, của lừa ngựa chở nặng
mãn kiếp, cái khổ trôi lăn trong tam giới chưa gọi là khổ. Ngu
si không trí huệ tin tưởng sai lạc, không biết hướng đi, cái ấy
mới thật là khổ".
- Ngài còn dạy
một cách mạnh mẽ, dứt khoát hơn: "Si là gốc của tội lỗi, Trí huệ
là gốc của muôn hạnh lành". Chúng ta là Phật tử chúng ta không
muốn gây tội lỗi để chịu quả khổ đau, chúng ta chỉ mong làm được
các hạnh lành để hưởng phước quả và được giải thoát. Vậy tất
nhiên chúng ta phải tu huệ, thì Trí huệ Ba la mật.
-
B. Chánh Ðề
- I. Ðịnh Nghĩa
- Trí huệ là
gì? "Trí" phiên âm chữ phạn là Phã na; "Huệ" phiên âm chữ Phạn
là Bát nhã. "Trí" có nghĩa là quyết đoán; "Huệ" có nghĩa là giản
trạch, Tự điển Phật học Trung Hoa định nghĩa như sau: "Trí là
biết Tục đế và Huệ là thông hiểu Chân đế".
- Cũng có thể
nói: Trí là thể tách sáng suốt trong sạch, Huệ là cái Diệu dụng
xét soi tự tại. Trí huệ Ba la mật là thể tách sáng suốt có khả
năng soi sáng sự vật một cách thấu đáo tinh tường đến nơi đến
chốn, không thể sai lầm được.
- II. Các Loại
Trí Huệ
- Trí huệ như
định nghĩa trên là trí huệ của đạo Phật, chứ không phải trí huệ
phổ thông, thường dùng trong các sự học hỏi hiểu biết, suy luận
hằng ngày trong đời.
- Theo triết
học Phật Giáo, khả năng nhận thức có hai loại: Hiện lượng và tỷ
lượng.
- 1. Hiện
lượng: Là sự nhận biết trực tiếp không cần qua trung gian suy
luận. Hiện lượng lại chia làm hai:
- Chân hiện
lượng, là nhận thức trực tiếp mà đúng.
- Tợ hiện
lượng, Là nhận thức trực tiếp mà sai
- 2. Tỷ lượng:
Là sự nhận biết qua trung gian suy luận. Tỷ lượng cũng có hai
thứ:
- Chân tỷ
lượng, là lốihiểu biết bằng suy luận đúng đắn.
- Tợ tỷ lượng,
là lối hiểu biết mà suy luận mà sai lầm.
- Hiện lượng
của địa vị phàm phu rất kém cỏi và phần nhiều là tợ hiện lượng.
Tỷ lượng của địa vị phàm phu lại còn kém cỏi hơn nữa và phần
nhiều là tợ tỷ lượng. Ðứng về phương diện tính chất, Ðạo Phật
chia trí huệ ra làm hai loại lớn là " Căn bản trí" và " Hậu đắc
trí".
- 1. Căn bản
trí: Căn bản trí, là giác tính minh diệu mà mỗi chúng sinh vốn
đã có sẵn, nhưng vì bị phiền não che lấp, nên chưa phát chiếu ra
được.Có thể so sánh căn bản trí như là một chất kim khí quí báu
(vàng, bạc) đang ở trong trạng tahí khoáng chất, nằm lần lộn với
đá (phiền não vô minh)
- 2. Hậu đắc
trí: Hậu đắc trí, là trí huệ có được nhờ công phu tu tập như trì
giới, thiền định v.v...Có thể so sánh Hậu đắc trí như chất kim
khí (vàng, bạc) được lọc từ khoáng chất ra và không còn lẫn lộn
với đất đá, bụi bặm nữa (phiền não, vô minh).
- Theo Duy thức
học, sau khi đạt đến địa vị Giác ngộ, nghĩa là có được "Hậu đắc
trí", thì tám thức chuyển thành bốn trí:
- Thức thứ tám,
A lại da có tác dụng là chấp trí sanh mạng và chủng tử, được đạt
đến địa vị vô lậu và biến thành "Ðại viên cảnh trí" (trí sáng
như bức gương lớn và tròn đầy, tượng trưng cho biển cả chơn
như).
- Thức thứ bảy,
Mtạ na có tác dụng là chấp ngã, biến thành "bình đẳng tánh trí"
(trí có năg lực nhận thức cách bình đẳng, vô ngã của vạn pháp).
- Thức thứ sáu,
Ý thức có tác dụng là phân biệt, biến thành "Diệu quan sát trí"
(trí có năng lực quan sát thâm diệu).
- Năm thứ cuối
(nhãn thức, nhĩ thức, tỹ thức, thiệt thức, thân thức) biến thành
"Thành sở tác trí" (trí có năng lực nhận thức cùng khắp và thần
diệu)
- III. Làm Thế
Nào Ðể Có được trí Huệ?
- Muốn có được
trí huệ, đức Phật chế ra nhiều pháp tu. Trong số nhiều pháp tu
ấy thì "Văn, Tư, Tu" và "Giới, Ðịnh, Huệ" là những pháp thường
được nhắc nhở và thực hành nhiều nhất.
- Văn, Tư, Tu:
Văn, Tư, Tu là ba pháp tu để có được trí huệ:
- Văn huệ: là
huệ do tia nghe âm thanh, mắt thấy âm tự của Phật, hay qua các
kinh điển mà hiểu được nghĩa lý.
- Tư huệ: là
huệ do trí suy nghĩ, tìm tòi, rõ được nghĩa lý, hiểu được sự
thật.
- Tu huệ: là
huệ do tu hành thẻ nghiệm và thể nhập chân lý, mà gíac ngộ,
chứng được sự thật.
- Văn, tư, tu
rất tương quan mật thiết với nhau, hành giả cần phải chuyên tu
cả ba thứ, không thể bỏ qua một thứ nào mà thành tựu được. Hãy
nghe Phật dạy:
- " Văn huệ, tư
huệ, tu huệ, ba môn khuyết một không được. Nếu ai nghe mà không
suy nghĩ, thì như làm ruộng mà không gieo mạ; nếu suy nghĩ mà
không tu, thì như làm ruộng mà không tát nước, bừa cỏ, rốt cuộc
không có kết quả. Ba huệ được đầy đủ thì chứng quả Tam thừa?"
(Sa Di thập giới).
- Giới: là lời
răn dạy của Phật )xem lại bài Trì giới Ba la mật).
- Ðịnh: là
thiền định, giữ cho tâm ý không loạn động, để suy nghiệm đến
những vấn đề căn bản của Ðạo (xem lại bài Thiền Ðịnh Ba la mật).
- Huệ: là sự
phát chiếu của Trí, sau khi đã tẩy sạch phiền não và vô minh.
- Giới, Ðịnh, Huệ tương quan mật
thiết với nhau: Do trì giới mà thân tâm không loạn động. Do thân
tâm không loạn động mà tâm trí được Ðịnh. Tâm trí khi đã định
thì Trí huệ phát chiếu.
- Ngược lại,
Trsi huệ phát chiếu thì tâm dễ Ðịnh, Tâm đã Ðịnh thì Trì giới
không khó khăn.
- Tóm lại:
Giới, định, huệ, đều tương duyên tương quan mật thiết với nhau,
một cái tăng thì hai cái kia cũng tăng.
- IV. Công Năng
Của Trí Huệ
- Như chúng ta
đã thấy trong phần chia loại, trí huệ khi đã đạt đến địa vị Giác
ngộ (tám thức chuyển thành bốn trí) thì công năng, diệu dụng của
nó rộng lớn vô cùng, không thể nói hết. Tuy thế, để có một quan
niệm tương đối rõ ràng, chúng ta có thể nêu lên ba công năng
chính của trí huệ như sau:
- 1. Dứt trừ
phiền não: Phiền não là do mê lầm phát sinh. Khi trí huệ đã có
thì mê lầm phải mất, như khi ánh sáng phát ra thì bóng tối tất
phải tan biến. Mê lầm đã mất thì phiền não tất không còn phát
sinh nữa.
- 2. Chiếu sáng
sự vật: Sự vật bị vô minh che khuất, như màn sương sớm che phủ
cảnh vật, nay trí huệ phát chiếu vào sự vật, chẳng khác gì khi
ánh sáng mặt trời lên, thì màn sương ất phải tan biến, lúc bấy
giờ thực tướng thực tánh của sự vật được lộ bày như thật.
- 3. Thể nhập
chân lý: Khi bị vô minh phủ lấp, ngăn che thì người ta với
người, ta với vật tưởng như riêng biệt, sai khác. Nay nhờ trí
huệ soi sáng, thấy rõ được tâm cảnh đều chơn không, nên thể nhập
được chân lý, giác ngộ hoàn toàn.
-
C. Kết Luận
- Gíá trị và
công năng của trí huệ lớn lao không thể nói hết. Nó là cứu cánh
của người Phật tử. Cứu cánh ấy, chúng ta phải cố đạt cho được.
- Trước khi nhập Niết Bàn, đức
Phật cũng đã thiết tha khuyên các Ðệ tử phải trao dồi trí huệ
như sau:
- " Trí huệ là
chiếc thuyền kiên cố chở khỏi biển già, đau, chết; là ngọn đèn
lớn chói sáng vô minh hắc ám, là liều thuốc hay chữa hết thảy
bệnh tật, là chiếc búa sắt chặt gãy cây phiền não. Vậy các người
phải lấy sự nghe, sự suy nghĩ, sự tu tập mà tự tăng ích cho trí
huệ mình". (Kinh Di Giáo).
- Những lời
nhắn nhủ thống thiết của đức Bổn sư, chúng ta không thể không
ghi nhớ và thực hành được.Vả chăng, trong sáu độ Ba la mật mà
chúng ta đã học trong ba bài kế tiếp này, mục đích cũng chỉ để
dẫn đến độ thứ sáu là trí huệ, cái mứ c độ cuối cùng của đạo
Giác ngộ và giải thoát.
- Cầu mong tất
cả quý vị Phật tử có được trí huệ để tự độ và tự tha đến bên kia
bờ giải thoát.
- Tổng Kết Về
Lục Ba La Mật
- Ðạo Phật là
đạo từ bi, mà cũng là đạo giác ngộ. Từ bi thuộc về phước, giác
ngộ thuộc về huệ. Phướv và Huệ là hai cánh làm cho con chim đại
bàng là hành giả làm bay thẳng đến bờ giải thoát. Do đó, trong
kinh thường nói: "Phước, Huệ song tu mới thành ngôi Chánh giác".
Trong sáu pháp Ba la mật, bố thí và nhẫn nhục thuộc về tu phước;
thiền định và trí huệ thuộc về tu huệ; còn trì giới và tinh tấn
là hai chất liệu có công dụng kiểm soát và đốc thúc cho việc tu
phước và huệ được thành tự hoàn toàn.
- Nếu chúng ta
đem so sánh một cách mộc mạc và đơn giản sáu pháp Ba la mật với
chiếc thuyền Bát nhã đưa người từ bờ mê đến bến giác, thì: Từ bi
là thức ăn, nhẫn nhục là nước uống, tinh tấn là cánh buồm và
chèo, trì giới là bánh lái, thiền định là la bàn và trí huệ là
đèn đuốc. Sáu thứ ấy đều cần thiết cho người thủy thủ sẽ gặp khó
khăn trong công cuộc hành trình vạn dặm của mình.
- Ðứng về một
khía cạnh khác để nhận xét giá trị của lục độ, chúng ta sẽ thấy
như thế này: Bố thí và nhẫn nhục thuộc về bi, thiền định và trí
huệ thuộc về Trí, còn trì giới và tinh tấn thuộc về Dũng. Một
Phật tử hoàn toàn phải có đủ ba phương tiện Bi, Trí, Dũng mới
mong điđến bờ giác ngộ một cách thông suốt và nhanh chóng.
- Vậy trông quí
vị Phật tử tại gia cũng như xuất gia, trong khi học và hành sáu
pháp Ba la mật, đừng nên xem thường một pháp nào. Có như thế mới
đủ phương tiện nà năng lực để tự đọ và độ tha, đến nơi cùng tột
và đúng với ý nghĩa Ba la mật.
--o0o--
|
|