-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Phật
Học Phổ Thông
- Khóa Thứ
Năm
-
Lịch Sử Truyền
Bá Phật Giáo,
10 Tông Phái và Vũ Trụ Nhơn Sanh
- --- o0o ---
- Bài Thứ 5
- Phong Trào
Chấn Hưng Phật Giáo
Trên thế-giới và ở Việt-Nam hiện- đại
-
A.-Mở Ðề:
- Trong thế kỷ
thứ 18 và 19 ở Việt- Nam củng như ở các nước Phật Giáo khác , sự
truyền -bá đạo Phật hình như thiếu một luồng sinh khí mới, nên
cứ chìm dần, tưởng gần như sắp cáo chung. Nhất là khi Á -đông
mới bắt đầu tiếp xúc với cái văn -minh sống -động, rưc rỡ của
Tây- phương; các dân tộc Á- đông bị" mặc cảm tự ti", cho rằng
mình thua sút Tây -phuơng về mọi phương diện. Do đó, các dân
-tộc Á châu, nhất là các dân tộc đông đảo như Ấn Ðộ, Trung Hoa,
đều ruồng rẫy cái gia tài tinh -thần của ông cha, để theo học
đòi cái văn minh cơ khí, hùng mạnh của Tâyphương. Ðao Phật, cũng
như các tôn giáo khác ở Á -châu, chỉ còn lại hình thưc lễ bái cổ
truyền, còn lại, còn các phần tinh-hao quý báu của nó bị chôn
sâu trong lớp bụi quyên lãng của thời-gian.
- Nhưng sau cái
chóa mắt của những phút đầu tiếp-xúc với ánh sáng lạ, người
Á-Châu nhận thấy văn minh Âu-Tây chưa hẳn đã hoàn thiện. Những
nhà tư tưởng, triết-gia, lãnh đạo tôn-giáo đạo đức ...sau khi đã
đọc được phương pháp suy luận, phân tách, tìm tòi một cách có
khoa học của Tây-phương, đã quay về đào xới, khám phá cái
iga-tài tinh thần của ông cha để lại mà họ đã ruồng rẫy. Giúp
vào công việc ấy, có những nhà bác-học, khảo-cổ, nhân-chủng-học
đã tìm thấy được rất nhiều bằng chứng cụ thể nói lên giá trị
chân-chất của nền văn minh Á-đông mà Ðạo Phật đã động lực chính.
- Do đó Ðạo
Phật được đặc-biệt chú ý. Và càng đi sâu vào văn hóa Phật Giáo,
người ta (Âu-tây cũng như Á-đông) lại càng ngạc nhiên vì
tánh-chất thuần-thiện, cao khiết, trong sáng của nó. Từ đấy, một
luồng sinh khí mới thổi lên, đem lại cho người tín-đồ Phật Giáo
nhiều phấn-khởi và tinh tưởng ở giáo lý cao siêu của Ðức Bổn Sư
Thích-Ca. Luồng sinh-khí trên đã gây được một phong trào chấn
hưng Phật Giáo, mỗi ngày mỗi lan rộng, ban đầu ở các nước
Á-châu, và bây giờ ở khắp năm châu bốn biển. Trong cái bừng dậy
chung ấy, tín-đồ Việt-Nam cũng đã đóng góp một các xứng đáng cái
phần công đức của mình, và có thể tự hào rằng mình không quyên
sứ-mạng.
- Vậy dưới đây,
chúng ta hãy tuần tự điễm qua cái phong trào chấn-hưng ấy trên
các quốc gia Phật Giáo như thế nào, trước khi nái riêng về phong
trào chấn-hưng ở Việt-Nam trong hiện tại.
-
B.- Chánh Ðề:
- I.- Sự Chấn
Hưng Phật Giáo Ở Ấn độ Và Các nước Thuộc Khu Vực Ảnh Hưởng Ấn
- 1.- Phật Giáo
Ấn Ðộ .- Như chúng ta đã thấy trong đoạn nói về lịch sử truyền
bá đạo Phật tại Ấn Ðộ ở bài thứ nhất: mặc dù là xứ sở phát
nguyên Phật Giáo, Ấn Ðộ chỉ thấy được cái vẻ huy hòang của ánh
đạo vàng trong 15 thế kỷ đầu. Những thế kỷ về sau, Ðức Phật lu
mờ dần ở đây và nhường chỗ cho Ba-la-môn giáo và Hồi-giáo để lân
tràn ra lân bang.
- Vào thế kỷ
thứ 18, Ðức Phật ỏ Ấn Ðộ chỉ còn một vang bóng thới xưa. Nhưnh
khi người Anh bắt đầu đi sâu trong sự tìm hiểu nền văn hóa Ấn
Ðộ, và ngạc nhiên khi nhận thấy một nền văn chương, triết học
thâm thúy của Ðạo Phật đã bị chôn vui trong lãng quên, thì người
Anh cũng như người Ấn Ðộ đều đồng thanh hô hào và cổ xúy sự phục
hưng của Phật Giáo.
- Trong số
những học giả Phật Giáo đầu tiên đa ỵcó sáng kiến xây dựng phong
trào chấn hưng này, thì ông Rảyendachilala là người có công
nhất. tiên sinh đã căn cứ vào 144 lọai kinh chữ Phạn ở Népal để
viết ra cuốn "Văn chương Phật Giáo" bằng Phạn ngữ của Népal. Năm
1888, Tiên sinh lại cho xuất bản quyển "Tiểu phẩm Bác-nhã". Năm
1893,ông Sarat Chandrodas, một học giả Ấn Ðộ khác, lại đề xướng
lên hội"Nghiên-cứu Thánh-điển Phật Giáo Ấn Ðộ và nhân lọai học
thuật". Chính hội nghiên cứu này đã thu thập được một số đông
hội viên thông thái,gồm Ấn Ðộ lẫn Anh quốc và đã gây nên phong
trào tìm hiểu Phật Giáo trong nước và sang đến Anh quốc.
- Người có công
thứ ba, mà hiện nay Tổng hội Phật Giáo Quốc tế quyết nghị sẽ làm
lễ kỷ niệm đệ bách chu niên sanh nhật (17-9-64) khắp nơi trên
thế giới là Ðại đức Anagarica Dharmapala. Chính Ðại đức là người
sáng lập ra hội Ðai Bồ Ðề (Mahabodhi) là một đoàn thể rất có lực
lượng trong công cuộc vận động phục hưng Phật Giáo ở Ấn Ðộ ngày
nay. Sáng lập năm 1891, hội này dần dần có chi nhánh ở Âu Mỹ và
lăng bang Ấn Ðộ.
- Về công đức
của Ðại đức Dharmapala quyết nghị của đại hộ Phật Giáo Quốc tế
lần thứ VI tại Nam Vang đã ghi như sau:
- 'Ðại đức
Anagarica Dharmapala đã tiên phong hướng đạo phục hưng Phật Giáo
Ấn Ðộ, và củng là vị pháp sư đầu tiên tới thăm các nước Âu Châu
và Mỹ Châu. Nhờ con đường mà công trình hoằng pháp mới được vạch
rỏ tại các nước Âu Mỹ như chúng ta đã nhận thấy ngày nay...''
- Ðồng thời với
sự chấn hưng Phật Giáo ở Ấn Ðộ trong các nườc trước kia chịu ảnh
hưởng văn hóa Ấn Ðộ và nằm trong khối Tiểu-thừa Phật Giáo như
Tích Lan, Miến Ðiện, Thái Lan ...củng cá những luồng sinh khí
mới đem lại cho nền Phật Giáo cổ tryền một sắc thái mới mẻ,trong
sáng và hùng mạnh.
- 2.- Phật Giáo
Miến Ðiện. -Hiện nay ở Miến Ðiện Phật Giáo được xem là quốc
giáo. Từ 1948,sau khi thu hồi độc lập, chánh phủ Miến Ðiện và vị
thủ tướng (ông U Nu) là một Phật tử, nhiều kế hoạch dự trù chấn
hưng Phật Giáo đã được thực hiện. Chính phủ đã cho xây dựng khắp
nơi trong nước nhiều Phật học viện nhiều trường Trung, Ðại học
Pali, tổ chức những cuộc thi giáo-lý và triệu tập nhiều đại hội
Phật Giáo quan trọng .
- Năm 1954, đại hội tu chỉnh kinh
điển Phật Giáo lần thứ VI được tổ chức tại Miến với sự tham dự
của 2500 bậc danh tăng ở các nước Tích Lan, Cam Bốt, Ai Lao,
Thái Lan,Ấn Ðộ, Hồi Quốc...để tụng diệt lại tất cả những bản
kinh Pali. Ðây là một công tác trọng đại không riêng gì Phật
Giáo Miến Ðiện mà chung cho Phật Giáo Thế giới.
- 3.- Phật Giáo
Tích lan.Tích lan cũng là một xứ mà Ðạo Phật rất thạnh hành. Ðân
chúng hầu hết là Phật tử. Số tu sĩ trong nươc rất đông và có ảnh
hưởng rất lớn trong quần chúng cũng như trong chính quyền. Năm
năm sau trận chiến Thế giới chấm dứt 1950), cnhính Tích lan là
nước đứng ra triệu tập một đại hội Phật Giáo Thế giới gồm trên
500 đại biểu thuộc 26 quốc gia Phật Giáo tại thủ đô Cô Lôm Bô
(Colombo). Chính trong đại hội này, tổng hội Phật Giáo Thế giới
được thành lập, và một ban chấp hành đã được bầu cử, mà chủ tịch
là một vị học giả Phật tử Tích lan, Bác sỹ Malalasekera.
- 4.- Phật Giáo
Thái Lan.Cũng như Miến Ðiện, Phật Giáo Thái Lan được xem như
quốc giáo, vị Trưởng lão Tăng thống (vua Sãi) là người cá một
ảnh hưởng tinh thần và được tôn trọng hơn cả Quốc Vương.
- Hiện nay Thái
Lan có phỏng chừng trên 20000 ngôi chùa và 200000 tỳ kheo và
Sadi. So với hai mươi triệu dân Thái Lan, thì số tu sĩ như thế
củng là một tỷ lệ rất cao, cứ 100 người dân thì có một tu sĩ
- Nhưng cái đà
phát-triển vẫn đang còn mạnh, nhiều ngôi chùa đồ sộ đang được
xây cất và nhiều thanh niên đang theo tập môn tham thiền trong
các thiền viện. Hiện nay, Thủ tướng Thái Lan vừa ra một dự án và
đã được toàn thể nội các chấp thuận là thành lập những cơ sỡ
thích đáng dành cho các Tỳ kheo ngoại quốc để họ đủ phương tiện
đến tu học Phật pháp.
- 5.- Phật Giáo
Cam Bốt: Phật Giáo Cam Bốt từ xưa đã là môỵ quốc giáo. Từ kinh
đô cho đến thôn xóm hẻo lánh xa xôi, màu vàng của các ngôi chùa
và các tấm y của tu sĩ chói rực khắp nơi. Ðời sống đạo lý và đời
sống thường nhật của dân gian đã ăn nhịp một cách khăn khít.
Củng như ở Miến Ðiện,ở Thái Lan, ở Cam Bốt cứ mỗi năm vào đầu
mùa mưa, các thanh niên có lệ vào tu ở các ngôi chùa một thời
gian, dài hay ngắn tùy thuộc ý nguyện của mình,. Cái tục lệ quý
báu này, không chỉ có người thường dân thi hành mà ngay cả các
vị vua nữa.
- Từ ngày thu
hồi đọc lập, Chính phủ Cam Bốt đặc biệt chú tâm phát-triển và
chấn hưng Phật Giáo.
- Theo gót các
nước đàn anh Phật Giáo, Cam Bốt cũng vừa tổ chức tại Nam Vang
đại hội Phật Giáo Thế giới lần thứ VI và nhiều thành quả tốt đẹp
đã thu được trong kỳ đại hội này.
- Trên đây là
đại khái về phong trào chấn hưng và phát triển Phật Giáo ở các
phái theo Tiểu Thừa hay Nam tôn. Tiếp theo đâ, chúng ta sẽ nhận
xét phong trào chấn hưng và phát triển Phật Giáo ở các nước theo
Ðại Thừa hay Bắc tôn.
- II.- Sự Chấn
Hưng Phật Giáo Ở trung Hoa Và các Nước Lân Bang:
- 1.-Phong trào
chấn hưng Phật Giáo ở Trung Hoa:
- Như chúng ta
đã biết, vào cuối đời nhà Thanh, Phật Giáo ở Trung Hoa đã suy
đồi rất nhiều: Mê tín dị đoan đã thâm nhập một cách trầm trọng
vào các thiền môn. Tăng ni, cũng như tín đồ ít ai hiẻu rõ giáo
lý cao siêu của đức Phật, nên Phật Giáo cũng bị người ta liệt
vào hành các tà đạo có nguy hại cho đời sống xã hội quốc gia.
- Ảnh hưởng của
văn minh Tây âu bắc đầu vang dội trong nước. Một phong trào rọng
lớn bài trừ mê tín dị đoan nổi dậy trong tòan quốc. Các chùa
chiên phần nhiều bị đổi ra làm trường học hoặc các việc công ích
xã hội khác !
- May sao, một
số học giả Trung Hoa có tinh thần quốc gia, nhận thấy phải làm
một cuộc thnh lọc trong nền văn minh Ðông phương,để chọn những
cái hay thì giũ lại,và những cái dỡ thì bỏ đi. Sau cuộc tìm tòi,
tra cứu ấy, các nhà nghiên cứu đồng thanh tán dương giá trị chân
chính cao siêu của Phật Giáo.
- Từ khi cách
mạng Tân Hợi (1912) nổi lên lật đổ nhà Thanh và lập nên Dân
quốc, thì phong trào học và nghiên cứu Phật Giáo càng tăng. Nhờ
thế Phật Giáo trở nên thịnh hành và phát triển mạnh.
- Trong mấy năm
đầu của nền Dân quốc có Ngài Kỉnh Sơn cùng các đồng chí sa môn
và cư sĩ dứng lên sáng lập Trung quốc Phật Giáo Tổng hội. Các cư
sĩ ở Thượng Hải cũng lập Phật Giáo cư sĩ lâm, Phật Giáo tịnh
nghiệp xã.
- Về sau các vị
Tăng giàvà cư sĩ tiếp tục mở ra ở nhiều nơi những Phật học viện,
hay những giảng đường như: Giảng đường chùa quán tôn ở Ninh Ba
(Chiết Giang) do ngài Ðế Nhàn pháp sư chủ giảng; ở vũ xương (Hồ
Bắc) có Phật học viện do ngài Thái Hư Pháp sư chủ giảng; ở Giang
Tô có Hoa Nghiêm học viện, ở Nam Kinh có Nội học viện do Âu
Duơng Vĩnh Vô chủ giảng.
- Cùng một lần
với sự thành lập các Phật học đường nói trên, nhiều tạp chí Phật
Giáo của nhóm nghiên cứu đã được xuất bản ở khắp nước để hoằng
dương giáo nghĩa như Phật học tùng báo, Hải triều âm, Cư sĩ lâm
san, Tịnh nghiệp nguyệt san, Chi na nội học, Oai âm, Vi Diệu
Thanh, Phật Giáo Tân văn...
- Trong số các
vị đề xướng phong trào chấn hưng Phật Giáo ở Trung Hoa, người đã
có công đức và ảnh hưởng lớn nhất là Ngài Thái Hư pháp sư. Pháp
sư là một vị cao Tăng học rộng, hiểu nhièu và rất hăng hái với
các hoằng dương chánh pháp. Ngài đã đi giảng về Phật pháp khắp
nơi trng nước và sang tận Âu Mỹ để giới thiệu Ðại Thừa Phật Giáo
cho người Tây Phương. Ngài viết rất nhiều sách nói về đạo Phật
và đứng chủ trương tờ Hải triều âm là một tạp chí rất có giá
trị. Những họat động Phật sự của Ngài không những chỉ gây ảnh
hưởng lớn lao quý báu cho Phật Giáo Trung Hoa mà còn lan rộng ra
các nước lân bang như Việt-Nam, Nhật Bản và sang tận đến Âu Mỹ.
- 2.- Phật Giáo
ở Nhật Bản:
- Nhật Bản chịu
ảnh hưởng của Ðại-thừa Phật Giáo Trung Hoa truyền sang từ lâu
đời, và là nước có một nền Phật Giáo mạnh nhất trong các nước
theo Ðại-thừa. Ngọai trừ một số người theo đạo và Thiên Chúa
Giáo, còn đa số dân chúng đếu là Phật tử thuần thành. Chùa chiền
được các đời vua chúa trong quá khứ xây dựng rất nhiều khắp
trong nước, và ngày nay các thắng cảnh có tiếng nhất ở Nhật Bản
đều là những danh lam. Người Nhật lấy làm hãnh diện về kiến trúc
và vẽ đồ sộ của danh lam ấy lắm, cho nên người khách ngọai quốc
nào đến nước Nhật cũng được đem giới thiệu các cảnh chùa chiền
trước hết.
- Về phần giáo
lý thì Ðạo Phật ở Nhật cũng chia ra làm nhiều Tôn phái như ở
Trung Hoa. Nhưng các Tôn được thịnh hành nhứt là Thiên Tôn, Pháp
Hoa Tôn và Pháp Tướng Tôn .
- Ðạo Phật Nhật
Bản trong quá khư đã có một thành tích rất vẽ vang mà hiện nay
vẫn còn rực rỡ. Trong buổi giao thời tiếp xúc với Âu Tây, trong
khi Ðạo Phật ở các nước Á Ðông đều có một giai đoạn suy đồi, thì
Ðạo Phật ở Nhật Bản vẫn giữ đượcuy thế của mình trong toàn quốc.
Và ngày nay, với một tinh thần biết dung hòa cải tiến, biết tồn
cổ mà cũng biết nghinh tân, nên Ðạo Phật Nhật Bản vẫn đi theo
kịp cái đà tiến bộ chung của toàn quốc và giữ giềng mối cho luân
thường đạo đức ở trong nước. Chúng ta chắc rằng rồi đây, sau khi
các nước Phật Giáo ở Á Châu được dịp tiếp xúc và thông cảm với
nhau nhiều hơn nữa, thì Nhật Bản sẽ là nước xứng đáng đứng ra
lãnh nhiệm vụ lãnh đạo phong trào Phật Giáo Thế Giới.
- III.- Sự
Truyền Bá Phật Pháp Ở các Nước Châu Mỹ
- Từ khi tiếp
xúc với Á Châu, người Tây phương bắt đầu khảo cứu nền văn minh
cổ của châu này và khám phá ra rằng văn hóa Á Châu không phải
tầm thường như họ lầm tưởng lúc đầu, mà trái lại có nhiều điểm
quý giá cần học tập. Trong kho tàng quý báu ấy, Ðạo Phật đã phát
chiếu ra nhiều hào quang rực rỡ. Do đó, các học giả Tây phương
đã đổ xô sang nghiên cứu giáo-lý nhà Phật và đã viết rất nhiều
tác phẩm về đạc Phật. Dần dần Ðạo Phật không còn xa với quần
chúng Âu Mỹ nữa. Mở đầu phong trào học Phật là những học giả
người Anh, tiếp xúc nhiều với Á châu. Sau đó, họ thành lập những
hội Phật học và xuất bản những tạp chí nói về Phật pháp. Những
hội này có rất đông hội viên thực hành rất hăng hái . Hiện nay ở
Âu châu và Mỹ châu hầu hết các nướcđều có hội Phật- học, báo chí
truyền bá Phật -pháp, những chùa hay thiền- viện để các tín đồ
hay hội viên đến tập tham thiền. Có người sang ngay ở các nước
Phật Giáo Á châu như Ấn Ðộ, Tích lan, Thái -lan để xuất -gia cầu
đạo.
- Trong các đại
hội Phật Giáo thế giới Phật -tử Âu- Mỹ đều có đại diện của họ và
đã tỏ ra là những Phật -tử thuần -thành.
- Nhũng bằng
chứng cụ thể trên, cho phép chúng ta hy vọng rồi đây đạo Phật sẽ
bành trướng mạnh mẽ ở Âu -Mỹ và đem lại cho các dân tộc ấy một
nguồn an lac mà họ không tìm thây ở nền văn minh cơ khí họ đã
sáng tạo ra.
- IV.-Các Ðại
Hội Phật Giáo Thế Giới
- Nhân loại
càng tiến bộ, sự giao thông càng dễ dầng mau lẹ, thì các dân
-tộc trên thế giớ không còn lạ lùng xa caách với nhau nưã. Ðạo
Phậtngày nay đã thành một tôn giaó có tầm hoạt động khắp thế
giới, thì người Phật -tử, dù ở chân trời nào cũng vẫn là anh em
một nhà, cùng thờ môột bậc thầy chung là đức Bổn- Sư Thích -Ca
Mâu- Nhiều. Ýĩniệm thống nhất những hoạt động và những tổ chức
Phật Giáo đã manh nha từ trước trận thế chiến thứ II mới thực
hiện được.
- Ðại hội Phật
Giáo thế giới đầu tiên đã được triệu tập vào năm 1950 tại Cô-
Lôm -Bôm, kinh đô Tích -lan, gồm gần 500 đại biểu của 26 quốc
gia và tổ chức Phật Giáo trên thế giới> Ðại hội ấy đã đặt nền
tẳng cho tổng hội Phật Giáo thế giới và đã bầu ra một ban chấp
hành chung cho cả thế giới Phật Giáo. Một nội quy của tổng hội
đã được biểu quyết và trụ sở của văn phòng ban chấp hành đã đặt
ở Cô- lôm- bô. Sau đại hội vài tháng, bác sĩ Malaláekera chủ
tịch Tổng hội đã đi thăm các nước Phật Giáo hội viên, và hai tờ
tạp chí Phật Giáo của Tổng hội được phát hành trên thế giới là
tờ:New Letter và The Buddhist World.
- Từ đại hội
đâù tiên ấy đến nay, cứ hai năm lại có một đại hội khác, mà địa
điểm tuần tự thay đổi như sau:
- -Năm 1952,
đại hội kỳ II, họp tại Tokyo, kinh- đô nhật -bản , mà mục tiêu
chính là quyết-định thống nhất hoạt động và cac hình thưc Phật
Giáo trong các nước hội viên.
- Năm 1954, đại hội kỳ III họp tại
Rangoon, kinh đô Miến -Ðiện, cùng một lần với đại hội kết tập
Tam tạng kinh điển kỳ thứ VI, từ khi đức Phật nhập diệt đến nay.
- Năm 1956, đại
hội thứ IV họp tại Kathmandu , thủ đô Népal , nơi đức Phật đã
giáng sinh, nội dung của đại hội này là thảo luận về văn hoá
Phật Giáo: triết -lý, văn chương, nghệ -thuật..
- Năm 1958, đại
hội kỳ thứ V họpủ tại Bangkok, kinh đô Thái -lan, mà chương
trình nghị sự la ụduyệt lại bản nội quy của Tổng hội
- Năm 1961, đại
hội kỳ thư VI họp tại Nam -vang, kinh đô Cam- bốt. Trong đại hội
này, 21 quyết -nghị đã được chấp thuận, trong ấy có nhiều quyết
nghị rất quan trọng như vấn đề phát triển văn hòava giáo lý
trong các nước Phật Giáo, thành lập một học viện Phật GiáoÁ
châu, nhằm mục đích tương trợ, cung cấp tin tức và tài liệu,
huấn luyện cán bộ các nghành hoạt động của Phật Giáo bảo vệ hòa
bình thế giới và tín đồ Phật Giáo v.v..
- Ngoài những đại hội có tính cách
thường kỳ nói trên, các nước Phật Giáo Á châu còn thi nhau tổ
chức rất trọng thểvà có mời đại biểu quốc tế đến dự những lễ kỷ
niệm 2.500 năm đức Phật nhập niết bàn, như ở Ấn Ðộ, Nhật -bản,
Tích lan, Miến-Ðiện v.v..
- V.-Phong Trào
Chấn Hưng Phật Giáo Ở Việt Nam
- 1.-Sự phát
triển của phong- trào ở Nam, Trung, Bắc.- Noi gương thế giới, và
nhất là Trung -Quốc, một phong trào chấn hưng Phật Giáo đã nỗi
lên tại Việt nam vào khoảng năm 1920. Lúc đầu chỉ là những cố
gắng lẻ tẻ của một số quý vị Tăng già lão thành trong nước, mong
giữ lại một ít giềng mối của đạo.Ở Bắc có sư cụ Vĩnh Nghiêm(
Thanh Hạnh) sư cụ Tế Các (Phan Trung Thứ ) sư cụ Bằng Sở ( Dương
Văn Hiển ); ở trung có Ngài Tâm -Tịnh , Ngài Huệ Pháp, Ngài
Phước -Huệ; ở Nam có Ngài Khánh -Hòa, Ngài Huệ Quảng, Ngài Khánh
Anh, lại có sáng kiến mở trường dạy một số đệ tử với mục đích
gây giống đạo pháp cho thế hệ sau. Ðồng thời, các học giả có
tiếng tăm trong nước như ông Phạm Quỳnh, cụ Trần -Trọng -Kim
..cũng có viết nhiều bài nghiên cứu về giáo lý đạo Phật rất có
giá trị.
- Tuy nghiên,
phải đợi đến năm 1931, những cố gắng lẻ tẻ trên mới kết hợp
thành lực lượng có tổ chức. Ðầu tiên một hội Phật học được thành
lập tại Sài gòn lấy tên là Nam Kỳ nghiên cứu Phật học; kế đó là
hội Lưỡng Xuyên Phật học. Những vị có công khởi xướng cái tên
hội này là Khánh Hòa, Ngài Huệ Quang, Ngài Khánh Anh cùng một số
quý vị Tăng già và Cư sĩ tân tiến.
- Năm 1932, ở
Trung kỳ các Ngài Giác Tiên, Phước Huệ và một nhóm Cư sĩ Tân
Hồng mà đứng đầu là đạo hữu Tâm Minh Lê Ðình Thám đã thành lập
Phật học hội mà hội quán là chùa Từ Ðàm.
- Năm 1934, ở
Bắc kỳ có thượng tọa Tố Liên, thượng tọa Trí Hải, cụ Nguyễn Năng
Quốc, Trần Trọng Kim cùng một số quý vị Ðại đức và Cư sĩ lầp ra
Phật giáo Tổng Hội.
- Những hội trên đây đều có mục
đích và chương trình họat động giống nhau: Chỉnh đốn Thiền môn,
vãn hồi quy giới, đào tạo một thế hệ thanh niên tu sĩ chân
chính, hữu học và hoằng dương chính pháp.
- Ðể đạt được
mụch đích trên, các hội đều mở đạo trường cả. Ơí Bắc, có trường
Tăng học ở chùa Quán sứ, trường nhiều ở chùa Bồ đề; ở Trung có
Phật học viện chùa Tây Thiên và chùa Bảo Quốc, trường Ni ở chùa
Diệu Ðức; ở Nam có Phật hoc viện Lưỡng Xuyên (Trà Vinh) trường
Ni ở chùa Vĩnh Bửu (ở Thơm).
- Ngòai ra, các
hội còn xuất bản những tạp chí để hoằng dương Phật pháp, như tờ
Ðuốc Tuệ ở Bắc, tờ Viên âm ở Trung, tờ Pháp âm, tờ Từ bi âm, Duy
Tâm ở Nam. Những hội này được tín đồ nhiệt liệt hưởng ứng và
bành trướng rất mau lẹ, chẳng bao lâu mỗi tỉnh trong nước đều có
chi nhánh của hội. Nhờ sự hưởng ứng ấy mà các hội đã xây dựng
thêm cơ sở , mở mang thêm nhiều Phật học viện, xuất bản thêm
kinh sách, báo chí.
- Nhưng trong khi phong trào chấn
hưng Phật Giáo đang lên, thì trận thế chiến thứ 2 bùng nổ và
tiếp theo là trận chiến tranh Việt-Pháp làm gián đọan các sự
hoạt động của các hội Phật học trong nước.
- 2) Tổng hội
Phật Giáo Việt-Nam.
- Ðến năm 1948,
mặc dù chiến tranh Việt-Pháp chưa ngưng tiếng súng, nhưng vì
nóng lòng vì Ðạo pháp và để đem lại cho đồng bào một niềm an ủi
trong cảnh tang thương chết chốc do chiến tranh gây ra, những
nhà lãnh đạo Phật Giáo ở trong các vùng bị quân đội Pháp chiếm
đóng, tích cực hoạt động để chỉnh đốn để phát triển những cơ sở
của các hội đã bị chiến tranh tàn phá.
- Ở Hà Nội các thượng tọa Tố Liên,
Trí Hải với sự giúp đỡ của một nhóm cư sĩ tận tâm vì Ðạo, đã làm
sống dậy phong trào chấn hưng Phật Giáo và đem lại một sắc thái
mới, chú trọng nhiều về các công tác từ thiện và xã hội, như lập
cô nhi viện, tư thục, các cơ quan từ thiện cứu trợ nạn nhân
chiến tranh.
- Ở Huế cũng
vậy, quý vị Tăng già và một nhóm cư sĩ đã hợp tác chặt chẽ để
sữa sang lại các ngôi chùa đã bị đỗ nát vì chiến tranh, đứng lên
qui tụ những tín đồ và hội hữu đã tản mác vì thời cuộc, lập lại
các tỉnh hội, các khuôn hội Phật học và đặc biệt phát triển
nghành gia đình Phật tử là một tổ chức giáo dục thanh, thiếu
niên Phật tử, để làm hậu thuẩn cho Phật Giáo ngày mai...
- Ở Việt-Nam
các vị Tăng già và cư sĩ chung nhau thành lập hội Phật học
Việt-Nam. mặc dầu ở trong những hoàn cảnh cực kỳ khó khăn, các
hội nói trên đã phát triển một cách mau lẹ, mạnh mẽ và được sự
tín nhiệm của đồng bào nói chung, và nhất là của giới tín đồ
Phật tử nói riêng. Trong khoảng vài năm, các hội ấy đã xây dựng
thêm được nhiều hội quán, mở nhà in, phòng phát thuốc, thư viện,
phát hành các cơ quan ngôn luận, kinh dịch ...
- Ðồng thời với
các hội nói trên, các giáo hội Tăng già cũng tuần tự được tổ
chức có qui cũ, tập trung được nhiều vị tăng tài, có thực tu;
thực học và do đó đã gây được sự tín nhiệm lớn trong hàng Phật
tử và lấy lại cái địa vị và trọng trách lãnh đạo tín đồ mà đức
Phật đã giao phó.
- Các hội cư sĩ
và các Giáo hội Tăng già đã được chỉnh đốn và có thực lực ở Bắc,
Trung, Nam ba miền, nhưng chưa có cơ hội thuận tiện để thống
nhất ý chí và hành động, mặc dù ý niệm thống nhất đã manh nha từ
lâu trong đầu óc những nhà lãnh đạo Phật Giáo.
- Nhưng cái gì
phải đến, sẽ đến. Ngày 6-5-1951 một đại hội toàn quốc đã được
triệu tập tại chùa Từ Ðàm ở Huế, gần 51 đại biểu Tăng già và cư
sĩ của 6 tập đoàn ở ba miền (3 tập đoàn Tăng già và 3 tập đoàn
cư sĩ) để thành lập ''tổng hội Phật Giáo Việt-Nam '' và bầu ban
chấp hành Trung ương cho hội Phật Giáo toàn quốc, hay ban ''quản
trị Tổng hội Phật Giáo Việt-Nam ''.
- Hiện nay,
Tổng hội Phật Giáo Việt-Nam là đoàn thể quan trọng nhất ở
Việt-Nam có tổ chức chặt chẽ hơn hết, theo đúng tinh thần của
đạo Phật và qui tụ trên một triệu hội viên.
- Tổng hội Phật
Giáo Việt-Nam cũng là hội viên sáng lập của Tổng hội Phật Giáo
Thế giới, thành lập năm 1950 tại Columbo và đã cử đại biểu đi
tham dự tất cả các khóa họp của Tổng hội Phật Giáo Thế giới.
Tổng hội Phật Giáo Việt-Nam gồm các ngành hoạt động sau đây:
Hoằng Pháp, Giáo dục, Văn mỹ nghệ, Thanh niên, Nghi lễ, Từ thiện
xã hội...(1)
-
C.-Kết Luận:
- Từ thữa đức
Từ phụ nhập Niết bàn đến nay đã trên 25 thế kỷ rồi mà mặt trời
chánh pháp, mặc dù đôi khi bị đám mây đen lướt qua, nhưng vẫn
chiếu sáng toàn cõi đại địa. Riêng ở Việt-Nam đã được ánh sáng
ấy chiếu đến gần 20 thế kỷ. Trong lịch sử Việt-Nam, những giai
đoạn Phật Giáo thịnh hành là quốc gia được tự chủ, độc lập và
hùng cường. Ngày này Phật Giáo Việt-Nam đã được phục hưng, ánh
lại rực rỡ thêm. Ðây là tin lành báo trước cho dân tộc Việt-Nam.
- Chúng ta tin
chắc với cái đà tiến triển như hiện nay, phong trào Phật GiáoThế
giới nói chung và Phật Giáo Việt-Nam nói riêng sẽ còn dâng cao,
bủa rộng hơn nữa. Chúng ta có đủ lý do để tin tưởng như vậy, vì
Phật Giáo không trái với khoa học ngày nay, mà còn là một nguồn
an ủi, một suối yêu thương rất cần thiết cho nhân loại.
- -------------
- (1):Tập sách này soạn trước khi
Giáo hội Phật Giáo Việt-Nam thống nhất ra đời
--o0o--
|
|