-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Phật
Học Phổ Thông
- Khóa Thứ
Năm
-
Lịch Sử Truyền
Bá Phật Giáo,
10 Tông Phái và Vũ Trụ Nhơn Sanh
- --- o0o ---
- Bài Thứ 2
- Lịch Sử
Phật Giáo Trung Hoa
-
A. Mở Ðề
- Như chúng ta
đã biết qua trong bài học thứ nhất, cái của đạo Phật ở Ấn Ðộ,
trong khi trưởng thànhđã chia thành hai thân cây lớn,một thân
cây hướng về phía Nam, tức là Nam tôn Phật Giáo,trong thân cây
hướng về phía Bắc, tức là Bắc phương Phật Giáo.
- Nói đến Bắc Phương Phật Giáo,
thí quốc độ lớn nhất và có một ảnh hưởng quyết định đến những
nườc chung quanh là Trung hoa. Vậy muốn biết lịch sử truyền bá
Phật Giáo ở Bắc phương hay Ðại-thừa Phật Giáo, chúng ta không
thể không nguyên cứu sự phát-triển, sự thăng trầm của đạo Phật
Trung hoa, từ khi đạo Phật mớ du nhập vào cái khối người đông
đảo nhất thế giới này cho đến thời cận đại.
- Khi chúng ta
đã nhận thấy được những đường nét chính của lịch sử Phật Giáo
Trung hoa, thì chúng ta cũng sẽ có được một vài khái niệm và màu
sắc chính của đạo Phật ở Việt nam trong quá khứ:
-
B.- Chánh Ðề:
- I.- Thời Kỳ
Sơ Khởi
- Theo các sách
sử còn truyền lại, thì dân Trung hoa đã có nghe nói đến đạo Phật
lâu lắm và rải rác rong dân chúng ở phía Tây, đã có người đã
theo đạo Phật rồi. Hưng mãi đến đời nhà Ðông hán, niên hiệu Vĩnh
bình năm thứ mười (T.L67) Vua Minh Ðế sai các ông Vương Tuân,
Thái Hâm, cả thảy mười tám người qua nước Ðaị Nhuc Chi (môt
nươc1 ở phiá Tây, trên đường từ Ấn Ðộ sang Trung Quốc) để rước
Phật về thờ và có mời được hai vị sư là Ca-Diếp Ma Ðằng
(Kerssoapa Matanga) và Trúc Pháp Lan (Falan) qua Trung hoa. Vua
Han Minh Ðế truyền dựng chùa Bạch Mã để thờ Phật và cho hai Ngài
ở đó dịch kinh truyền Ðạo. Hai Ngài đã dịch kinh Tứ Thập Nhị
Chương và mười sáu quyển kinh khác. Phật Giáo được thừa nhận ở
Trung Quốc, được xây chùa, dịch kinh được bắt đầu từ đó. Dần dần
đạo Phật càng bành trướng và càc nhà truyền Ðạo từ Tây-vứt lục
đục kéo sang Trung Quốc, trong số đó có những bậc nổi tiếng nhất
là Ngài An Thế Cao, Chi Lâu Ca Sấm, Chi Diệu, Trúc Phật Sóc. Số
kinh chử Phạn dịch ra chử Hán trong thời kỳ sơ khởi này chúng đã
lên đến 300 quyển.
- II.- Những
Thời Kỳ Hưng Thịnh
- Trong khoảng
thời gian dài hơn hai ngàn năm từ khi bắt đầu du nhập vào Trung
hoa cho đến hiện đại đạo Phật đã nhiều lần không thành và suy
vong theo các thời đại. Cứ kể một cách tỷ mỷ sự hưng thịnh và
suy vong một cách liên tiếp ấy, thì viết không biết bao nhiêu
trang giấi mới xong, và độc giả cũng khó nhớ cho hết được. Vì
thế phải giúp trí nhớ cho quý vị chúng tôi chỉ nêu lên những
điểm chính, nổi bật nhất tronh lịch trình biến chuyển của Phật
Giáo Trung hoa. Trước tiên chúng tôi phải nêu những thời kỳ hưng
thịnh nhất, sau đò nêu những thời kỳ đen tối nhất, để quý vị có
một khái niệm khá rỏ rệt nhất về lịch sử truyền bá Phật Giáo
Trung hoa.
- Về sừ hưng
thịnh, chúng ta có thể ghi nhận bốn thời kỳ chíng sau đây:
- 1.- Thời kỳ
thứ nhứt. Từ Tam Quốc đến Tây Tấn (thế kỷ thứ III đến thế kỷ thứ
IV T.L). sau khi nhà Ðông Hán mất ngôi, nước Tàu bị chia làm ba
khối, tức là thời Tam Quốc: Ngụy, Thục, Ngô. Mặc dù phân chia
như thế, trong những nước ấy, từ vua chúa đến dân gian đều quy
ngưỡng theo đạo Phật, và mỗi nước đều có những vị cao tăng từ
Tây Vức sang truyền đạo: ở Ðông Ngô có Ngài Khương Tăng Hội, ở
Bắc Ngụy có Ngài Ðàm Ma Ca La; ở Tây Thục có Ngài Châu Tử Hàng
là một cao tăng Trung hoa, đã qua Tây Vức học chữ Phạn và tìm
nguyên bản kinh chữ Phạn để dịch lại, hầu làm giàu thêm cho ko
tàng kinh điển Trung hoa.
- Nhưng phải
đợi đến đời Tây Tấn, Phật Giáo Trung hoa mới thấy được cái vẽ
rực rỡ của thời kỳ thịnh phát thứ nhất. Năm 310 Tây lịch, dưới
đời nhà Tây Tấn, niên hiệu Vĩnh Gia một vị cao tăng từ Tây Vức
là Ngài Phật Ðộ Trừng sang thuyết pháp được nhân dân quy ngưỡng
có hàng vạn, người. Ngài đã đào tạo được một số đệ tử có tiếng
tăm như các Ngài: Ðạo An Pháp Hoa.
- Sau đó ít
lâu,Ngài Cưu-Ma-La-Thập tiếp nối sự nghiệp hoằng dương chính
pháp của các bật tiền bối và đã đưa đạo Phật Trung hoa đến một
địa vị vô cùng rực rỡ. Chính trong giai đoạn thứ nhất nầy, Trung
hoa bắt đầu có những tôn phái mới là Tam luận tôn và thành thật
tôn.
- 2.- Thơì kỳ
thứ hai. -Dưới thời Nam Bắc triều (thế kỷ thứ V đến đến thế kỷ
thứ VI ). Trong thời kỳ này nhiều vị cao tăng đã gây thêm uy thế
cho đạo Phật cả trong dân gian lẫn cả triều đình, như Ngài Hệ
Lâm được tham dự triều chính. Và đã nhiều ngài đã du nhập những
tôn phái từ ngoài vào, hay sáng lập thêm nhựng tôn phái mới. Như
ngài Bồ Dề Ðạt Ma đã từ Thiên Trúc sang truyền pháp Thiền Tôn,
và là vị tổ đầu tiên của phái nầy ở Trung hoa; Ngài Tam Tạng
Chơn Ðế dịch truyền luận Ðại-thừa Khởi tín, Ngài Ðàm Vô Sấm dịch
truyền Niết Ban Tôn, Ngài Nam Nhạc đại sư lập Thiên Thai Tôn. Ðó
là giai đoạn hưnh thịnh thứ hai của Phật Giáo Trung hoa.
- 3.-Thời kỳ
thứ ba.-Dưới đời nhà đường(thế kỷ thứ VII- IX )Vào khoảng đầu
thế kỷ thứ bảy, dưới đời vua Ðường Thái Tôn(ông vua thứ hai đời
đường),sau một thời gian bị phân tán vì giặc giã, đạo phập ở
Trung hoa bắt đầu thịnh phát lại. Vị cao tăng đã mở đầu cho giai
đoạn hưng thịnh nầy là Ngài Huyền-Trang, thường được gọi là
Ðường Tam-Tạng pháp sư. Nhận thấy kinh điển ở nước nhà hoặc bị
thiêu hủy thất lạc vì giặc giã, hay bị sai lạc nguyên bản vì
dịch sai hay chép lộn, Ngài Huyền-Trang tự phát đại nguyện sang
Ấn Ðộ, tìm học đạo với những bậc minh-sư, và đi chu du khắp Ấn
Ðộ. Sau 15 năm, Ngài trở về Trung hoa, đem rất nhiều kinh tạng
bằng Phạm-Văn và tổ chức cuộc phiên dịch sang Hán-Văn có trên
1.500 quyển. Vua Ðường Thái-Tôn rất quý trọng Ngài, truyền dựng
chùa Ðại-Từ-Ân để Ngài dịch kinh truyền đạo (1). Chính Ngài
Huyền-Trang và các đệ-tử của Ngài là những vị có công lớn trong
việc làm sáng tỏ giáo-lý pháp-tướng tôn ở Trung hoa.
- Ðộc giả muốn
tìm hiểu rõ-ràng công cuộc Tây-du và phiên dịch kinh tạng của
Ngài Huyền-Trang xin hãy tìm đọc hai tập Huyền-Trang của tác giả
Vỏ-Ðình-Cường do nhà Hưng-Ðạo xuất bản.
- Sau Ngài
Huyền-Trang , có Ngài Nghĩa-Tịnh cũng sang du lịch Ấn Ðộ bằng
đường biển và cũng thỉnh kinh đem về dịng được 60 bộ, tổng cộng
được 230 quyển.
- Từ đó, dưới thời Ðường, trừ một
vài vị Vua, còn hầu hết các vị khác, vị nào cũng ủng hộ, sùng
bái đạo Phật, và đạo Phật được thâm nhập một cách mạnh mẽ trong
dân gian. Xét trong bốn thời kỳ hưng thịnh, thì thời kỳ này là
thời kỳ hưng thịng lừng lẫy nhất của Phật Giáo Trung Hoa.
- 4.-thời kỳ
thứ tư.- Dưói đời nhà Minh. Từ khi nhà Ðường mất thien hạ, đến
nhà Minh, trải qua mấy trăm năm trước Trung Hoa tuần tự trải qua
các đời: Ngũ Ðại ( hậu Lương, hậu Ðường, hậu Tấn, hậu Hán, hậu
Chu ). Nhà Tống, rồi đến nhà Nguyên.
- Trong các đời
vua nầy, chỉ có nhà Tống là có thiện chí chấn-hưng Phật Giáo,
sau một giai đoạn điêu tàn vì chiến tranh và sự phá hủy chùa
chiền của vua Thế-Tôn nhà hậu Chu. Các vị vua nhà Tống đã sai sứ
sang Tây-Vức thỉnh kinh cầu danh Tăng, và sắc dịch kinh điển,
nên đạo Phật dần dần cũng được hồi phục, tuy có kém hơn trước.
- Nhưng phải
đợi đến đời vua Thái-Tổ nhà Minh ( Chu Nguyên Chương) đạo Phật
mới lấy lại được cái vẽ huy hoàng của những thời hưng thịnh
trước. Minh Thái-Tổ, nguyên lúc nhỏ là một vị Sa-Di, nên khi lên
ngôi, Ngài hết sức ủng hộ Phật Giáo.
- Ngài quy định phép tắc cho
tăng-lữ,đặt những ty Tăng-cang, Tăng-chánh, Tăng-hội để chưởng
lý các tăng-lữ.Ngài lại triệu tậpcác vị cao tăng ở Trường-Sơn để
kiểm duyệt kinh tạng.Các vị vua kế vị vua Minh Thái-Tôn, cũng
tiếp tục trùng hưng Phật Giáo, nhờ thế, đạo Phật ở Trung Hoa lại
thêm một lần nữa có sắc thái huy hoàng của thời xưa. Nhưng đó
cũng là thời kỳ hưng thịnh cuối cùng vậy.
- Thật thế, từ
khi nhà Minh mất ngôi, sang nhà Thanh, mặc dù các vua chúa củng
có ủng hộ Phật Giáo, nhưng trong nhân gian ít người hiểu thấu
đạo lý của Phật, mà chỉ nghĩ đến cúng cấp, mê tín, dị đoan thôi.
- Phải đợi đến
cuộc cách-mạng Tam-dân chủ-nghĩa (1912), đạo Phật mới trổi dậy
bằng hình thức nghiên cứu Phật học và sự thành lập các hội Phật
Giáo khắp trong nước. Nhưng đây lại thuộc vào thời kỳ cận đại và
hiện đại Phật Giáo, mà chúng ta sẽ nghiên cứu trong một bài sau.
- III.-Những
Thời Kỳ Suy Vong
- Như chúng ta
đã biết, cuộc đời đã là vô thường, thì không có một việc gì có
thể thoát ra ngoài cái luật chung ấy được. Ðạo Phật Trung Hoa đã
có thời cực thịnh, như chúng ta đã thấy ở trên, tất cũng có thời
kỳ suy vong mà chúng ta sắp đề cập sau đây.
- Nhà viết sử
Phật Giáo Trung Hoa, khi nói đến nhưnỵg thời kỳ suy vong của Ðạo
Phật thường tóm tắt trong một câu:"Tam Vỏ, nhất Tôn chi ách ".
Câu này muốn nói cái thời vận đen tối của đạo Phật, nằm trong ba
đời vua Võ 'Thái Hoa nhà Hậu Ngụy, Võ -Ðế nhà Bắc-Chu, Võ-Tôn
nhà Ðường ' và trong một đời vua Thế-Tôn nhà hậu Chu.
- Dưới đây,
chúng ta tuần tự nói đén bốn thời kỳ đen tối ấy:
- 1.- Thời kỳ
thứ nhứt.- Dưới đời hậu Ngụy Thái-Võ-Ðế ( 439-450 T.L). giữa
thời Nam Bắc triều ( 420-588 ) trong lúc đạo Phật đang thịnh
hành, vua chúa đang sùng mộ, giới tăng sĩ mỗi ngày một đông, thì
đến niên hiệu Thaí-Bình Chơn-Quân thứ bảy (446 T.L) vua hậu Ngụy
Thái-Võ-Ðế là một ông vua tàn bạo, nghe lời sàm tấu, tàn sát một
cách ghê ghớm các tăng lữ và phá hủy kinh tượng chùa tháp trong
nước. Nhưng vận mệnh của kẻ bạo tàn không thể lâu dài được, cho
nên bốn năm sau khi thi hành thủ đoạn tàn ác trên, Thái-Võ-Ðế từ
trần. Văn-thành vương lên nối ngôi, nhận thấy việc làm tàn ác,
vô lý và nguy hại trên, nên đã truyền phục hưng Phật Giáo, nhờ
đó đạo Phật dần dần lấy lại thanh-thế cũ.
- 2.- Thời kỳ
thứ hai:-Dưới đời bắc Chu Võ-Ðế ( 574 T.L). Ðến đời Võ-Ðế nhà
bắc Chu, Phật Giáo lại bị tai ách lần thứ hai. Vua ra sắc lệnh
bãi bỏ Phật Giáo, bắt các tăng-sĩ về làm dân, xung vào binh nội;
chùa chiền bị biến thành phủ đệ cho các vương hầu ở, dân chúng
bị ngăn cấm không cho thờ cúng Phật.
- Nhưng ít năm
sau, Võ-Ðế mất, Tuyên-đế nối ngôi, lại sắc chiếu phục hưng Phật
Giáo, truyền dịch kinh luận. Nhờ đó, đến đời Tùy, Phật Giáo mới
trở lại thạnh hành, vua quan đều quy-y Phật pháp.
- 3.- Thời kỳ
thứ ba. Dưới đời Võ-Tôn nhà Ðường ( 840-847 T.L ). Tai ách thứ
ba của Phật Giáo Trung Hoa xảy ra vào năm 845 T.L dưới đời
Võ-Tôn nhà Ðường.
- Như chúng ta
đã biết, đời Ðường là một giai đoạn cực thịnh của lịch sử Phật
Giáo Trung Hoa, các vua chúa đời này đều sùng thượng đạo Phật.
Nhưng đến đời Võ-Tôn là một ông vua sùng mộ Lão-giáo, nghe theo
các đạo sĩ xúi giục, đã thẳng tay đàn áp đạo Phật cũng như các
tôn giáo khác, bắt 265.000 tăng ni hoàn tục; những chuông thánh
bằng đồng đều bị tịch thu để đúc tiền.
- Nhưng có lẽ
các ông vua tàn ác không thể sống lâu, hai năm sau Võ-Ðế mất.
Vua Tuyên-Tôn lên ngôi, lại hạ sắc tu bổ chùa chiền, chánh hưng
Phật Giáo.
- 4.- Thời kỳ
thứ tư .- Dưới thời thế tôn nhà hậu chu ( khoảng giữa thế kỷ thứ
X). Sau khi nhà đường mất ngôi, nước Trung Hoa làm mồi cho sự
tranh giành xâu xé giữa các chư hầu, chiến tranh nỗi dậy khắp
nơi, đạo Phật cũng chịu nhiều ảnh hưởng tai hại lớn vì thời
cuộc. Thêm vào đó, còn có sự phá phách của một ông vua nhà
Hậu-Chu là vua Thế-Tôn.
- Thế-Tôn rất
ghét Phật Giáo, nên đã sắc chỉ phá hủy chùa chiền đến 30.336
ngôi, đem tượng đồng, chuông, khánh ra đúc tiền, các kinh tạng
đều bị thiêu hủy hay bị thất lạc gần hết. Trước tình trạng đen
tối ấy, đạo Phật Trung Hoa tưởng đến mất tích. Nhưng không ! Nhà
Tống sau khi bình được thiên hạ, đã ra sức chánh hưng đạo Phật
và sai sứ sang Tây-Vức thỉnh kinh và pháp sư về Trung Hoa
Hoằng-dương chánh-pháp.
- IV. Sáu Vị Tổ
Thiền Tông Trung Hoa
- Kể về các tôn
phái Phật Giáo ở Trung Hoa, thì thiền tôn thì phát-triển mạnh mẽ
và sâu rộng nhất. Ðiều đó củng không lấy làm lạ, vì thiền tôn
rất thích hợp với phần đông căn cơ người Trung Hoa và các vị tổ
của Thiền-Tôn là những vị thánh tăng rất được tín-đò sùng mộ.
Dười đây chúng ta hãy biết qua về các vị Tổ ấy: Vị Tổ Thiền-Tôn
truyền ở Trung Hoa đầu tiên là đức Bồ-Ðề Ðạt-Ma. Sau khi Ngài
được Tổ Bát-Nhã-Ða-La truyền tâm pháp và phú chúc Ngài sang
Trung Hoa truyền hóa vào đời vua lương Võ-Ðế ( 528 D.L). Ngài
ngồi xây vào mặt tường tham thiền luôn trong chính năm, tại chùa
Thiếu-Lâm. Ngài thị tịch tại chùa Thiên-Thánh ở vùng Vỏ-Môn, an
táng tại chùa núi Hùng-Nhỉ bên cạnh chùa Ðịnh-Lâm.
- Trươc khi thị
tịch, Tổ Ðạt-Ma có nói bài kệ để phú-chúc cho Ngài Huệ-Khả, tức
Thành-Quang, (Người đã chặt cánh tay để cầu pháp với Ngài
Ðạt-Ma). Bài kệ ấy như sau:
- Hán văn:
- Ngô bổn lai
tự độ
- Truyền pháp
độ mê tình
- Nhứt hoa khai
ngũ diệp
- Kết quả tự
nhiên thành
- Dịch nghĩa:
- Ta đến xứ
Trung Quốc
- Thuyết pháp
cứu mê tình
- Một bông nảy
năm cánh
- Kết quả tự
nhiên thành.
- Ngài Huệ Khả
kế thừa Ngài Ðạt Ma, làm tổ thứ hai, Ngài tăng Xán làm tổ thứ
ba, Ngài đạo tín là tổ thứ tư, Ngài Hoăng Nhẫn là tổ thứ năm và
Ngài Huệ-Năng là tổ thứ sáu, tức là tổ cuối cùng của phái Thiền
Tôn ở Trung Hoa.
-
C.- Kết Luận
- Sau khi đọc
lịch sử truyền bá Phật Giáo ở Trung Hoa, chúng ta có thể rút ra
một vài nhận xét bổ ích sau đây:
- 1.- đạo Phật
là một Tôn giáo ngoại lai, từ Ấn Ðộ truyền sang. Trong khi Phật
Giáo ở Ấn Ðộ mỗi ngày mỗi suy đồi, thì Phật Giáo ở Trung Hoa mỗi
ngày mỗi thêm thanh thế và cuối cùng chinh phục được hầu hết cả
một khối người đông đảo nhất trên thế giới. Vì sao? Có lẽ vì ở
Ấn Ðộ, các nhà lãnh đạo truyền giáo đã không biết thích nghi với
hoàn cảnh, với sự tiến triển của thế giới của thời thế, cứ giữ
chặt nếp sống cũ, trong khi ấy thì ở Trung Hoa, các nhà truyền
giáo đã hiểu rõ căn cơ của quần chúng, biết thích nghi với hoàn
cảnh và thời thế, luôn luôn phát huy những Tôn phái mới để đáp
ứng cho những nhu cầu tinh thần của những lớp người. Do đó mà
đạo Phật ở Trung Hoa không bị một tôn giáo nào lấn lướt được.
- 2.- Cũng như
ở Việt nam, các triều đại ở Trung Hoa khi mới lên ngôi, thì các
ông vua khai quốc bao giờ cũng sùng mộ đạo Phật và khuyến khích
sự truyền giáo, còn các ông vua cuối cùng, trái lại, thường hay
hủy phá đạo Phật, trước khi mất ngôi. Những sự kiện ấy cho phép
ta kết luận rằng: Các ông vua khai quốc phần nhiều những vị có
đức hạnh và sáng suốt nhận thấy cần phải chấn hưng Phật Giáo thì
dân chúng mới được thuần lương và nước nhà mới thịnh trị. Trái
lại, các ông vua cuối cùng phần nhiều là những hôn quân vô đạo,
nên đã hủy phá Phật pháp. Vì thế, nước đã loạn lại càng loạn
thêm và các ngai vàng của các ông cũng sụp đỗ theo với đà sụp đỗ
của các nước.
- 3.- đạo Phật
ở Trung Hoa có lúc thịnh và lúc suy. Trong sự tịnh suy ấy, công
và tội của các ông vua rất lớn, nhưng không phải là tất cả. Các
ông vua chỉ tăng cường thượng duyên, còn nguyên nhân chính, động
cơ chính vẫn là giới tín đồ và nhất là giới lãnh đạo Phật Giáo.
Khi mà tín đồ có đạo hạnh và lòng tin tưởng mạnh mẽ, các nhà
truyền giáo có nhãn quan sáng suốt, thì dù các ông vua có muốn
phá đạo cũng chỉ phá được một phần nào thôi. Cũng như khi mà tín
đồ thiều đạo hạnh và lòng tin, các vị lãnh đạo thiếu tinh thần
tiến thủ và sáng suốt, thì ông vua dù có muốn nâng đỡ đạo Phật,
cũng chỉ nâng đỡ một phần nào thôi.
- Cho nên, bao
giờ cũng thế, sự xây dựng hay sự phá hoại, trước tiên đều do ở
bên trong mà ra cả.
--o0o--
|
|