-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Phật
Học Phổ Thông
- Khóa Thứ
Năm
-
Lịch Sử Truyền
Bá Phật Giáo,
10 Tông Phái và Vũ Trụ Nhơn Sanh
- --- o0o ---
- Bài Thứ 6
- Mười Tông
Phái Phật Giáo Ở Trung Hoa
- Không phải
riêng gì Ðạo Phật, tất cả các tôn giáo lớn trên thế giới, theo
với thời gian và sự phát-triển, đều có chia ra nhiều tôn phái.
Sự phân phái ấy là một lẽ đương nhiên phải có để cho các căn cơ
và hòan cảnh khác nhau đều có thể thích hợp được. Nếu không, thì
đạo không thể phát-triển được về bề sâu cũng như bề rộng. Hơn
một tôn giáo nào cả, Ðạo Phật không có những giáo điều thần
khải, không có một tinh thần rắn chắc, gò bó trong những hình
thức hẹp hòi, câu nệ, mà trái lại, rất phóng khóang, tự do, dễ
khoan hòa, dung hiệp, nên Ðạo Phật đi đến đâu cũng có thể
phát-triển đúng theo căn cơ và hòan cảnh riêng biệt ở địa phương
ấy. Do đó, mà Ðạo Phật có rất nhiều màu sắc riêng biệt khi lan
tràn trên các nước.
- Riêng ở Trung
Hoa, Ðạo Phật đã có chia mười tôn phái. Trong mỗi tôn phái đều
có đặc điểm riêng, nhưng không bao giờ vượt ra ngòai giáo pháp
của Phật cả. Những tôn phái này cũng như những con đường khác
nhau,có đường thẳng đường cong,đường cao đường thấp, đường rộủng
đường hẹp, nhưng con đường nào cũng đưa đến một mục đích chung
cả. Hành giả tùy theo trình độ, trí thức, khả năng, sở thích
riêng mà lựa chọn con đường nào thích hợp với mình nhất để tu
tập. Có như thế thì sự tu hành mới chóng có kết quả.
- Mười tôn phái
ở Trung Hoa là: Luật tôn, Tịnh độ tôn, Thiền tôn, Pháp tướng
tôn, Mật tôn, Thiên thai tôn, Hoa nghiêm tôn, Tam luận tôn, Câu
xá tôn và Thành thật tôn.
- Trong 10 này, Câu xá tôn và
Thành thật tôn chủ trương về Tiểu Thừa; Luật tôn và Thiền tôn
thông cả Ðại và Tiểu Thừa, còn 6 tôn kia thuộc về Ðại Thừa.
- Nghĩa lý của
các tôn rất mầu nhiệm kinh điển cũng rất nhiều, muốn hiểu cho
thấu đáo, cần phải chuyên môn nghiên cứu, công phu trong nhiều
năm.trong phạm vi của khóa Phật học phổ thông này, chúng ta
không thể đi sâu vào mỗi tôn được. Ơí đây, chúng ta chỉ nên biết
qua đại khái về giáo lý và làm quen với danh từ các tôn ấy, để
có chổ nhập môn mà thôi. Sau này, khi học cao hơn,chúng ta sẽ đi
sâu vào từng tôn phái một và sẽ tùy theo căn cơ sở thích của
mình mà lựa một trong những tôn ấy để tu hành.
- I.- Luật Tông
- I.- Duyên
Khởi Lập Tông
- Tôn này dùng
luật làm chỗ căn cứ nên gọi là Lụât tôn. Ðức Phật khi còn tại
thế, tùy căn cơ, tùy hòan cảnh mà chế ra nhiều lọai giới luật để
răn dạy đệ tử, hóa độ chúng sinh. Sau khi Ngài nhập Niết bàn,
các đệ tử của Ngài,như Ngài Ưu-Ba-Li là vị tinh thông về giới
luật đứng trên pháp tọa trong kỳ kết tập kinh điển lần thứ nhất,
đã tụng đọc lại những giới luận mà Ðức Phật đã chế ra. Lần kết
tập này chưa biên chép thành kinh điển, nên Ngài Ưu-Ba-Li phải
đọc đi đọc lại đến 80 lần, đến nỗi mỗi người trong hội đều thuộc
lòng. Do đó, mới có tên là"Bát thập tụng luận ". Về sau,tuần tự
theo thời gian, nguyên thủy Phật giáo lần hồi chia ra làm nhiều
nhánh, hay bộ phái. Mỗi bộ phái đều theo một bộ lụât riêng.
Trong số các bộ luật này, bộ được nói đến và áp dụng nhiều nhất
là các bộ: Thập tụng, Tứ phần, Tăng kỳ, Ngũ phần.
- Những bộ luật
này được truyền sang Trung Hoa và được phiên dịch ra Hán văn.
Ðến đời Ðường, Ngài Trí Thủ luật sư chú giải các bộ ấy, và đệ tử
của Ngài là Ðạo Tuyên luật sư, nhận thấy trong các bộ ấy,bộ luật
Tứ phầìn làthích hợp căn cơ người Trung Hoa, nên đã căn cứ vào
luật này để lập ra Luật tôn.Ngài Ðạo Tuyên là người ở Chung nam
sơn, nên người đời gọi tôn này là " Chung nam sơn" để phân biệt
với các Luật tôn khác, như của các Ngài Pháp Lệ bên phái Hữu
tướng bộ,hay Ngài Hoài Tố ở Ðông pháp.
- Trong các Tôn này, chỉ có Luật
tôn của Ngài Chung nam sơn là thịnh hành hơn hết và được truyền
bá cho đến bây giờ, vì nó trung hòa cả Ðại Thưà lẫn Tiểu Thừa.
- II.-Tôn Chỉ
Và Ðặc Ðiểm Của Luật Tông
- Phàm một tổ
chức, một công viếc gì đúng đắn cũng đều phải tuân theo những
quy luật nhất định. Hơn tất cả, sự tu hành lại càng phải tuân
theo những giới luật nghiêm minh. Như chúng ta đã biết trong
phần giáo lý căn bản, nghiệp là động lực chính của vũ trụ nhân
sinh.Nghiệp định đoạt tất cả đời sống chúng ta. Nghiệp có ba
loại: Nghiệp của hành động, nghiệp của lời nói và nghiệp của ý
nghĩ. Nếu những nghiệp ấy được thanh tịnh, không tạo ra các điều
ác, thì ta không thọ quả báo sinh tử luân hồi. Không có quả báo
sinh tử luân hồi thì tất nhiên là được giải thoát. Muốn các
nghiệp được thanh tịnh thì ta phải giữ gìn giới luật, chính là
một phương pháp tu hành trong nhiều phương pháp mà Phật đã chia
ra. Phương pháp này rất thiết thực và rất hiệu nghiệm đối với
Phật tủ chung ta:
- -Giữ giớ
không sát nhơn hại vật, hiện người không làm người hung dữ, khỏi
bị tù tội, về sau khỏi bị đọa trong ba đường dữ là địa ngục, ngạ
quỷ,súc sinh, và khỏi bị người giết haị, đó là tu.
- -Giữ giới
khong trộm cướp thì hiện thời làm người lương thiện khỏi bị giam
cầm siềng xích, đời sau không mắc quả báo,bị người giựt của cướp
nhà, đó là tu.
- -Giữ giới
không tà dâm, hiện thời thành người tốt, gia đình mình và người
không bị rầy rà, đánh đập, khổ sở vì ghen tương, đó là tu.
- -Giữ giới
không nói dối, không nói láo xược, thèo lẽo, thêm bớt, đâm thọc,
không nói hung ác và thô tục, thì không bị người khinh khi, lại
được sự kính trọng, đó là tu.
- -Giữ giới
kghông cờ bạc, hút xách, rượu chè, thì khỏi mất tiền, thiếu nợ,
khỏi say sưa, làm điều tội lo0õi và khỏi bị người khinh bỉ, trí
tuệ tăng trưởng, đo là tu.
- Nói một cách
tổng quát, giữ một giới là ngăn ngừa được một điều tội lỗi,và
thêm được một điều lành; giữ nhiều giớ là ngăn ngừa được nhiều
điều tội lỗi và thêm được nhiều điều lành. Bởi thế, nên giữ giới
luật làphương pháp tu không xa thực tế và rất cần thiết cho các
Phật tử cầu đạo giải thoát.
- Nhờ giữ "giới
luật" không làm các việc tội lỗi, nên tâm được "định"; do tâm
định nên phát ra"trí huệ sáng suốt". Nhờ có trí huệ sáng suốt
nên phá trừ được vô minh si ám, và được minh tâm kiến tâm thành
Phật.
- Người tu tại
gia có giữ giới, mới thành Phật tử chơn chính. Người xuất gia
thọ Sa-di,có giữ giới mới phải là chơn tu. Thầy Tỳ-kheo có giữ
giới mới phải là Tỳ-kheo thanh tịnh. Bồ Tát có giữ giới mới phải
là chơn Bồ Tát. Bởi thế nên trong ba món vô-lậu học
(giới,định,huệ ), "giới" đứng đầu tất cả.
- Tôn này sỡ dĩ lập ra là nhằm vào
lợi ích thiết thực và chín chắn của giới luật, như đã trình bày
ở trên.
- III.- Các
Loại Giới Luật
- Giới luật có
nhiều lọai từng bậc,tùy theo căn cơ, tùy theo giới tu sĩ, tùy
theo sự phát nguyện của kẻ tu hành mà áp dụng. Nhưng nói một
cách tổng quát thì giới luật có thể phân chia làm hai lọai lớn
là: Giới lụât của Ðại Thưà và giới luật của Tiểu Thừa.
- -Những giới
luật nào có tánh cách tiêu cực, tự lợi, chỉ có mục đích chính là
tránh tội lỗi cho riêng mình là thuộc về giới Tiểu Thừa. Tất
nhiên trong khi giữ giới cho riêng mình, thì người khác cũng
được lợi như giữ giới không trộm cướp, thì mình được lợi là kềm
giữ lòng tham,mà người khác cũng đượclợi là khỏi phải bịcái khổ
vì tiếc của đã mất. Mặc dù thế, giới không trộm cướp cũng chỉ
liệt vào giới Tiểu-thừa, vì trong khigiữ giới, mục đích chính,
trực tiếp là giữ cho mình; còn cái lợi cho người chỉ ảnh hưởng
gián tiếp của giới ấy. Những giới như: Ngũ giới (5 giới do Phật
chế cho người tại-gia), Bát-quan-trai giới (8 giới Phật chế cho
người tại gia-tập sống như người xuất gia), Sang-di giớivà
Sang-di-nhiều giới (10 giới Phật chế cho người mới xuất gia),
Thức-xoa (6 điều nữ học giới), Tỳ-kheo giới (250 giới), và
Tỳ-kheo0nhiều giới (348 giới) là những giới thuộc về phái
Tiểu-thừa.
- Những giới
luật nào có tánh cách tích cực, nhám vào mục đích lợi tha hơn tự
lợi tì thuộc về Ðại-thừa giớ. Những giới thuộc về Ðại-thừa giới
như 10 giới trong 48 giới khinh của Bồ Tát, Tam-tụ tịnh giới
(gồm có: Nhiếp-luật-nghi giới là giới không làm việc ác,
Nhiếp-Thiện-Pháp giới là giới làm việc lành, Nhiêu-ích hữu-tình
giới là giới làm ích lợi cho chúng sanh, như làm các việc có
tánh cách từ thiện xã hội v.v..).
- Nếu đứng về
phương diện hành trì mà phân loại, giới-luật có thể chia làm hai
phần lớn: một phần thuộc về chỉ trì, nghĩa là ngăn đứt ác
nghiệp, một phần thuộc về tác trì, tức hành động theo
thiện-nghiệp.
- 1.-Về chỉ
trì: có hai bộ giới bổn:
- a.-Tỳ-kheo
giới bổn, gồm có 250 giới, chia làm 8 loại là: 1.- Ba-la-di (4
giới), 2.-Tăng-tàng (13 giới), 3.-Bất-định (2 giới), 4.- Xã-đọa
(30 giới), 5.- Ðơn-đọa (90 giới), 6.- Ðề-xà-nhiều (4 giới), 7.-
Chúng-học (100 giới), 8.- Diệt-tránh (7 giới). Hai trăm năm mươi
giới này có thể chia làm tám loại (ngũ thiên), sáu loại (lục tụ)
hay bảy loại (thất tụ).
-
b.-Tỳ-kheo-nhiều giới bổn (giới của Tỳ-kheo-nhiều gồm có 348
giới, chia làm 7 loại là:
- 1.-Ba-la-di (8 giới), 2.-
Tăng-tàn (17 giới), 3.-Xả-đọa (30 giới), 4.-Ðơn-đọa (178 giới),
5.-Ðề-xà-nhiều (8 giới ), 6.-Chúng-học (100 giới), 7.-Diệt-tránh
(7 giới). Ba trăm mươi bốn tám giới này, có thể chia là bảy loại
như trên, nhưng củng có thể làm tùy nghi chia làm năm loại, sáu
loại ,bảy loại như bên tăng (1).
- Giới Tỳ-kheo
và Tỳ-kheo-nhiều trên này gọi là Cụ-túc giới, nghĩa là những
giới đem lại cho người thọ vô lượng giới-hạnh, phước đức. Nhưng
250 hay 348 giới, chưa phải là nhiều. Ðó chỉ là giới tóm thâu
những giới-luật chính, làm giềng-mối cho sự trì phạm mà thôi.
Nếu kể cho hết giới-luật thì về "lượng" sánh đồng hư-không, về
"cảnh" lại nan khắp cả pháp-giới. Nếu kể về bậc trung, thì bên
tăng có đến 3.000 oai nghi, 80.000 tế-hạnh; bên Ni có đến 80.000
oai-nghi và 120.000 tế-hạnh.
- Vì sao Phật
lập ra nhiều giới-luật như thế?
- - Vì mỗi một
giới là ngăn ngừa tội lỗi, mà con người chúng ta là phàm phu, từ
tâm niệm cho đến hành vi, có không biết bao nhiêu điều tội lỗi,
nên phải có vô số giới luật để ngăn ngừa.
- 2.- Về tác
trì, gồm có 20 kiền-độ.
- Kiền độ nghĩa
là phẩm loại, điều luật (Khanda).
- 20 Kiền độ
là:
- Thọ giới Kiền
độ
- Thuyết giới
Kiền độ
- An cư Kiền độ
- Tứ tự Kiền
độ...
- Sự chia ra
chủ trì và tác trì là cốt lõi dễ phân biệt trong khi giữ giới,
chứ thật ra nói một cách rốt ráo thì trong ''chỉ'' có ''tác'',
trong ''tác'' có ''chỉ'', không thể nói một cách dứt khoát được.
- (1) Chúng tôi
chỉ giới thiệu những danh từ của các giới luật tăng, ni chứ
không nói rõ hơn, vì theo luật Phật, người thọ giới ở cấp bực
nào thì chỉ biết giới luật của cấp ấy mà thôi.
- IV.-Các Danh
Từ Và Phương Pháp Thực hành
- Như chúng ta
đã thấy ở trên, giới-luật của Phật chế ra rất nhiều; do đó, danh
từ chuyên môn và cách thức giữ giới cũng rất phức tạp. Vậy muốn
giữ giới được kết quả, trước tiên phải biết những điều sau đây:
- 1.-Sao gọi là
''danh, chủng, tánh, tướng''?.
- a.-Danh là
tên (danh từ) nghĩa là tên chỉ mỗi giới, như giới bất sát sinh,
giới bất thâu đạo.v.v...
- b.- Chủng là
chủng loại, hay nhóm; như chúng ta đã thấy ở phần chia các giới
của Tăng, Ni: Ba-la-di, Tăng tàng.v.v..
- c.-Tánh là
tâm tánh, là tánh chất ở bên trong; như người giữ giới, trong
tâm niệm không nghĩ tưởng đến việc sát, đạo, dâm, vọng.v.v..
hoặc thấy người phạm giới cũng không sanh tâm vui mừng hay liên
tưởng đến. Giữ gìn tâm tánh ở bên trong được thanh tịnh như vậy,
gọi là ''giới tánh''.
- d.- Tướng là
hình tướng ở bên ngoài; như bên trong đã không nghĩ đến sát
sanh, trộm cướp (tánh giới) .v.v.. mà bên ngoài cũng không làm
những điều ác ấy, gọi là ''giới tướng''.
- Tóm lại, mỗi
khi phạm một điều tội lỗi, người giữ giới phải biết tội ấy là gì
(danh), sát hay đạo .v.v..? thuộc về loại nào (chủng), Ba-la-di
hay Tăng tàng.v.v..? thuộc về nội tâm (tánh) hay ngoài thân
(tướng)? Và cuối cùng hành giả phải biết tôi ấy, theo luật phải
trị phạt thế nào mới được thanh tịnh?
- 2.- Sao gọi
là '' khai, giá, trì, phạm ''?
- a.- Khai là
mở, cho làm.
- b.- Giá là
cấm, không cho làm.
- Như khi Phật
còn tái thế, Ngài cấm các vị Tỳ Kheo leo lên cây, đó là ''Giá" .
nhưng về sau cóvị Tỳ Kheo đi vào rừng, bị ác thú rượt, Ngài
không dám leo lên cây để tránh, vì sợ phạm giới, và cuối cùng bị
ác thú hại. Từ đó, Phật dạy: ''nếu có duyên sự thì được leo
cây'', như thế gọi là ''Khai''.
- Một thí dụ
thứ 2: người Phật tử phải giữ giới không uống rượu. Ðó là
''Giá''. Nhưng khi bị bịnh nặng, nếu cần rượu để hòa với thuốc,
uống mới lành bệnh, thì tạm được dùng. Ðó là ''Khai''. Nhưng
trước khi uống, phải bạch với chư tăng.
- c.- Trì là
giữ gìn; như khi đã thọ giới rồi mà giữ gìn cho được thanh tịnh
thì gọi là ''Trì''.
-
d.- Phạm là vi phạm; như đã thọ giới rồi mà không giữ gìn giới
thì gọi là ''Phạm''.
- Tóm lại, trong khi tu hành giữ
giới-luật, hành giả luôn luôn quan sát mỗi hành vi hàng ngày của
mình xét xem một cách sáng suốt, thế nào là ''Trì'', thế nào là
''Phạm''; trong trường hợp nào, và giới nào được ''Khai''; Trong
trường hợp nào, và giới nào không được ''Khai''.v.v.. nói một
cách tổng quát khi đã thọ giới rồi thì phải ''Trì''. Nếu không
''Trì'' mà ''Phạm''. Tuy thế nếu vì lòng từ bi, vì lợi ích
chung, hay vì trí huệ thúc đẩy, thì có thể ''Khai'' mà không
phạm tội. Nhưng nếu vì tâm nhiểm ô, vì phiền nảo thúc đẩy mà
''Khai'' là ''Phạm''.
- 3.-Sao gọi là
''chỉ trì, tác phạm và tác trì chỉ phạm''?
- a.- Chỉ trì
là nói về phương diện các điều ác, quyết giũ gìn không gây tội
lỗi.
- b.- Tác phạm
là nói về phương diện các điều ác, đáng lẽ phải giữ gìn, mà lại
không giữ được, cho nên phải phạm tội lỗi.
- c.- Tác trì
là nói về phương diện các điều thiện, cần phải làm, là phạm
giới.
- d.- Chỉ phạm
là nói về phương diện các điều thiện, nếu đình chỉ không làm, là
phạm giới.
- Thí dụ: về
tội ăn trộm, nếu không làm là chỉ trì, nếu làm tác phạm. Trái
lại, về hạnh bố thí, nếu làm là tác trì, nếu không làm là chỉ
phạm.
- 4.- Sao gọi
là '' tánh tội và giá tội, hay tánh giới và giá giới''?.
- a). Tánh tội
là tội sẳn có trong bảng tấn chúng sanh, như sát, đạo, dâm,
vọng. Bốn tánh này có sẳn trong tâm tánh chúnh sanh từ vô thỉ
đến nay, hể có chúng sanh lá có chúng nó. Mỗi người, không cần
ai dạy bảo, không cần học tập, mà ai cũng đều biết sát, đạo,
dâm, vọng. Vì thế cho nên gọi là tánh tội.
- b). Giá tội
là tội không sẵn có trong bản tấn nhưng do hoàn cảnh, do tập
nhiễm mà phát sinh; như tội uống rượu chẳng hạn. Nói một cách
tổng quát, ngoài bốn tánh tội là sát, đạo, dâm, vọng, còn bao
nhiêu tội khác là giá tội cả.
- c). Tánh giới
là để ngăn ngừa bốn tánh tội là sát, đạo, dâm, vọng. Giới này
rất quan trọng, nhưng củng rất khó giữ. Giữ được bốn giới này
thì sư tu hành tất sẽ kết quả và con đường giải thoát chắc chắn
sẽ chờ đón hành giả.
- d). Giá giới
là giới để ngăn ngừa tội lỗi do hoàn cảnh là huân tập mà phát
sinh. Những giới này ít quan trọng hơn tánh giới nói trên. Nhưng
muốn giữ được tánh giới một cách ít khó khăn, phải cần giữ giá
giới. Như người muốn đốn cây lớn, trước tien phải chặt ngành
ngọn; như người dùng binh giỏi, trước khi muốn chiếm một đô thị
lớn, phải ngăn chặn các con đường đi vào đo thị ấy.
- V.-Kết Luận
- Như chúng ta
đã rỏ, mục đích của gióa pháp mà Ðứủc Phật chỉ bày cho chúng ta
là để được minh tâm, kiến tánh, và thành Phật. Tất cả các tôn
phái, mặc dù có chủ trương và đặc điểm khác nhau, nhưng mục dích
cuối cùng đều là một: Giác-ngộ và thành Phật.
- Luật tôn củng không đi ra ngoài
mục đích trên, mặc dù phương pháp có khác phần nhiều các tôn
khác thì phải hiểu rồi mới tu; Luật tôn trái lại chủ trương; hãy
tu đi rồi sẽ hiểu, hảy giữ gìn giới luật phải nghiêm chỉnh, thì
tâm sẽ định tĩnh, thanh tịnh; tâm đa thanh tịnh thì trí huệ sẽ
sáng suốt, chân tâm sẽ hiện bày, Phật tánh sẽ phát lộ.
- Thật là một
chủ trương rất thiết thực, mà kết quả lại chắc-chắn ! những kẻ
học rộng biết nhiều mà không giữ giới củng chẳng khác gì trước
gió, có thể sáng lắm, nhưng không biết sẽ tắt khi nào. Trái lại
kẽ học ít biết hẹp mà giữ giới một cách chân thần, thì củng như
ngọn đèn có ống khói, khi mới thắp thì lu, nhưng không tắt thì
càng cháy lâu cáng sáng tỏ.
- Vì những lí
lẽ trình bày ở trên, Luật tôn đều phải thích hợp với mọi căn cơ,
nhất là với những căn cơ chậm lụt. Ơí đời chúng ta thường thấy
phần nhiều những người có căn trí lanh lẹ, hiểu nhanh biết lẹ,
nhưng vì hay ỷ sức mình , không chịu đặt mình vào khuôn phép kỷ
luật, nên cuối cùng, chẳng thu hoạch được kết quả gì tốt đẹp cả.
Trái lại, những kẻ có căn trí tầm thường, nhiều khi chậm lụt nữa
, nhưng lại dễ thành công trên đường đời củng như trên đường
đạo, vì họ biết thủ phận chịu khó khép mình vào kỷ luật, không
tự mãn, tự cao. Những đệ tử của Phật, có ai có một địa vị xã hội
hà tiện (đi gánh phân ) và một căn trí thấp thỏi như Ngài
Ưu-Ba-Li !Thế mà Ngài Ưu-Ba-Li lại trở thành một đệ tử của Phật,
đã thành một bậc hiền thánh, chỉ vì đã nghiêm trì giới luật! Ch
úng ta đây, địa vị xã hội và căn trí chắc chắn không kém
Ưu-Ba-Li, lẻ nào chúng ta không thu hoạch được thành quả tốt đệp
như Ngài , nếu chúng ta củng tập nghiêm trì giới-luật như Ngài
.
- 2.-Tịnh Ðộ
Tông
- Tôn này thuộc
về Ðại- thừa, chủ trương dạy người chuyên tâm niệm Phật đẻ được
cảnh vãng sanh về Tịnh độ của Phật A-DI-Ðà. Do đó, tôn này mới
có tên là Tịnh độ tôn.
- Ðây là một trong nhiều pháp môn
của Phật, mà đặc điểm là dể tu, dể chứng, rất thích hợp với đại
đa số quần chúng. Với pháp môn này, bất luận hạng người nào,
trong thời gian nào, hoàn cảnh nào, củng có thể tu hành được cả.
Nếu so sánh với con đường đi, thì tôn này là môt đại lộ bằng
phẵng ,rộng rãi, mát mẽ, hành giả dễ đi mà mau đến, không sợ gặp
nguy hiểm chướng ngại giữa đường.
- Bởi những lẻ
ấy, nên từ xưa đến nay, đã có không biết bao nhiêu người chọn
lựa pháp môn này để tu hành. Riêng ở Việt nam chúng ta, ngày xưa
củng như hiện nay, có biết bao nhiêu người là môn đồ của tôn
này. Ðó là lý do thúc đẩy chúng tôi gấp rút biên soạn bài này để
giới thiệu " con đường tu thứ hai" trong mười tôn phái của Phật
Giáo.
- 1.- Duyên
Khởi Lập Tông
- Tịnh độ căn
cứ vào những kinh điền gì để thành lập? Kinh điển mà Tịnh độ tôn
đã y- cứ thì rất nhiều. Ơí đây chúng tôi chỉ xin nêu lên một ít
bộ kinh căn bản, thường được nói đến thôi. Ðó là các bộ:
- 1.-Kinh vô
lượng thọ: Kinh này được chép lại 48 lời thề nguyên của đức
A-Di-Ðà , khi còn là một vị Tỳ kheo tên là Pháp Tạng. Nội dung
của 48 lời thệ nguyện ấy là: sau khi thành Phật, ngài sẽ lập ra
một quốc độ hết sức trang nghiêm thanh tịnh, để tiếp dẫn chúng
sanh trong mười phương Thế giới về đó, nếu những chúng sanh ấy
thường niệm đến danh hiệu Ngài và thường cầu được vãn sanh về
cõi tịnh độ của Ngài.
- 2.- Kinh Quán
Vô lượng thọ: Kinh này chép rõ 16 Pháp quán và 9 Phẩm, để dạy
người cầu được vãng sanh về cõi Tịnh độ.
- 3.- Kinh tiểu
bổn A-Di-Dà:Kinh này lược tả cõi tiên giới Cực Lạc, trang nghiêm
(Tịnh độ) khiến người sanh lòng ham mộ, phát nguyện tu theo pháp
môn ''trì dân niệm Phật cho đến nhất tâm bất loạn'' để được vãng
sanh về cõi ấy.
- Ba kinh trên
này là ba bộ kinh chính; cổ nhân thường gọi là '' ba kinh Tịnh
độ''. Ngoài ra còn có các kinh khác như:
- Kinh Bửu tích
chép việc đức Phật vì vua Tịnh phạn và bảy vạn người trong thân
tộc, nói pháp môn ''trì dân niệm Phật'' để cầu sanh về Thế giới
Cực lạc.
- Kinh đại bổn
A-Di-Dà, Kinh Thập lục quán, kinh Ban châu niệm Phật, kinh
Bi-Hoa, kinh Phương Ðẳng, kinh Hoa nghiêm.v.v..
- Giáo điển về Tịnh độ truyền qua
Trung Hoa rất sớm, nhưng đến đời Ðông-tấn nhờ Ngài Huệ-viễn đại
sư ra công hoằng hóa, nên tôn này mới bắt đầu thịnh hành. Ngài
là vị tổ đầu tiên ở Trung Hoa. Sau đó, các vị đạo sư danh tiếng
như Ngài Ðàm loan, ngài Ðạo Xước, ngài Thiện-đạo.v.v.. đều dùng
pháp môn này mà tu chứng và hóa độ rất nhiều người và mãi lưu
truyền cho đến ngày nay.
- II. Bốn Cõi
Tịnh Ðộ.
- Tịnh độ không
phải chỉ có một cõi, mà rất nhiều cõi. Ðứng về phương diện phân
tích, từ tế đến thô, có thể chia làm 4 cõi Tịnh độ sau đây:
- 1.- Thường
tịch quang Tịnh độ: đây là cảnh giới mà Pháp thân Phật an trụ.
''Thường'' là không thay đổi, không sanh diệt, tức là Pháp thân
Phật; ''Tịch'' là xa lìa các phiền não vọng nhiễm, tức là đức
Giải thoát của Phật; ''Quang'' là chiếu sáng khắp cả mười
phương, tức là đức Bát-nhã của Phật. Như thế là cõi Tịnh độ này
đủ cả ba đức quý báu của Phật là Thường, Tịch và Quang, cho nên
gọi là ''Thường tịch quang Tịnh độ''.
- Cảnh Tịnh độ
này không có hình sắc mà chỉ là chơn tâm. Vì bản thể chơn tâm,
hay tánh viên giác ''thường vắng lặng, chiếu soi và thanh
tịnh'', nên gọi là ''Thường tịnh quang Tịnh độ''. Chư Phật khi
đã chứng được cảnh giới này rồi thì thanh và độ không hai, song
vì căn cứ theo ba loại Tịnh độ sau đây mà gọi là có Thân, có Ðộ.
Chứng đến chỗ này, nếu đứng về Thân thì gọi là ''Pháp Thân'',
còn về độ, thì gọi là ''Thường tịch quang Tịnh độ''.
- Kinh Tinh
danh, về lời sớ có chép: Tu nhơn hạnh về viên giáo, khi nhơn
viên quả mãn, thành bực Diệu giác (Phật) sẽ ở cõi ''Thường tịch
quang Tịnh độ''.
- 2.- Thất-báo
trang nghiêm Tịnh độ: hành giả trải qua ba số kiếp tích công lũy
đức do phước báu tu hành nhiều đời dồn chứa lại, làm trang
nghiêm cảnh giới chơn- thật nên gọi là ''Thật-báo trang nghiêm
Tịnh độ''. Cảnh giới Tịnh độ này là chỗ ở của Báo thân Phật.
Kinh Quán-vô-lượng -thọ về lời sớ có chép: ''Tu-tập chơn-thật'',
cảm đặng quả báo tốt đẹp, cho nên gọi là ''Thật báo trang
nghiêm''. Bên Ðại-thừa Viên giáo thì cõi này là của các bậc Tam
hiền (Trụ, Hạnh, Hướng); còn bên ngoài Ðại-thừa Biệt-giáo, thì
đây là cõi các bậc từ Thập địa cho đến Ðẳng giác Bồ Tát.
- 3.-Phương
tiện hữu dư Tịnh độ: Cảnh Tịnh độ này không phải là cứu cánh rốt
ráo, mà chỉ là phương tiện. Ðây là cõi Tịnh độ của hàng Nhị
thừa. Các vị này tuy đã dứt được kiến-hoặc và tư-hoặc trong ba
cõi (Dục-giới, Sắc giới và Vô-sắc-giới ), nhưng còn dư lại hai
hoặc là: vô-minh hoặc và trần-sa hoặc chưa trừ được, nên gọi là
''hữu-dư ''. Ðã là ''hữu-dư '' tức là chưa phải hoàn toàn
cứu-cánh, nên gọi là cõi Tịnh độ này là '' Phương-tiện hữu-dư
Tịnh độ ''.
- 4.- Phàm
thánh đồng cư Tịnh độ: Ðây tức là cõi Tịnh độ của Ðưc Phật
A-di-đà ở Tây-phương. Ðã gọi là Tịnh độ, hay Cực-lạc, tuy nhiên
có đủ các đức thanh tịnh trang-nghiêm, không có bón ác thú.
Nhưng đây vì Phật, Bồ Tát và các vị thượng thiện nhơn (thánh)
cùng sống chung với chúng sanh mới vãng-sanh, chưa chứng được
quả thánh (phàm) nên gọi là ''Phàm thánh đồng cư Tịnh độ ''.
- Vì phần đông
tín-đồ Phật Giáo Việt-Nam và Trung Hoa trong khi tu về pháp môn
Tịnh độ, đều nguyện sanh về cõi Tịnh độ này, tức là cõi Cực-lạc
của Phật A-Di-Ðà, nên ở đây, chúng tôi xin căn cứ theo kinh
''Tiểu bổn A-Di-Ðà'' thuật lại lời Ðức-Phật Thích Ca đã tả về
cảnh giới của cõi Tịnh độ này: ''...Từ cõi Ta-bà này, cứ về
hướng Tây, cách đây hơn mười muôn cõi Phật, có thế giới tên là
Cực-lạc. Vị Giáo-chủ ở Thế-giới ấy là Phật A-di-đà, thường hay
nói pháp. Cõi ấy có 7 lớp câu-lơn (tường-hoa) bảy lớp lưới
giăng, bảy hàng cây xinh đẹp, có hồ thất bảo đầy nước tám công
đức. Ðáy hồ toàn là cát vàng. Bốn phía bờ hồ đều cẩn vàng ngọc,
châu báu. Trong hồ có hoa sen bốn màu lớn bằng bánh xe, hương
thơm ngào ngạt, màu nào cũng có hào quang chiếu sáng. Quanh hồ,
vươn lên những tòa lâu đài nguy nga, xinh đẹp làm toàn bằng thất
bảo.
- Trên không
trung hòa lẫn những bản nhạc thiêng, có những tiếng chim báu, do
Phật họa hiện ra, để thuyết pháp luôn trong sáu thời cho dân
chúng nghe. Người nghe rồi liền phát tâm niệm Phật, niệm Pháp,
niệm Tăng. Không những chỉ có tiếng chim, mà cho đến tiếng nước
chảy, gió thổi, cây reo, cũng đều phát ra tiếng phát nhiệm mầu.
- Cảnh giới
Cực-lạc tốt đẹp, trang nghiêm như thế là do công đức của Phật
A-Di-Dà (1) là vị giáo chủ của cõi ấy và các vị Bồ tát, Thánh
chúng chung nhau tạo thành chữ A-Di-Dà người Trung Hoa dịch là
''Vô lượng thọ'', hay ''Vô lượng quang'', nghĩa là đức Phật này
sống lâu không lường và hào quang chiếu sáng cũng không lường.
- (1) Chữ
A-Di-Ðà, người Trung Hoa dịch là "vô lượng thọ" hay "vô lượng
quang", nghĩa là Ðức Phật này sống lâu không lường và hào quang
chói sáng cũng không lường
- III.- Ba Yếu
Tố Ðể Cầu Sanh Tịnh Ðộ
- Muốn được
vãng-sanh, về cõi Tịnh độ nói trên, hành giã phải chuẩn bị ba
yếu tố sau đây là: Tín, Nguyện và Hành. Ba yếu tố này thường
được gọi là ba món tư-luơng (Lương phạn đi đường). Nếu thiếu một
món ăn nào, hành-giả củng không thể tu hành có kết quả được.
- 1.-Thế nào là
''Tín''? -Tín là đức tin vững chắc, không gì lay chuyển được Ðức
tin rất quan trọng va fcần thiết cho người tu hành. Kinh
Hoa-Nghiêm có dạy: '' Tin là mệ sanh ra các công đức ''. Nhờ đức
tin mà quả Bồ-đề có thể thành tựu được.
- Tin có ba
phần:
- a). Tin Phật:
Tin rằng Phật là đấng hoàn toàn sáng suốt, biết các viẹc sáng
suốt, biết các việc quá khứ, hiện tại và vị lai, thấy hết thảy
hằng sang thế giới, hiểu biết các pháp một cách rõ ràng. Tin
răng fdo lòng từ-bi muốn cứu khổ sanh-tử luân hồi cho chúng
sanh, mà Phật Thích Ca nói pháp môn niệm Phật, để chúng sanh
thực hành theo người mà được chúng sanh vãng-sanh về Tịnh độ.
Tin rằng lời dạy của Ðức-Phật Thích- ca không hư đối, Ðức-Phật
A-Di-Ðà và cảnh Tịnh độ đều có thật.
- b). Tin Pháp:
Tin rằng pháp-môn niệm Phật là pháp-môn dễ tu, dễ chứng, có bảo
đảm chắc chắn. Tin rằng 48 lời thệ nguyền của Phật A-Di-Ðà có
đầy đủ hiệu lực để ccứu độ chúng sanh, và nếu ta thực hành đúng
theo pháp môn này, chắc chắn sẽ được vãng-sanh về cõi Tịnh độ
của Phật A-Di-Ðà.
- c). Tin mình:
Tin rằng mình có đầy đủ khả năng và nghị lực để tu theo pháp-môn
này. Tin rằng nếu mình thực-hành đúng như lời Phật Thích-Ca đã
chỉ dạy trong kinh A-Di-Ðà, chuyên trì danh hiệu Phật A-Di-Ðà
cho đến '' nhất tâm bất loạn'' thì khi lâm-chung chắc chắn thế
nào mình củng sẽ được sanh về cõi Tịnh độ.
- 2.-Thế nào là
''nguyện''? Nguyện là lời hứa-hẹn, sự ước ao, là chí nguyện,
mong muốn thực hiện những điều chân chính. Nguyện là sức hút của
đá nam châm, là cánh buồm căng gió của chiếc thuyền, àl cái
chong chóng của máy bay. Nguyện là động cơ thúc đẩy cho con
người tu hành mau đêá mục đích.
- Nguyện quan
trọng như thế, nên hành-giả phải lập nguyện cho vững bền, luôn
luôn kiên tâm, trì chí tu theo pháp-môn niệm Phật này, ngày đêm
chuyên niệm Phật không ngớt, thiết tha mong cầu được sanh về cõi
Tịnh độ của Phật A-Di-Ðà.
- Ðể có một ý-niệm về chữ ''
nguyện '', chúng tôi xin trích ra sau đây ba lời nguyện, trong
48 lời nguyện của Phật A-Di-Ðà, khi còn làm Pháp-tạng Tỳ-Kheo:
- -'' Sau khi
ta thành Phật, chúng sanh ở mười phương một lòng tin ưa, muốn về
cõi ta, từ một niệm cho đến mười niệm, nếu chúng sanh ấy không
đặng vãng-sanh, thì ta thề không thành bậc Chánh-Giác, chỉ trừ
những người phạm tội ngũ nghịch và chê bai Chánh-pháp ''.
- -'' Nếu ta
đặng thành Phật, chúng sanh ở mười phương pháp-giới phát tâm
Bồ-Ðề, tu các công đức, một lòng phát-nguyện, muốn sanh về cõi
nước ta, gia như ta không cùng với đại chúng đoanh vây hiện ra ở
trước mắt chúng sanh ấy, thời ta thề không thành bậc Chánh-giác
''.
- '' Nếu ta
đặng thành Phật, chúng sanh ở mười phương nghe danh hiệu ta,
chuyên niệm cõi nước ta, mà nếu không được thỏa nguyện, thì ta
thề không thành bậc Chánh-Giác ''.
- 3.-Thế nào là
''Hành''?- Hành là thực-hành, làm theo. Nếu tin (tín) mà không
ước ao, mong muốn (nguyện) thì chỉ là tin suông, vô bổ. Nhưng
nếu ước ao, mong muốn (nguyện) mà không làm (hành) thì chỉ ước
ao, mong muốn ảo-huyền, không đi đến kết quả gì. Bởi thế, Tín,
Nguyện,Hành ba yếu tố căn bản này bao giờ củng phải có đủ, mới
đủ điều kiện vãng-sanh Tịnh độ. Cũng như cái đảnh, phải có đủ ba
chân mới đúng vững được, thiếu một chân, tất phải ngã.
- IV.-Phương
Pháp Tu Về Tịnh Ðộ
- Sau kh đã
chuẩn bị đủ ba yếu tố hay ba món tư lương Tịnh độ nói trên,
chúng ta phải hạ thủ công phu ngay. Nhưng muốn cho có hiệu quả,
chúng ta cần hiểu rỏ phương pháp tu hành. Vvẫn biết rằng
pháp-môn niệm Phật là một pháp-môn rất giản dị, chỉ cần niệm
Phật là đủ. Nhưng niệm Phật củng có nhiều cách, nhiều loại, mà
chúng tôi xin dẫn một ìt phương phát sau đây:
- 1.-Trì-danh
niệm Phật: -Trong lối niệm Phật này, hành-giả chỉ chuyên tâm
trì-niệm danh hiệu của Phật A-Di-Ðà. Mỗi ngày từ khi mới thức
dậy cho đến lúc đi ngũ, hành-giả phải chớ niệm luôn, không cho
xen hở. Khi đi, khi đứng, khi nằm, khi ngồi, khi ăn, trước khi
ngũ, hành-giả đừng bao giờ quên niệm Phật. Ngoài ra muốn có hiệu
quả hơn, hành-giả cần phải xem phương pháp '' Kinh hành niẹm
Phật '' (xem nghi thức kinh hành niệm Phật). Mỗi khi niệm xong,
hành-giả đều hồi hương cầu sanh Tịnh độ.
- 2.- Tham-cứu
niệm Phật: -Trong lối tu này, hành-giả phải tham khảo cứu-xét
suy nghiệm câu niệm Phật. Như khi niệm '' Nam-mô A-Di-Ðà Ðà Phật
'', hành-giả phải quán-sát câu niệm Phật này, từ đâu mà đến, đến
rồi sẽ đi về đâu? Niệm đây là niệm ai v.v..? Nhờ sự chuyên
tâmchú ý tham khảo một câu niệm Phật như thế, nên sóng
vọng-tưởng dần dần chìm lặng, nước hiện tâm hiện bày, hành-giả
được '' nhất tâm bất loạn '', đến khi lâm chung, sẽ được sanh về
cảnh-giới của Phật. Pháp niệm Phật này giống như pháp tham cứu
câu '' thoại đầu '' bên Thiền-tôn, nên gọi là '' tham-cứu niệm
Phật ''.
- 3.-
Quán-tương niệm Phật: Trong lối tu này, hành-giả chăm chú quan
sát hình tượng của Phật.
- Hành-giả ngồi
trước tượng Phật, chú tâm chiêm ngưỡng, quan sát các tướng tốt
mà liên tưởng các đức-tánh của Phật. Như khi chiêm ngưỡng đôi
mắt Phật, thì liên tưởng tới trí huệ của Phật; khi chiêm ngưỡng
nụ cười hiền hòa của Phật, thì liên tưởng đến đức tánh từ bi,
hỷ-xã của Phật. Nhờ quán trí huệ của Phật mà tánh Si của
hành-giả phai dần; nhờ quán từ-bi của Phật mà tánh Sanh của
hành-giả bớt dần ...Hễ quán thêm một đức-tánh tốt của Phật, thì
một tánh xấu của hành-giả được bớt đi. Tánh của Ðức-Phật như tia
sáng mặt trời, tánh xấu của hành-giả như vết mực; tia sáng mặt
trời càng sáng nhiêìu va fcàng chiếu rọi lâu ngày, thì vết mực
càng phai nhanh. Tóm lại, nhờ sự chú tâm quán các tướng tốt trên
hình tượng của Phật, mà các đức tánh như từ-bi, hỷ-xả,
bình-dẳng, lợi tha được huân-tập, thấm nhuần vào tâm hành giả;
lâu ngày, tâm hành-giả sẽ thanh-tịch, lọc sạch những niệm ác độc
và sẽ giống tâm Phật, được vãng-sanh về cõi Phật.
- 4.-Quán-tưởng
niệm Phật:- Trong lối tu này, hành-giả ngồi yen một chỗ, mặc dù
không có hình tượng Phật trước mặt, mà hành-giả quán tưởng như
có Ðức-Phật A-Di-Ðà, cao lớn đứng trên hoa sen, phóng tỏa hào
quang như tấm lụa vàng, bao phủ cả thân hình mình. Hành-giả ngồi
ngay thẳng, hai tay chắp lại, củng tưởng mình ngồi trên tòa-sen,
được Phật tiếp dẫn. Hành-giả chuyên chú quán tưởng mãi mãi như
thế; đi, đứng, nằm, ngồi củng không dừng nghĩ, cho đến khi nào,
mở mắt hay nhắm mắt cũng đều thấy Phật, tức là páhp quán đã
thuần-thục. Khi lâm chung, hành-giả chắc chắn sẽ được vãng-sanh
về Tịnh độ.
- Trong kinh
Quán Phật tam-muội chép rằng: 'Phật vì Phụ-vương, nói pháp
quán-tưởng bạch hào ...''. Quán-tưởng bạch-hào nghĩa là
quán-tưởng lông trắng có hào quang sáng chiếu, giữa hai chân mày
của Phật, như trăng thu tròn đầy, trong suốt như ngọc lưu ly.
Ðây là một phương pháp quán tưởng niệm Phật.
- 5.-Thật tướng
niệm Phật:- Thật tướng niệm Phật là niệm Phật đã đạt đến bản thể
chơn tâm. Chơn tâm không sanh diệt, không khứ lai, không hư
không giả, cho nên gọi là"thật tướng ".
- Trong năm
pháp niệm Phật trên này, thì bốn pháp trước đều thuộc về sự, có
niệm có tu; còn pháp thứ năm ( thật tướng niệm Phật ) là thuộc
về lý: không còn, niệm còn tu, không còn năng sở, cao siêu hơn
cả. Niệm Phật đến chỗ này mới hoàn toàn rốt ráo.
- Nhưng, hành giả phải luôn luôn
nhớ rằng: nhờ có Sự , Lý mới hiển. Trước hết phải tu bốn pháp
niệm trên, cho đến khi thuần thục, không còn thấy có mình là
người niệm, Phật là vị bị niệm, chỉ có một tâm yên lặng chiếu
soi, không năng sở, bi thử, không hữu, khong vô. Ðến chỗ này,
kinh Di-Ðà gọi là"được nhất tâm bất loạn". Kinh Tứ thập nhi
chương chép; "niệm đến chỗ vô niệm, mới là chơn niệm".
- Trong năm
pháp niệm Phật trên đây, từ xưa đến nay, người tu Tịnh độ,
thường lựa pháp môn danh trì, là một pháp môn dễ hạ thủ công
phu, hành giả ở trình độ nào, chỗ nơi nào hay lúc nào, củng đều
có thể tu được. Thật là một pháp môn rất thù thắng.
- V.-Lợi Ích Của Pháp Niệm Phật
- Lợi ích của
pháp niệm Phật thật vô lượng vô biên, tựu trung có thể chia làm
hai phần: lợi ích về Sự và lợi ích về Lý.
- 1.-Lợi ích về
Sự:
- a) Niệm Phật
sẽ trừ được các phiền não.
- Những người
gặp các cảnh khổ, như tử biệt sanh ly, nhà tan cửa mất, tai nạn
bất thường v.v ..sanh các phiền não, nếu biết chí tâm niệm Phật,
thì các phiền não khỗ đau dần dần tiêu tan. Vì sao lại có kết
quả tốt đẹp như thế? Vì taam ta củng như dòng nướcluôn luôn tuôn
chảy. Nếu chúng ta pha vào những chất cáu bẩn, thì nước trở
thành đục bẩn; nếu chúng ta pha vào những chát thơm tho, thì
nước sẽ trở thành thơm mát. Nếu tâm ta chỉ nhớ nhgĩ đến những
tai nạn khổ đau, thì luôn luôn sẽ bị phiền não khuấy đục. Khi ta
niệm Phật thì sẽ cố nhiên nhớ Phật, quên đau khổ. Ðémự nhớ
Phậtnày thế cho câí nhơá sự đau khổ; một giờ niệm Phật thì sẽ
đổi được một giòpw sầu khổ, một ngày niệm Phật thìđổi được một
ngày khổ đau. Cứ như thế, nếu niệm Phật được tăng chừng nào, thì
sự buồn phiền đau khổ sẽ gỉam đi chừng âý. Cho nen cổ nhân có
câu"Một câu niệm Phật giải oan khiên".
- Trong thời kỳ
chiến tranh Việt-Pháp vừa qua, chúng tôi đã đem phương pháp niệm
Phật nảychi cho một số người sầu khổ gần như điên cuồng, vì sự
nghiệp bị tiêu tan, con cháu mất lạc, họ thu lượm kết quả rất là
tốt đẹp.
- b)Niệm Phật
sẽ trừ được niệm chung sanh.
- -Chúng sanh
hằng ngày nhớ nghĩ đến những điều tội lỗi như tham, sân, si v.v
..miệng thốt ra những điều tội ác, thân làm những việc xấu xa.
Ðó là những ác nghiệp của chúng sanh. Nay nếu chúng ta niệm
Phật, thì chúng ta không còn thì giờ để nhớ nghĩ việc tội lỗi
nừava thực hành những ác nghiệp trên nữa. Như thế là niệm Phậtsẽ
trừ được niệm chúng sanh. Niệm Phật càng nhiều thì niệm chúng
sanh càng ít. Niệm Phật hoàn toàn thì niệm chúng sanh dứt sạch.
- c.-Niệm Phật
sẽ làm cho thân thể được nhẹ nhàng an ổn.-Bệnh tật của chúng ta,
một phần do thể xác, nhưng một phần củng do ảnh hưởng của tinh
thần. Nhiều người mất ăn bỏ ngủ vì uất hận, nhục nhã v.v.. Do
đó, uất khí tích tụ lâu ngày trong người, mà sinh bệnh mất ăn bỏ
ngủ. Gặp những trường hợp như vậy, nếu chúng ta niệm Phật cho ra
tiếng, thì những nỗi uất hận đè nặng lên tâm can chúbg ta, sẽ
như được trút ra cùng hơi thở, cùng tiếng niệm, và thâm tâm ta
được nhẹ nhàng dễ chịu. Những người yếu tim, nếu biết niệm Phật
sẽ mau bình phục. Vì bệnh yếu tim thường làm cho người bệnh hồi
hộp, lo sợ; nay nhờ niệm Phật nên tâm định, tâm định thì những
sựhồi hộp lo nghĩ giảm đi. Do đó mà ăn được,ngủ yên và bệnh mau
bình phục.
- d.-Niệm Phật
tâm trí sẽ sáng suốt, học hành mau nhớ:-Những người tâm trí loạn
động thì tối tăm, như ngọn đèn bị gió, không sáng được.nhờ niệm
Phật, tâm trí sẽ định tĩnh, như ngọn đèn có ống khói, không lay
động. Do đó tâm trí sẽ phát chiếu, như ngọn đèn tỏa ánh sáng
vậy.
- đ) Niệm Phật,
khi lâm chúngẽ được sanh về Tịnh độ.-Như chúng ta đã thấy ở
trên, niệm Phật đem lại cho chúng ta nhiều ích lợi thiết thực
trong đời sống hiện tại, về phương diện thẻ chât lãn tinh thần,
về tính tình lẫn trí huệ. Nhưng cái lợi ích lớn nhất là ở đời
sau. Nếu chúng ta thực hành pháp niệm Phật này, đúng như lời
Phật dạy, cho đến " nhất tâm bất loạn" thì sau khi lâm chung, sẽ
sanh về Tịnh độ,được luôn luôn thấy Phật nghe pháp, làm bạn với
thánh hiền, và có đủ nhiều thiện duyên để tiếp tụctu hành cho
đến quả Phật.
- 2.-Lợi ích về
Lý:
- Khi hành giả
niệm Phật được "nhất tâm bất loạn", thì các vọng tưởng hết, chơn
tâm thanh tịnh hiện ra. Chơn tâm không sanh diệt hư hoại là
"Thường",chơn tâm thanh tịnh vắng lặnglà "Tịch", chơn tâm sáng
suốt vô cùng là " Quang".cảnh "Thường-Tịch-Quang Tịnh-độ" chỉ ở
nơi chơn tâm ta, chứ không nơi đâu khác.
- Lại nữa, chơn tâm không hoại
diệt là"Phật Vô-lượng-thọ"; chơn tâm chiếu soi vô tận là "Phật
Vô-lượng-quang" và đó củng tưc là "Thanh -tịnh diệu pháp thân
của Phật A-Di-Ðà".
- Tóm lại,
người niệm Phật đến khi hết vọng, ngộ nhập được chơn tâm rồi,
thì Phật A-Di-Ðà hay cảnh Tịnh độ cũng chỉ ở nơi tâm mình hiện
ra, chứ không phải đâu xa. Vì thế nên kinh chép:"Tự tánh Di-Ðà,
duy tâm Tịnh độ" là vậy.
- Xuyên qua các
đoạn trên, chúng ta thấy pháp niệm Phật được sự lợi ích vô cùng.
Nếu những người không tin có Phật A-Di-Ðà, có cảnh Tịnh độ mà
chí tâm niệm Phật, thì cũng được nhiều lợi ích như trên.
- VI.- Sự Quy
Ngưỡng Và Cầu Sanh Tịnh Ðộ Của Các Vị Bồ Tát Và Tổ Sư
- Chúng ta đừng
tưởng rằng Pháp môn Tịnh độ là một Pháp môn tầm thường, giản dị
chỉ dành riêng cho những người căn trí thấp-thỏi, hẹp hòi tu
hành. Thật ra, mặc dù Pháp môn này không đòi hỏi hành-giả có một
sức hiểu biết thâm sâu, một trí óc thông minh xuất chúng, nhưng
vì nó dễ tu dễ chứng, hiệu quả chắc chắn nên từ xưa đến nay, rất
nhiều vị Bồ tát và Tố sư đã được thực hành pháp-môn này để cầu
sanh về Tịnh độ. Ngài Văn thù là vị Bồ tát có một trí tuệ
tối-thắng, không ai sánh kịp, thế mà Ngài cũng phát nguyện sanh
về nước Cực-lạc của Phật A-Di-Ðà như sau:
- Nguyện ngã
lâm dục mạng chung thời
- Tận trừ nhất
thế chư chướng- ngại
- Diện kiến bị
Phật A-Di-Ðà
- Tức đắc
vãng-sanh An-lạc sát.
- (Tôi nguyện
đến khi lâm- chung, diệt trừ hết cả chướng ngại, trước mặt thấy
được Phật A-Di-Ðà, liền được vãng -sanh về cõi Cực-lạc).
- Các vị Bồ tát
như Ngài Phổ Hiền, Quán-Âm, Ðại-Thế-Chí cũng đều nguyện sanh về
cõi Tịnh độ.
- Các vị Tổ ở
các tôn khác, mặc dù hoằng truyền tôn mình, nhưng cũng vẫn tu về
Tịnh độ. Như Ngài Thiên-Thân, tổ của Duy- thức tôn; Ngài Trí-giả
đại- sư, tổ của Thiên -Thai tôn; Ngài Hiền-thủ, tổ của Hoa
-nghiêm tôn; Ngài Nguyên -Chiếu luật sư, tổ của Luật tôn; Ngài
Mã-Minh, Long -Thọ, tổ của Thiền-tônv.v.. .cũng đều thực hành
pháp môn Tịnh độ.
- Sau nữa, các
vị Ðại sư danh tiếng ở Trung Hoa, như Ngài Ðàm Loan, Ngài Ðạo
Xước, Ngài Thiện đạo, Ngài Thừa Viễn, Ngài Pháp-Chiếu, Ngài
Thiếu-Khương, Ngài Tĩnh-Am v.v..đều dùng pháp-môn này để tự độ
và độ tha, và mãi mãi lưu truyền cho đến ngày nay.
- VII.- Kết
Luận.
- Chúng ta đã
biết qua tôn-chỉ, đặc điểm phương pháp tu hành và giá trị của
Tịnh- độ tôn. Ðến đây chúng ta cần phải lắng tâm suy xét kỹ
lưỡng, xem phương pháp tu về Tịnh độ tôn này, có thiết thực lợi
ích và có thích hợp với chúng ta không. Trong phút giây quan
trọng này, chúng ta hãy hết sức thành thực: nếu chúng ta nhận
thấy phương pháp tu này rõ ràng không thích hợp với chúng ta,
thì chúng ta có quyền chờ đợi lựa chọn một phương pháp khác.
Nhưng chúng ta nhận thấy nó có một giá trị thiết thực, lợi ích
chắc chắn cho đời chúng ta trong hiện tại và mai sau, thì chúng
ta đừng chần chừ gì nữa, hãy hạ thủ công- phu ngay. Thời gian
vùn vụt trôi qua, chẳng chờ ai cả. Hãy chuẩn bị ngay ba món
tư-lương là Tín, Nguyện, Hành và tinh-tấn thực-hành các phương
pháp niệm Phật.
- Với thái độ thiết tha chân
thành, một quyết tâm không thối chuyển, chúng ta chắc chắn sẽ
niệm Phật đến chỗ ''Nhất tâm bất loạn''.
- 3.- Thiền
Tông
- A.-Mở Ðầu
- Thiền tôn
thuộc cả Ðại Thưà và Tiểu Thừa.củng như bao nhiêu tôn phái khác
trong Phật Giáo, vị khai sáng đầu tiên của Thiền tôn vẫn là đức
Phật. Trước Ngài , sự tham thiền nhạp định của các ngoại đạo
không phải là không có. Nhưng đến Ngài, phương phápthiền định
mới đạt đến chỗ rốt ráo. Như chúng ta đều biết qua lịch sử cúa
Ngài , sau khi xuất gia, đức Phật đã trãi qua nhiều năm đi tìm
đạo và tu khổ hạnh, nhưng vẫn chưa đạt được đạo quả như ý muốn.
Ngài tự bảo cái đạo ấy không phải đi tìm đâu xa mà chính phải
tìm trong trí huệ sáng suốt của Ngài . và từ đó, luôn trong 49
ngày đêm dưới cội Bồ Ðề, Ngài đã ngồi thamthiền nhập định cho
đến khuya mồng 8 tháng chạp âm lịch, lúc sao mai vừa mọc thì
Ngài "Minh tâm kiến tánh", chứng được đaọ quả Bồ -đề,. Ðó là một
cuộc nhập định vô tiền khoáng hậu, mở đầu cho một pháp môn vô
cùng hiệu nghiệm của đạo Bồ đề. Và từ đấy về sau, một tôn giáo
riêng đã được thành lập. Ðó là Thiền tôn.
- Sao gọi là
Thiền tôn?-Thiền tôn là một tôn phái của Phật Giáolấy pháp môn
tham thiền nhập định làm căn bản tu hành.
- Chữ "Thiền "
là do chữ "Thiền-na", một tiếng Phạn, phiên âm theo tiếng Trung
Hoa và dịch nghĩa là định lự ( định các tự lự). Hiệp chungcả
tiếng Phạn và tiếng Trung Hoa, thành ra chữ Thiền định.
- Có chỗ giải:
Chữ " Thiền", xưa dịch tư là " tư duy", nay dịch là " Tịnh lự".
Tư duy có nghĩa là suy nghiệm, nghiên cứu, suy tầmnn đối tượng
của tâm thức ( tức là chỉ) để cho tâm thể được sáng tỏ.
- Chữ "Ðịnh"
nguyên tiếng Phạn là Samadhi, người Trung Hoa phiên âm là Tam
muội, nghĩa là tập trung tư tưởng vào một cảnh duy nhất không
cho tán loạn.
- Hợp hai chữ Thiền và Ðịnh, chúng
ta có một nghĩa chung như sau:Tập trung tư tưởng vào một đối
tượng duy nhất, không cho tán lọan, để cho tâm thể được vắng
lặng, tâm dụng được sáng tỏ, mạnh mẽ, đặng quan sát và suy
nghiệm chơn lý.
- Phương pháp
thiền định có hai cách:
- 1.-Tham cứu
về lý thiền, để cầu minh tâm kiến tánh, tỏ ngộ đạo quả, nên gọi
là " Tham thiền", như tham cứu câu thoại đầu (câu nói thiền)
v.v..
- 2.-Tậủp trung
tư tưởng để quan sát cho sáng tỏ chân lý về một vấn đề gì như
quán bất tịnh, quán từ bi v.v..nên củng gọi là " Quán tưởng".
- Có chỗ gọi là
tu " Chỉ quán"hay tu" Ðịnh huệ". Chỉ là đình chỉ các vọng tưởng,
không cho khởi động, tưc là định. Quán là quan sát cho sáng tỏ
một vấn đề gì tức là Huệ.
- "Chỉ" là
nhơn, mà "Ðịnh là quả.
- " Quán là
nhơn", mà "Huê " là quả.
- Chủ Trương
Của Thiền Tông
- Tất cả chúng
sinh, trãi qua bao đời kiếp, phải trôi lăn trong biển khổ
sanh-tử luân hồi vì bị vô minh mê hoặc.
- Tại sao lại
có vô minh mê hoặc? chúng ta hằng ngày bị thất-tình (1), lục-dục
(2), bát phong (3), xuy động, làm cho tâm tánh chúng ta phải bị
mờ ám; cũng như ngọn đèn bị thổi leo lét, không sáng tỏ được, để
phá tan cái hắc ám ở chung quanh và soi sáng cảnh vật. Ðèn tâm
của chúng ta không giờ phút nào chẳng bị gió lục-trần (4) làm
chao động. Vì đèn tâm chao động (không định) nên ánh áng trí huệ
không thể tỏa ra; và ánh sáng trí huệ không tỏ sáng, nên khỗng
xé tan được mây vô-minh hắc ám ở chung quanh và không chiếu soi
chơn lý của vũ-trụ.
-
----------------------------------------------------------
- (1)
Thất-tình: Mứng, giận, thương, sợ, yêu, ghét, muốn.
- (2) Lục-dục:
Những sự tình dục do lục-căn sanh ra.
- (3)
Bát-phong: Lợi, suy, hủy, dự, xưng, cơ, khổ, lạc.
- (4) Lục-trần:
Sáu trần-cảnh là: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.
- Vậy hành-giả
muốn rỏ chơn lý của vũ trụ, muốn được minh tâm kiến tánh thành
Phật, thì phải phá trừ mây vô minh hắc ám. Muốn phá trừ vô minh
hắc ám, hành-giả phải làm sao cho đèn trí huệ của mình được sáng
tỏ. Muốn thế hành-giả phải tu thiền-định. Tâm có định, mới phát
sinh trí-huệ. Trí-huệ có phát sinh mới phá trừ được vô minh hắc
ám, và với minh tâm kiến tánh thành Phật.
- Mới nghe qua
chủ trương của Thiền-tôn, chúng ta thấy không có gì mới lạ, và
tưởng là dễ dàng quá; nhưng khi thực hanh thì lại không phải dễ
dàng như thế. Trái lại, phép tu thiền-định rất khó, phải thường
có thiện-hữu tri-thức dắt-dẫn, phải tốn rất nhiều công phu và
kiên-nhẫn, phải trải qua một thời gian lâu dài, mới thu được kết
quả.
- B.-Các Loại
Thiền Ðịnh
- Thiền-định có nhiều loại, nhiều
thứ. Có thứ chánh, thứ tà, có thứ sâu, thứ cạn, có thứ thiền của
ngoại-đạo, có thứ thiền của phạm-phu, có thứ thiền của
Tiểu-thừa, có thứ thiền của Ðại-thừa.
- Hãy nghe Ngài
Tôn-Mật Thiền-sư dạy: '' ...Người muốn cầu Thánh-đạo, tất phải
tu thiền ''. Chơn-tánh không có dơ và sạch, thánh và phàm. Song
thiền-định có cạn và sâu, từng bực không đồng:
- - Người
tà-kiến, chấp trước sao lạc, ưu cõi trên, chán cõi dưới mà tu
Thiền là ngoại đạo thiền;
- - Người chánh
tín nhơn quả, nhưng cũng dùng sự ưa cõi trên chán cõi dưới má tu
thiền, là phàm phu thiền;
- - Người biết
rõ lý '' ngã không'' mà tu thiền là Tiểu-thừa thiền;
- -Người ngộ
được lý''ngã, pháp dều không'' mà tu thiền, là Ðại-thừa thiền;
- -Người đốn
ngộ tự tâm, xưa nay vốn thanh-tịnh, không có phiền não, đầy đủ
trí huệ vô-lậu, tâm ấy tức là Phật, rốt ráo không khác; y theo
tâm ấy mà tu thiền là Tối Thượng thừa thiền, củng gọi là ''chơn
như tam muội''
- Vì thiền có
nhiều loại khác nhau như thế, nên trướ khi muốn thực hành cho
đúng đắn chúng ta cần biết sơ lược các lối tu thiền, để khiỏ lạc
vào đường nguy hiểm.
- I.- Ngọai Ðạo
Thiền
- Trong phần
ngoại đạo thiền này, chúng tôi muốn nói đến các loại thiền của
ngoại đạo như đạo Tiên, đạo Bà la môn, các lối thôi miên, và
những tà thiền định với mục đích không chơn chánh.
- Sao gọi là
không chơn chánh? -Theo quan niệm của đạo Phật thì những hành
động gì không nhằm mục đích trau dồi tâm tánh, dẹp trừ phiền não
hữu lậu, để cầu giải thoát sanh tử luân hồi, đều không là chơn
chánh. Dựa vào quan niệm trên mà phê phán thì những tà thiền
định hay những loại thiền định của ngoại đạo đều không chơn
chánh; vì những người tu theo lối thiền định nầy chỉ nhắm mục
đích cầu được sống lâu, cầu được khỏe mạnh, được thần thông biến
háo để dạo chơi thế giới,được những phép lạ, huyền bí để cám dỗ,
mê hoặc người, hay được thần tiên để hưởng lạc thú tiêu diêu nơi
tiên cảnh...
- Bởi họ dụng tâm không chơn
chánh, tu phương pháp không chơn tánh, nhắm mục đích thiển cận,
bề ngoài và bị các phiền não tham, sân, si, làm động cơ thúc
đẩy, nên các laọi thiền của họ không rốt ráo và toàn thiện được.
Trước tiên chúng ta hãy nói đến các tà thiền định.
- 1.- Tà thiền
định: Ðọc các loại sách xua, chúng ta thường nghe nói đến các
loại cầm thú như: bạch xà, chồn cáo, qui, khỉ, vượn...tu luyện
lâu năm trong rừng sâu núi thẳm, cuối cùng củng có những phép
thần thông, biến hóa. Nhưng mục đích của chúng là cầu cho được
nhiều phép tắc để được ggần phụ nữ, nhiễu hại nhơn dân, hớp hồn
hớp via người lương thiện, để thỏa mãn thú tánh. Ðó là những
loài yêu tinh quỷ quái, mà ngày nay theo con mắt nhà khoa học
thì khó có thể tin được là có. Nhưng có lẽ những người xưa muốn
đặt ra câu chuyện yêu tinh quỹ quái như thế, để ngụ ý các loài
thú, nếu tu luyện lâu năm củng có thể phép thuật hơn người.
Nhưng bởi chúng thiếu lòng nhân, thiếu thiện tâm cho nên phéúp
thuật càng cao cường bao nhiêu càng gây tai họa bấy nhiêu.
- Chúng ta củng
thường nghe thầy phù thủy luyện thiên linh cái (đầu lâu). Họ
củng tập trung tư tưởng, luyện phép tịnh tâm, và khi thành tâm,
và khi thành công củng sai được âm binh bộ hạ, được ma quỷ mách
bảo cho các việc quá khứ, vị lai ...mà củng tác oai, tác oai
không ít.
- Ðó cũng là do
tu định cả, nhưng bởi dụng tâm tà, nên gọi là thiền định, và kết
quả là có hại cho mình và nhân quần xã hội.
- Chúng ta hãy nghe lời Phật
dạy.Ngài A-Nan trong kinh Lăng nghiêm về các lồi tà thiền định:
- " ..A-Nan!
Nếu ông tu thiền định mà không đoạn lòng dâm, thì quyết đọa vào
ma đạo, bực thượng thành ma chúa, bực trung thành ma dân bự hạ
làm ma nữ. Vì gốc của nó là dâm, thì làm sao khỏi sanh tử luân
hồi được?. "
- ''...A-Nan !
Nếu ông tu thiền định mà không đoạn đoạn tân sát hại, thì chỉ
đạo vào thần đạo; bực thượng thành đại lực quỉ, bực trung làm
phi hành dạ xao và các quỉ tướng soái, bực hạ làm địa hành La
sát và các quỉ thần...''
- ''...A-Nan !
Nếu ông tu thiền định mà không đoạn trừ tâm trộm cướp thì quyết
đọa vào tà đạo; bực thượng thành loài yêu tinh, bực trung làm ma
quỉ, bực hạ làm người tà bị các tà ma nhập (đồng bóng)...''.
- 2.-Thiền định
của đạo Tiên: Theo các kinh sách của đạo tiên để lại, như kinh
Huỳnh-đình, hay bộ Tánh mạng khuê chỉ v.v..thì con người sở dĩ
sống được và minh mẫn là nhờ có đử ba món: tinh, khí và thần.
Tinh , khí là chủ cúa xác thân; Thần là chủ của mạng sống. Hể
tinh thần lục dục quá mạnh thì tinh khí hao mòn: tinh khí hao
mòn thì thân bị che lấp tối tăm, con người mất sáng suốt. Vì thế
cho nên phải trừ dục tình để dưởng tinh, luyện khí cho thân được
cởi mở và phát hiện.
- " Tiên đạo
cho rằng khắp giáp thân thể con người đều có những cái huyệt,
tức là những lỗ thông khí âm dương; huyệt ở chót bàn chân gọi là
chi âm; huyệt ở đỉnh đầu là thiên thông. Khí đi trở lên là dương
khí, khí di xuống là âm khí.
- Người tu tiên
cốt luyện cho âm khí mất đi, chỉ còn cái khí thuần dương đi lên
đỉnh đầu, tức là có thần thông và đắc đạo. Vì sao phải trừ bỏ
khí âm? Bởi vì âm khí là trược khí, làm cho nặng nề, tối tăm, ưa
thích điều dâm dục , làm hao tổn tinh thần. Hể tinh thần hoằng
dương tổn thì cái thần là cái linh động sáng suốt nhất, cũng là
cái thông hiệp với trời đất, bị bế tắc". Vậy nên, kẻ phàm là kẻ
còn nặng khí âm, còn bậc tiên chỉ còn là khí thuần dương mà thôi
(1).
- ''Ðể luyện
khí, người tu tiên có nhiều phép tu gần giống như phép tọa
thiền, nghĩa là ngồi ở một nơi thanh tịnh, rồi tập luyện các
phép như: ''Tọa công'', ''Giao thiên trụ'', ''Thiệt giải thấu
yết''.v.v..
- Tóm lại những
người tu theo đạo này, nếu chuyên tâm trị chí tập trung tư
tưởng, luyện ''Tinh'' hóa ''Khí'', luyện ''Khí'' hóa ''Thành'',
sau khi đã thuần thục, cũng được năm phép thần thông biến hóa.
Họ trở thành tiên, có thể xuất thần bay đi dạo chơi các Thế
giới. Hoặc họ hứng nước mặt trăng, luyện linh đơn để trị bệnh
hay để uống cho được trường sinh bất tử thành địa tiên.
- Những vị tiên
này, rất tiếc là ngày nay, chúng ta không được thấy nên không
dám chắc là có hay không. Nhưng dù có có đi nữa, thì trên lý
thuyết, các vị này vì chưa được lậu tận thông, ''phiền não hữu
lậu chưa hết'' nên khi phiền não rối lên họ cũng bị đọa trở
xuống, khi trường hợp ông Uất-Ðầu-Lâm-Phách, hay ông Ðộc
-Giác-Tiên-Nhân.v.v...Hơn nữa dù họ có luyện cái thân mình cho
được trường sanh bất tử cũng không thể toại nguyện được, vì cái
thân này là tứ đại giả hiệp, tất phải bị luật vô thường chi
phối, không thể sống vĩnh viễn được. Nó lại là cái đãy gia chứa
các vật bất tịnh thì dù có cưng dưỡng cho mấy rốt cuộc rồi cũng
bị tan rã. Bởi lẽ đó người tu hành phải xem nó như cái bè đưa
qua sông, khi qua sông rồi, chẳng nên mến tiếc cái bè mà chẳng
chịu lên bờ.
- Trong bộ
Qui-nguyên Trực chỉ, có kể chuyện ông tiên Lữ Ðồng Tân, học trò
của Tiên Hớn Chung Ly, sau khi đấu phép với NgŽài Huỳnh
Long hòa thượng bị thua, ông đã bỏ đạo Tiên theo đạo Phật. Lý do
sự đầu Phật là vì ông Lữ Ðồng Tân tự nhận thấy mình đã dụng tâm
sai và đã đi lầm đường tu hành. Do đó, ông đã làm bài thơ sau
đây để nói lên sự sai lầm của ông:
- Nguyên văn:
- Khí khước
biều nan, kích tý cầm
- Như kim bất
luyến hống trung câm
- Từ tùng nhất
kiến Huỳnh long hậu
- Thì giác tùng
tiên thố dụng tâm
- Dịch nghĩa:
- Bỏ lầu Linh
dược ném đờn cầm.
- Tôi nay chẳng
tiếc nước miếng vàng (2)
- Từ khi gặp
Huỳnh Long hòa thượng
- Mới biết từ
trước dụng tâm sai.
- (xem quyển Lữ
Ðồng Tân đầu Phật)
- (1) "Yoga và
tọa thuyền" trong đại chúng tuần sau, số 219
- 3.-Luyện Du
già (Yoga). Yoga là một danh từ Ấn, gốc là chữ Yuj; Tàu dịch là
Du già, nghĩa đen là ''tự đặt mình dưới một cái ách''; nghĩa
bóng là ''tự trói buộc cả tinh thần, thể xác vào một quy luật
khắc khe'' tự kiềm chế mình theo một kỷ luật đặc biệt, mà mục
đích là tập trung toàn thể thân tâm làm một với bản thể của trời
đất.
- Du già cũng
gọi là thuật luyện khí của Ấn độ, gần giống thuật luyện khí của
đạo Tiên. Theo thuyết Du già trong thân thể con người có rất
nhiều huyệt; trong số ấy có bảy huyệt từ hậu môn lên tới đỉnh
đầu là quan trọng nhất. Bảy huyệt ấy nằm dài theo xương sống, và
có một đường lên một đường xuống thông nhau. Vì sự si mê và các
thứ dục vọng che lấp cho nên bảy huyệt ấy bị chướng ngại, khiến
cho cái ''chơn quả'' từ dưới ''hỏa hậu'' (chổ hậu môn) không thể
lên được. Nhất là vì thân thể không luyện tập, xương sống bị
cong đi, các huyệt do đó bị bế tắc. Vậy muốn cho hoả hậu (tức là
cái thần lực trong con người) được thông qua các huyệt, lên tới
đỉnh đầu thì phải chú tâm luyện cho xương sống giản ra, các khớp
xương được thông và thẳng.
- Ðể đạt được
mục đích nói trên, người luyện Du già phải tập nhiều tư thế, như
tư thế ''giản lưng '' tư thế ''lưỡi cày'', tư thế ''trồng
chuối'' (trút đầu xuống dưới, trở chân lên trên trời), để cho
hỏa hậu dể lưu thông tới đỉnh đầu.
- Ngày nay Du
già được phổ biến qua các nước Âu -Mỹ, gần như một phong trào.
Phần đông cho đó là một phương pháp thể dục, để luyện cho thân
thể được khỏe mạnh, trí huệ được sáng suốt, để tính toán và làm
việc được nhiều và hiệu quả. Một số người đi xa hơn, muốn luyện
Du già để được sống lâu, trẻ mãi, vượt ra khỏi những sự đòi hỏi
của xác thân đầy dục vọng, thoát ra ngoài những nỗi lo âu, sợ
sệt hằng ngày và sống một cuộc đời an vui, tự tại. Lại có một
hạng người khác mong rằng Du già sẽ làm cho họ khám phá những
năng lực tiềm tàng ẩn núp trong con người và làm cho họ trở
thành những nhân vật phi thường, có những thần thông biến hóa,
phép mầu chước lạ, họ cũng tập trung tư tưởng, định tâm chú ý
như các lối tu thiền định; ngoài ra họ còn có tu tập một cách
rất khổ sở, hành hạ thân xác, bắt nó chịu đựng những thử thách
cực độ, như phơi nắng dầm sương, ngồi trên chông gai, đứng bằng
hai tay, treo chân lên cổ, nhịn đói, nhịn khát,v.v...đó là những
đạo sĩ người Ấn Ðộ thường gọi là ''pha-kia'' (fakir).
- Những người
này khi tu đến mức độ cao, cũng có được những phép lạ, như dao
chém không đứt, đâm không thủng, nhai ve chai, uống axit không
sao, nằm ngũ một giấc luôn trong 3 tháng không ăn, không uống
.v.v...
- Nhưng dù họ
thành công bao nhiêu đi nữa, thì cũng không thể thoát ngoài vòng
trần tục liễu xanh thoát tử và minh tâm kiến tánh được
- ''Yoga và tọa
thiền'' trong Ðại chúng tuần san, số 219
- ''nước miếng
vàng: đối với người tu Tiên, thì nước miếng rất quí họ không bao
giờ nhổ vì sợ tổn khí, và dùng nước miếng của mình để luyện linh
dược.
- (1) Nước
miếng vàng: Ðối với người tu tiên, thì nước miếng rất qúy, họ
không bao giờ nhổ vì sợ tổn khí, và dùng nước miếng của mình để
luyện thành linh dược
- 4.- Luyện
thôi miên. đây cũng là một lối tu thiền của ngoại đạo, hiện nay
rất thịnh hành trên thế giới. Nguyên tắc của phương pháp tu
luyện này cũng là vận dụng tập trung tư tưởng vào một chỗ để cho
tinh thần có sức mạnh sai khiến được sự vật. Người tập thôi
miên, lúc mới đầu ngồi yên một chỗ, nhìn chăm chú vào một chấm
đen vẽ ở trên tường, để cả tâm trí tập trung vào đó, ngoài ra
không còn để ý vào một sự vật gì ở chung quanh nữa. Họ ngồi tập
hàng giờ như thế, bao giờ tinh thần không còn tán lọan nữa, và
có đủ sức mạnh để sai sử kẻ khác là họ thành công. Những người
thôi miên giỏi, có thể dùng thôi miên để trị lành bệnh hay sai
sử những người khác làm những chuyện phi thường, như xuất thân
đi đến một xứ khác để thăm bà con, kể lại việc quá khứ hay tiền
thân của một người khác.v.v...
- Tóm lại, nhờ
luồng điện tinh thần đã được tập trung thành sức mạnh, người
thôi miên có thể bắt người khác làm những việc kỳ lạ theo ý muốn
của mình. Nhưng vì lợi dụng, tâm không chơn chánh, chỉ tham cầu
những điều huyền bí, mầu nhiệm bên ngoài, không lo dẹp trừ phiền
não, hữu lậu, trau dồi tâm tánh bên trong, để được minh tâm kiến
tánh nên không phải là chánh đạo. Ðến khi phiền não hữu lậu nỗi
lên hoặc nhiễm sắc tham tài.v.v...thì các thần thông, diệu dụng
đều mất hết. Bởi thế nên Phật dạy các đệ tử: ''ngộ được đạo thì
tự nhiên sẽ có các thần thông. Nếu được thần thông mà chưa ngộ
được đạo thì thần thông ấy có khi bị mất''.
- II.- Phàm Phu
Thiền.
- Phàm phu
thiền cũng gọi là thế gian thiền. Sở dĩ gọi là phàm phu hay thế
gian thiền là vì các pháp thiền này chưa có thể đưa hành-giả ra
ngoài tam giới, chưa chứng được thánh quả, mà vẫn còn quanh quẩn
trong vòng phàm phu hay thế gian. Các pháp như Tứ thiền, Tứ
không.v.v...đều thuộc phàm phu thiền.
- 1.- Tứ thiền
tức là 4 giai đoạn tham thiền của phàm phu, đi dần từ chổ nhàm
chán cái vui thô thiển đến cái vuivi tế thanh tịnh. Bốn giai
đoạn tham thiền này tuần tự diễn tiến như sau:
- a.-Sơ thiền,
ly sanh hỷ lạc.-Hành giả khởi đầu bằngg tâm lý nhàm chán cái ô
trược của cỏi Dục, và mong cầu được xa lìa(ly) được cái ô trược
của Dục giới, hành giả sanh vui mừng (sanh hỷ lạc). Ðó là kết
quả của giai đoạn tham thiền đầu tiên (sơ thiền).
- b.- Nhị
thiền, định sanh hỷ lạc.-Nhưng cái vui nói trên, lại làm cho tâm
chao động, cần phải dứt trừ; vì thế hành giả phải vào định. Khi
định có kết quả, cái vui mừng thô phù của sơ thiền chấm dứt và
cái vui mừng vi tế trong định lại nãy sanh; vì thế cho nên
gòila" Ðịnh sanh hỷ lạc".
- c.-Tam thiền,
ly hỷ diệu lạc.-Cái vui mừng ở cõi nhị thiền mặc dù vi tế, nhưng
vẫn còn làm cho tâm rung động, vì thế hành giạlai cần bỏ cái vui
mừng ở cõi nhị thiền. Khi bõ được cái vui mừng này, thì một nỗi
vui mầu nhiệm khác lại phát sinh; vì thế cho nên gọi"Ly hỷ diệu
lạc".
- Trong các
kinh thường chép:Cõi tam thièn là vui hơn hết (diệu lạc), vì ở
các cõi dưới thì chỉ có vui thô động, còn ở các cõi trênthì chủ
là tịch tịnh, không còn vui nữa.
- d.-Tứ thiền,
xả niệm thanh tịnh.-Ở cõi tam thiền, tuy đã hết cái vui thô đọng
của Sơ thiền và Nhị thiền; nhưng vẫn còn cái vui mầu nhiệm.
Nhưng hễ còn niệm vui, thì tâm chưa hoàn toàn thanh tịnh. Hành
giả lại phải còn tiến lên một bậc nữa, đi vào cái thiền thứ tư,
xã luôn cả cái niệm vui, để tâm được hoàn toà thanh tịnh, vì thế
nên gọi là"Xã niệm thanh tịnh".
- 2.-Tứ không
định.-Sau khi đã trãi qua Tứ thiền và đã thành tựu viên mãn,
hành giả tiếp tục tu thiền định và sẽ trãi qua bốn giai đoạn gọi
là tứ không định sau đây. Sở dĩ gọi là tứ không, vì khi vào bốn
định này, thiên giả sẽ không còn thấy có cảnh thức tâm nữa.
- Không vô biên
xứ định.-Thiền giả khi đã đạt được tứ thiền, tâm đã được hoàn
toàn thanh tịnh, nhung vaãn còn thấy có sắc giới, còn thân còn
cảnh và bị nhình săc trói buộc, nên sanh tâm nhàm chán. Ðể rời
bỏ các hình sắc về thân và cảnh, thiền giả vào định thứ nhất của
tứ không, thể nhập với "Hư không vô biên",tức là không thấy có
ngăn cách, có biên giới của cảnh.
- b) Thức vô
biên xứ định.-Thiền giả khi đã định thứ nhấtcủa tứ không, rời bỏ
được sắc tướng của thân và cảnh, thaáy được cái vô biên của hư
không, nhưng vẫn còn giữ cái bản ngã hẹp hòi, vẫn còn thấy biên
giới của tâm thức; khi thành tựu, tức thể nhập được vào cõi"Thức
vô biên".
- c)Vô sỏ hữu
xứ định:-Thiền giả ,mặc dù không còn thấy biên giới, ngăn cách
của thức nhưng vẫn còn thấy có ngã, có tâm thức, có năng sở;mà
hễ còn thấy năng sở, tức con thấy mình và người , còn thấy có sở
hữu. Vậy thiền giả phải vượt lên một tầng nữa, xa lìa sự chao
động, năng sở, tức nhập định"Vô sở hữu xứ" (cõi không sở hữu).
- d)Phi tưởng,
phi phi tưởng xứ định.-Thiền giả khi đã nhập định"Vô sở hữu",
không còn thấy nhân ngã, năng sở, nhưng vẫn còn "tưởng". Mà còn
tưởng thì còn vọng động. Vậy thiền giả phải tiến lên một tầng
nữa, vào cõi "Ðịnh không tưởng". Nhưng không tưởng đây, không có
nghĩa là vô triều vô giác như đất đá; không tưởng, nhưng không
phải không tưởng của đất đá,. Không tưởng mà vẫn sáng suốt như
một tấm gương, nhưng không phải là một tấm ván hay mặt đá. Ðó là
ý nghĩa của cõi định" Phi tưởng , phi phi tưởng".
- Có chỗ nói
định" Tứ không" thuộc về ngoại đạo , nhưng người tu thiền, bắt
đầu từ Sơ thiền đến Tam thiền, lúc baáy giờ có hai con đường tẻ:
Một con đường đi về ngũA-na-hàm (1) ở cõi tứ thiên(2) thuộc về
cảnh giới của thánh thứ ba (3); một con đường đi về tứ không của
cõi Vô sắc, thuọc về ngoại đạo.
- (1) Ngũ
A-Na-Hàm là năm cõi A-Na-Hàm:a) Vô phiền, b).vô nhiệt, c). thiện
kiến, d).thiện hiện, đ)sắc cứu cánh.
- (2) Tứ thiền
có chín cõi ngoài năm cõi A-na hàm, còn có bốn cõi: Vô vân,phước
sanh, quảng quả, vô tưởng.
- (3)Tiểu Thừa
thanh văn có bốn quả thánh A-na hàm thuộc quả thánh thứ ba
- III.-Nhị Thừa
Thiền
- Nhị Thừa ay
Tiểu-thừa thiền, thuộc về xuất thế gian thiền , nghĩa là các
người tu theo các loại thiền nầy có thể vượt ra ngoài thế gian,
thoát được sanh tử luân hồi. Tuy thế, nnx pháp tu thiền nầy
không đem lại một kết quả mau lẹ, lớn lao toàn diên như các lối
Ðại-thừa thiền, mà chỉ có tánh cách chậm chạp, tuần tự, cuộc bó,
tu một pháp chỉ trừ được phiền não; nghĩa là chứng quả thấp nhỏ,
có hạn lượng, nên thuộc về Nhị thừa thiền (Nhị thừa thiền là
Thinh văn thừa và Duyên giác thừa).
- Nhị thừa
thiền có rất những phương pháp tu, như Ngũ đình tâm quán, Thập
thứt thế xứ quán, Bát hồi quả, Bát thắng xứ quán, Cửu tưởng
quán, Thập lục đặng thắng, Lục diệu pháp môn, Tứ vô lượng tâm,
Thông minh thiền, Bát niệm, Thập tưởng, Tứ đệ định, Sư tử phấn
tấn, siêu việt tam muội, Ba mươi bảy phẩm trợ đạo..tóm lại, hành
quả của Nhị thừa thiền có thể đem giáo-lý của một hay những pháp
môn của Nhị thừa để tham sát tham thiền.
- Trong phạm vi
hẹp hòi của bai phổ thông nầy, chúng tôi không thể nói hết tất
cả pháp môn tu thiền của Nhị thừa được, xin nói sơ lược mọt ít
phương pháp . nếu hành giả muốn đi sâu vào con đường tu này,
phải chuyên môn học tập, phải nhờ minh sư dạy bảo, phải trải qua
nhiều thời gian và nhiều công phu tu tập mới thành công.
- 1.- ngũ đình
tâm quán:
- Quán tổ sức,
trừ tâm toán loạn
- Quán bất
tịnh, trừ tâm tham sắc dục
- Quán từ bi,
trừ tâm sân hận
- Quán nhân
duyên, trủ tân si mê
- Quán giới
phân biệt, trừ tâm chấp ngã.
- (xem Phật học
phổ thông, khóa thứ IV)
- 2.- Cửu tưởng
quán:
- a.-Tưởng thây
sình tướng
- b.-Tưởng thây
hoại diệt
- c.-Tưởng máu
mủ chảy
- d.- Tưởng
thây rục rã
- đ.- Tưởng
thây xanh chàm
- e.- Tưởng
thây bị giòi rúc rỉa
- ê.-Tưởng thây
tan rã
- g.- Tưởng còn
lại đống xương
- h.-Tưởng
xương bị đốt tiêu.
- 3.- Tứ vô
lượng tâm:
- a.-Tâm vô từ
vô lượng: Thiền giã vờ mỡ rộng lòng vô từ vô lượng, bao bọc
chúng sanh trong tình thương rộng lớn vô biên.
- b.-Tâm bi vô
lượng: Thiền giã vờ mỡ rộng lòng bi vô lượng, cứu khổ cho chúng
sanh trong năm đường.
- c.-Tâm hỷ vô
lượng: Thiền giã vờ mỡ rộng tâm Hỷ (hoan hỷ) vô lượng, làm cho
chúng sanh đều được Hỷ.
- d.-Tâm xã vô
lượng: Thiền giã vờ mỡ rộng lòng Xã vô lượng, không lưu luyến cố
chấp một việc gì.
- Tứ vô lượng
tâm là một pháp môn rất linh nghiệm: Phàm phu tu tứ vô tâm
lượng, thì sau khi mạng chung sẽ sanh làm vua ở cỏi Tứ thiền;
Nhị thừa tu Tứ vô lượng tâm, thì phước đức được tăng trưởng, mau
dặng Niết bàn, bồ tát tu Tứ vô lượng tâm thì lòng từ bi mở rộng
vô biên và làm lợi ích cho chúng sanh không xiết kể .
- (xem Phật học
phổ thông, khóa thứ IV)
- 4.- Thập lục
đặc thắng:
- thập lục đặc
thắng tức là mười sáu phép rất đặc biệt thù thắng, có thiền có
quán, có đủ các thiền và có thể phát sanh ra quả vô lậu, không
phải như Tứ thiền, ứ không, không ra khỏi sanh tử. Mười sáu phép
đặc biệt thù thắng này là:
- a.- Biết hơi
thở vào
- b.- Biết hơi
thở ra
- c.- Biết hơi
thở dài ngắn
- d.- Biết hơi
thở thắp thân
- đ.- Trừ các
thân hạnh
- e.- Thọ hỷ
- ê.- Thọ lạc
- f.- Thọ các
tâm hạnh
- g.- Tâm tác
hỷ
- h.- Tâm tác
nhiếp
- i.- Tâm tác
giải thoát
- k.- Quán vô
thường
- l.- Quán xuất
tán
- m.- Quán ly
dục
- n.- Quán diệt
- o.- Quán phí
xả.
- 5.- Thông
minh thiền:
- Thông minh
thiền tức là tham thiền để được lục thông và tam minh.
- a.-Lục thông
tức là sáu phép thần thôngnhư:thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông,
tha tâm thông, thần túc thông, túc mạng thông, lậu tận thông.
- b.-Tam minh
tức là thiên nhãn minh, thiên nhĩ minh, lậu tận minh.
- 6.- Thập nhứt
thế xứ quán:
- thập nhứt thế
xứ quán tức là phép quán mười món biến khắp các xứ sở, sau đây:
- a.- Quán sắc
xanh, khắp giáp tất cả chổ
- b.- Quán sắc
vàng, khắp giáp tất cả chổ
- c.- Quán sắc
đỏ, khắp giáp tất cả chổ
- d.- Quán sắc
trắng, khắp giáp tất cả chổ
- đ.- Quán đất,
khắp giáp tất cả chổ
- e.- Quán
nước, khắp giáp tất cả chổ
- ê.- Quán gió,
khắp giáp tất cả chổ
- g.- Quán lửa,
khắp giáp tất cả chô
- h.- Quán hư
không khắp giáp tất cả chổ ụ
- i.- Quán thức
tâm, khắp giáp tất cả chổ
- 7.- Bát bối
xã quán:
- Bát xã quán
yức là tám phép quán có thể trái bỏ(bối xả) cảnh giới Tứ thiền,
tú định của thế gian, dể thành tựu pháp xuất thế gian. Tám phép
bối xả quán là:
- a.- Trong có
sắc tướng, ngoài quán sắc để trái bỏ cảnh giới Sơ thiền.
- b.-Trong
không sắc tướng, ngoài quán sắc, để bỏ cảnh giới Nhị thiền .
- c.- Quán
thanh tịnh để trái bỏ cảnh Tam thiền và Tứ thiền .
- d.- Quán trái
bỏ Hư không vô biên xứ.
- Ð.- Quán trái
bỏ Thức vô biên xứ
- e.- Quán trái
bỏ Vô sớ hữu xứ
- ê.- Quán trái
bỏ Phi tưởng, phi phi tưởng xứ.
- f.- Quán trái
bỏ diệt thọ tưởng.
- 8.- Bát thắng
xứ quán:
- thắng có
nghĩa là thù thắng, là hơn. Tám phép quán nầy về cảnh sở quán,
cũng như công đức thu thập được trong khi thu hành, đều thù
thắng hơn tám món Bối xã trên, nên gọi là ''Bát thắng xứ
quán'''.
- a.- Trong có
sắc tướng, ngoài có ít sắc, thắng xứ.
- b.- Trong có
sắc tướng, ngoài quán nhiều sắc, thắng xứ
- c.- Trong
không sắc tướng, ngoài quán ít sắc ,thắng xứ
- d.- Trong
không sắc tướng, ngoài quán nhiều sắc, thắng xứ
- đ.- Quán sắc
xanh, thắng xứ
- e.- Quán sắc
vàng, thắng xứ
- ê.- Quán sắc
đỏ, thắng xứ
- f.- Quán sắc
trắng, thắng xứ
- 9.- Lục diệu
pháp môn:
- Lục diệu pháp
môn là sáu phép môn mầu nhiệm sau đây:
- a) Số. b)
Tùy. c) Chỉ. d) Quán. e) Hoàn. f) Tịnh.
- (Xem quyển
Lục Diệp pháp môn)
- 10.- Bát niệm
xứ:
- Với phép quán
tám niệm sau nầy,thiền giả sẽ trừ đượcsự sợ hãi khi tu cửu tưởng
và sẽ được đạo quả
- a)Niệm Phật.
b) Niệm pháp . c) Niệm tăng. d) Niệm giới. f) Niệm xả. g) Niệm
hơi thở ra vào. h) Niệm chết(nhớ chết).
- 11.- Thập
quán tưởng:
- Thập quán
tương gồm có:
- a). Tưởng vô
thường, b). Tưởng khổ, c), Tưởng vô ngã , d). Tưởng ăn vật bất
binh, đ). Tưởng thế gian không vui, e). Tưởng chết, f). Tưởng
bất tịnh, g). Tưởng đoạn, h). Tưởng lìa, i). Tưởng hết.
- 12.- Cửu thế
đệ định:
- Cửu thế đệ định là 9 món
thiền-định mà thiền-giả sẽ tùaan tự theo thứ lớp tu-luyện: từ
Sơ-thiền đến Tứ-thiền, rồi đến Tứ-định, và cuối cùng, cộng thêm
định Diệt-thọ-tưởng là chín món tất cả.
- 13.- Sư-tử
phấn tấn Tam-muội:
- Với pháp thiền này, hành-giả bắt
đầu tham-thiền như pháp Cửu-thứ-đệ định nói ở trên, nghĩa là bắt
đầu từ Sơ-thiền đến thiền-định thứ chín là Diệt-thọ-tưởng định,
rồi đi ngược trở lại, từ thiền thứ chín đến Sơ-thiền. Thiền-giả
tới lui trong thiền-định một cách thông suốt, tự-tại, đường
hoàng, oai nghi như dáng đi đứng, tiến thoái của con sư-tử, nên
gọi là ''Sư-tử phấn tấn tam-muội ''. Kết quả của lối thiền này,
nếu được hòan toàn siêu-việt thì thiền-gỉa sẻ là Bồ Tát. Nếu
không hoàn-toàn tự-tại và chưa siêu-việt thì thành Thanh Văn.
- 14.-Ba mươi
bảy pháp trợ đạo:
- Thiền-giả cũng có thể lấy một
pháp-môn hay nhiều pháp-môn trong số 37 pháp trợ-đạo để
tham-thiền, tu-luyện. Ba mươi bảy pháp trợ-đạo đã có nói rỏ
trong Phật-học Phổ-thông khóa ba. Ơí đây, chúng tôi chỉ xin nhắc
qua để quý độc-giả nhớ lại thôi:
- a). Ngũ căn
b). Ngũ lực
- c). Tứ chânh
cần d). Tứ như ý túc
- đ). Tứ niệm
xứ e). Thất Bồ-đề phần
- ê). Bát chánh
đạo phần.
- Kết Luận Về
Nhị Thừa Thiền
- Các pháp tu
thiền của Nhị-thừa hay Tiểu-thừa nói trên, như quý độc-giả đã
thấy, nhiều không thể kể xiết. Tuy thế, hành-giả muốn cho có kết
quả, phải chọn lựa phương pháp nào thích-hợp với trình-độ của
mình, chứ không phải gặp pháp môn nào tu theo pháp-môn nấy được.
Sự lựa-chọn nầy cũng cần được các bậc thầy hướng-dẫn. Vì-thế,
chúng ta thường nghe ngày xưa các vị chaan tu đi '' cầu pháp '',
hết xứ nầy đến xứ nọ, không quản công lao khó-nhọc, có nhiều khi
hy-sinh cả tính mạng nữa. Cầu pháp nghĩa là tìm cầu minh sưchỉ
dạy phương-pháp tu hành, như Ngài Thiện-Tài đi tham-cầu 53 vị
Thiện-triều-thức, Ngài Huyền-Trang đi khắp nước Trung Hoa rồi
sang Ấn Ðộ để cầu Pháp. Hành-giả sau khi được vị minh-sư nhận
lời, còn phải theo hầu hạ một thời-gian rất lâu để vị minh-sư ấy
quan sát, thăm dò căn cơ, trình độ một cách chu đáo, như Ngài
Xá-lợi-phất đem pháp Sổ-tức dạy người giữ nghĩa-địa, hay pháp
quán Bất-tịnh dạy người thợ rèn tu, thì chỉ hoài công vô ích,
chứ không kết-quả gì hết.
- Hành-giả cũng
nên nhớ một đe\iều nữa, là trên bước đường tu hành chớ nên
bôn-chôn, nóng-nảy vô ích. Sự tu hành củng như trồng cây, không
theẻ nóng nảy được. Người trồng cây, lo vô phân tưới nước, làm
đây đủ bổn phận của mình, rồi kiên-nhẫn chờ đợi; đến khi đủ sức
đúng thời tiết, cây sẽ tự đơm bông trổ trái một cách tự nhiên.
- Người tu hành
củng vậy, cứ hằng ngày lo tu tập, tích-trữ nhiều năm, đến khi
công tròn quả mãn, thì được mminh tâm kiến tánh.
- Hãy nhớ rằng
tu-hành phải trải qua nhiều đời nhiều kiếp, chứ không thể mới
một hai đời mà thành Phật được.
- IV.- Ðại Thừa
Thiền
- Ðại-thừa
Thiền là pháp tu thiền bực của Ðại-thừa, củng gọi là
xuất-thế-gian thượng thượng thiền. Pháp thiền này chỉ dành riêng
cho những người thượng căn rất thông-minh và lanh-lợi tu. Những
bực Ðại-thừa Bồ Tát đã nhiều đời nhiều kiếp tu hành, phá hết các
phiền nảo thô-trược, chỉ còn vi-tế vô-minh, nếu kiếp này gặp
được minh-sư chỉ giáo cho phép tu Ðại-thừa thiền nầy, thì sẽ
được ttỏ ngộ. Cũng như cành hoa sắp nở, chỉ thêm chút ít công
phu vun tưới, thì hoa sẽ trổ ngay. Yếu-tố căn bản của Ðại-thừa
thiền là trí-huệ. Thiền-giả phải lấy trí-huệ để tự quan sát
tamm-tánh. Nếu thiếu trí-huệ, thiền-giả khó được kết-quả khi tu
theo Ðại-thừa thiền.
- Các Pháp
Thiền Ðịnh Của Ðại Thừa
- Các pháp
thiền-định của Ðại-thừa rất nhiều như: Pháp-hoa tam-muội, niệm
Phật tam-muội, Ban châu tam-muội, Giác ý tam-muội,
Thủ-tăng-nghiên tam-muội, Tứ-tánh-thiền, Nhứt-thế-thiền, Nhứt
thế môn thiền, Thiện nhơn thiền,, Nhứt tế hạnh thiền, Trừ
phiền-não thiền, Thử thế tha thế thiền, Thanh-tịnh tịnh thiền,
Tự-tánh thanh-tịnh thiền, Như lai tối thượng thừa thiền, Ðat-ma
sư-tổ thiền .v.v.
- Dưới đây
chúng ta hãy nghiên cứu qua một số pháp thiền-định thông thường
của Ðại-thừa.
- 1.- Sao gọi
là '' Pháp hoa tam-muội ''?
- Phương pháp
nay dựa theo kinh Ðại phẩm Bát-nhã. Hành-giả tu pháp này, tâm ý
giác-ngộ tất cả các pháp và được vô-sanh-nhẫn (độc giả nào muốn
rỏ thêm, hảy xem lời bình luận của Ngài Trí-Giả-Ðại-Sư).
- 4.- Sao gọi
là '' Thủ nghiêm tam muội ''?
- Phương-pháp
này căn cứ theo kinh Thủ-lăng-nghiêm. Hành-giả phải nhận chân
rằng các pháp đều từ thưc-thể như là Như-Lai-Tạng tamm mà tùy
duyên biến-hiện, như huyễn, như hóa. Hiểu rỏ các pháp đều như
huyễn như hóa, rồi dựa theo lý ấy mà tham-thiền nhập-định, nên
cũng gọi là như hiển tam-muội.
- 5.- Sao gọi
là '' Tự-tánh thiền, Nhứt thế thiền, nan thiền .v.v..''?
- các món thiền
như ''Tự tánh thiền, Nhứt thế thiền, Nan thiền, Nhứt thế môn
thiền. Thiện nhơn thiền, Nhứt thế hạnh thiền, Trừ phiền não
thiền, Thử thế tha thế thiền, Thanh- tịnh tịnh thiền '', gồm cả
thảy chín món và được gọi là Ðại-thừa thiền.
- Sở dĩ, gọi
các món thiền naylaf Ðại-thừa thiền, vì các vị Bồ Tát nhờ y theo
các món thiền này mà tấn tu làm nên được công-hạnh rộng lớn,
thắm sâu không thể lường được (độc giả nào muốn hiểu rỏ thêm,
hảy đọc quyễn '' Pháp giới thứ đệ sang môn '' do Ngài Trí-Giả
Ðại-Sư soạn).
- 6.- Sao gọi
là '' Trực-chỉ thiền ''?
- Trực-chỉ
thiền là pháp thiền chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật,
không dùng phương-tiện tu quán và cũng không cần kinh giáo.
- 7.- Sao gọi
là '' Như-lai thanh-tịnh thiền''?
- Như-lai
thanh-tịnh thiền là pháp thiền thanh-tịnh của Như-lai. Như chúng
ta đã biết, Ðức-Phật Thích-Ca trước khi chưa thành đạo, đã ngồi
tham-thiền 6 năm dưới gốc cây Bồ- đề. Sau khi phá trừ hết vô
minh phiền-não, tâm được thanh tịnh, Ngài chứng được đạo Bồ-đề.
Do đó, phép thiền này được gọi là '' Như-lai thanh-tịnh thiền''.
- 8.- Sao gọi
là '' Như-lai Tối-thượng-thừa thiền ''?
- Ðây là phép
thiền cao-siêu hơn tất cả các phép thiền mà đức Như-lai đã
ứng-dụng.
- 9.- Sao gọi
là Ðạt-Ma Tổ-Sư thiền ''?
- Như chúng ta
nghe, Ngài Ðạt-Ma sau khi từ Ấn Ðộ sang Trung Hoa truyền đạo, đã
ngồi xây mặt vào tường chín nằm, tại chùa Thiếu-Lâm để
thamm-thiền. Ðat-Ma Tổ-sư thiền tức là phép thiền mà Ngài đa xtu
luyện ở chùa Thiếu-Lâm vậy.
- Các phép
thiền của Ðại-thừa, như quý độc-giả đã thấy ở phần trên, tuy
nhiều không kể xiết, tựu-trung có thể chia làm hai loại lớn:
- 1.- Một loại
thường gọi là tam-muội, căn cứ theo kinh sách của Phật Tổ truyền
dạy mà tu tập, có tu có quán, có phương-pháp nhất định, như
Pháp-hoa tam-muội, Niệm Phật tam-muội, Ban-châu tam-muội, Giác-ý
tam-muội, Thủ-tăng-nghiêm tam-muội v.v...Các loại tam-muội này
vì có quy củ, có phương pháp nhất định và được phổ biến bằng văn
tự, tương đối ít khó khăn và bí hiểm hơn loại thư hai mà chúng
tôi sắp nói dưới đây, nên được nhiều người tu luyện và số người
thành tựu cũng nhiều.
- 2.- Một loại
thứ hai, được truyền dạy không căn-cứ theo kinh-giáo, không có
văn tự, tức là loại thiền '' giáo ngoại biệt truyền, bất lập
văn-tự '', như các pháp '' Trực-chỉ thiền, Như-lai thanh-tịnh
thiền, Tự-tánh thanh-tịnh thiền, Như-lai tối-thượng thừa thiền,
Ðạt-Ma Tổ-sư thiền v.v...Với loại thiền này là người ngộ trước
dùng tâm giác-ngộ của mình để ấn-chứng cho người sau giác ngộ.
Ðó tức là loại thiền '' Dĩ tâm ấn tâm, trực chỉ nhơn tâm kiến
tánh thành Phật '': Vị minh-sư dùng tâm mình đễ tiếp xúc với tâm
đệ tử, truyền thẳng sự giác ngộ của mình qua tâm của đệ-tử; như
dùng ngộn đèn sáng chói mà tâm mình mã bừng phát ra để chiếu vào
tâm đệ-tử; và tâm này cũng lại nhờ ảnh hưởng trực-tiếp của sự
giác-ngộ của thầy mà bừng sáng lên và truyền nối từ thầy đến
trò, từ đời này sang đời khác. Loại thiền náy tức là loại thiền
đa xây dựng truyền nối từ Ðức-Phật Thích-Ca xuống cho đến Ngài
Lục-tổ. Ðây là một lối '' truyền đạo'' hay ''truyền đăng'' trực
tiếp linh động chính thống, nhưng không phổ biến như lối trên,
vì mỗi đời chỉ truyền cho mỗi người, chứ không thể truyền cho
nhiều người trong một lúc được. Và người được ấn chứng phải là
một vị có trí-huệ xuất chúng, siêu phàm không ai sánh kịp.
- Cách truyền
dạy pháp thiền này có hai lối:
- a). Tham cứu
một câu thoại đầu. Thoại đầu là một câu nói thiền hay ''
công-án'', nghĩa là một đề án hay luận án gồm một câu rất ngắn,
nhưng y-nghĩa sâu-xa, đối với người thường không hiểu được.
- Khi một vị Tổ
của phái Thiền-Tôn này nhận thấy trong hàng đệ-tử của mình có
một vị xuất chúng, có thể giữ giềng mối đạo tiếp nối sự nghiệp
của Thiền-tôn và tỏ ngộ đạo mầu được, thì vị Tổ trao cho vị
đệ-tử ấy một câu thoại-đầu (một luận-án, như bây giờ, các vị bác
sĩ hay tiến sĩ, trước khi ra trường, phải nạp cho ban giám
khảo). Vị đệ-tử này, đêm ngày tham cứu câu thoại-đầu ấy, có
nhiều khi trải qua một thời gian mười năm hoặc mười lăm năm mới
tỏ ngộ được. Sau khi xét thấy đệ-tử của mình đã tỏ ngộ đạo mầu
rồi, vị Tổ-sư mới ấn chứng cho.
- b). Nhưng
nhiều khi vị Tổ-sư lại không trao cho đệ-tử của mình một câu
thoại-đầu để tham cứu, mà lại dùng những hình thức rất lạ-lùng,
người thường khó có thể hiểu được như : đánh, hét, ra dấu, mời
ăn cơm, uống nước trà v.v...chẳng hạn; như có một vị đệ-tử đến
cấu đạo với một vị Tổ-sư, vị này không nói gì cả, chỉ dùng
Thiền-tượng (roi thiền) đánh dập vị đệ-tử kia, để xem sự phản
ứng ấy như thế nào. Do sự phản ứng mà vị Tổ-sư biết được vị
đệ-tử kia đã giác ngộ hay chưa.
- ( Xem Pháp
Bảo Ðàn Kinh).
- Tóm lại, pháp
thiền này rất là màu nhiệm, không thể nghĩ bàn được, cho nên
người xưa có nói: '' Thiền cơ huyền diệu'' ( máy thiền
mầu-nhiệm). Các vị Tổ-sư trong khi truyền đạo, không dựa theo
một nguyên tắc, một phương pháp gì nhất định cả. Các Ngài tùy
theo thời cơ mà ứng-biến, nghĩa là quan sát căn cơ của người cầu
đạo, xét đã đúng thời chưa, và phải dùng phương pháp gì cho vị
đệ-tử kia được ngộ đạo, rồi các Ngài tùy cơ lập pháp. Tất nhiên
phương-pháp này các Ngài dùng chỉ trong nhất thời thôi. Do đó,
mà không thể biết trước được các Ngài sẽ dùng phương-pháp gì để
truyền thọ.
- Về sau cũng
có người bắt chước những phương-pháp như đánh, hét v.v...nhưng
vì không biết quán thời cơ, nên chỉ làm cho người đau và sợ mà
thôi, chứ không có hiệu quả gì.
- Hệ Thống
Truyền Thừa Của các Tổ Trong Phái Thiền Tông Tại Aán Ðộ
- 1.-Ngài Ma Ha
Ca Diếp, Sơ-tổ của Thiền-tôn ở Ấn Ðộ:
- trong kinh Phạmthiên vấn Phật
quyết nghi và trong bộ "Thích nghi kê cổ " quyển nhất,chùa chép
đại khái như sau: khi Phật ở hội Linh Sơn, có ông Ðại Phạm Thiên
Vương, đem hoa sen dâng cúng Phật. Phật cầm cành hoa sen lên để
khai thị cho đại chúng (thiền cơ). Tòan thể chúng hội đều yên
lặng, không ai hiểu thâm ý của Phật như thế nào. Duy có Ngài Ma
Ha Ca Diếp là tỏp ngộ được thiền cơ của Phật, nên đổi sắc mặt
vui vẻ, chúm chím mỉm cười (phá nhan vi tiếu). Ðức Phật nhận
thấy, liền ấn chứng (chứng nhận) cho Ngài Ca-Diếp được đắc
truyền và làm tổ thứ nhất (Sơ tổ ở Ấn Ðộ) Phật tuyen bố như sau:
- Nguyên văn:
- Ngô hữu chánh
pháp nhãn tạng
- Niết bàn diệu
tâm, thật tướng vô tướng,
- Vi diệu pháp
môn, kim phú Ma Ha Ca Diếp
- Dịch nghĩa:
- Ta ương"chánh
pháp nhãn tạng",cũng gọi là Niết bàn diệu tâm", cũng tên là thật
tướng vô tướng" cũng gọi là "Vi diệu pháp môn", nay ta truyền
cho ông Ma Ha Ca Diếp.
- Sau đó, Phật
truyền y bát và nói bài kệ truyền pháp như sau:
- Nguyên văn:
- Pháp pháp bổn
vô pháp
- Vô pháp pháp,
diệc pháp
- Kim phú vô
pháp thời
- Pháp pháp hà
tằng pháp.
- Dịch nghĩa:
- Các pháp vốn
không pháp
- Không pháp
cũng là pháp
- Nay truyền
cái vô pháp (vô tướng)
- Vô pháp nào
có pháp.
- Ðây là nguồn
gôc phát khởi Thiền tôn, lấy tâm truyền tâm (dĩ tâm ấn tâm)
không dùng kinh giáo và phương tiện.
- 2.- Ngài
A-Nan, Tổ thứ hai của Thiền tôn ở Ấn Ðộ:
- một hôm Ngài
A-Nan hỏi Ca-Diếp:
- - Ngòai việc
truyền y bát, đức Thích tôn còn truyền pháp gì riêng cho Ngài
nữa không?
- Tổ Ca-Diếp
gọi to:
- - A-Nan !
- Ngài A-Nan:
Dạ !
- Tôí dạy tiếp:
- - Cây sào
phướn trước của chùa ngã !
- Ngài A-Nan
lièn tỏ ngộ Thiền cơ, nên được tổ Ca-Diếp truyền y bát và ấn
chứng cho làm vị tổ thứ hai. (xem Phật học từ điển, trang 1638
về mục "Ca-Diếp can sát").
- Từ Ngài A-Nan
trở về sau, có thêm 26 vị Tổ về Thiền tôn nữa. Cộng cả Ngài
Ca-Diếp và Ngài A-Nan, ở Ấn Ðộ có cả thảy là 28 vị Tổ, thứ lớp
tuần tự như sau:
- 1 .- Tổ Ma Ha
Ca Diếp
- 2. Tổ A-Nan
- 3. Tổ
Thương-Na Hòa-Thứ
- 4. Tổ Ưu-Ba
Cúc Ða
- 5. Tổ
Ðề-Ða-Ca
- 6. Tổ di giá
ca
- 7. Tổ bà tu
mật
- 8 Tổ Phật Ðà
Nan Ðề
- 9 Tổ Phục Ðà
Mật Ða
- 10 Tổ Hiếp
Tôn Giả
- 11 Tổ Phú Na
Giạ Xa
- 12 Tổ Mã Minh
- 13 Tô ừCa Tỳ
Ma La
- 14 Tổ Long
Thọ
- 15 Tổ Ca Na
Ðề Bà
- 16 Tổ La Hầu
Na Ða
- 17 Tổ Tăng
Già Nan Ðề
- 18 Tổ Già Ða
Xá Ða
- 19 Tổ Cưu Ma
La Ða
- 20 Tổ Xà Giạ
Ða
- 21 Tổ Bà Tu
Bàn Ðầu
- 22 Tổ Ma Noa
La
- 23 Tổ Hạc Lặc
Na
- 24 Tổ Sư Tử
- 25 Tổ Bà Xá
Tư Ða
- 26 Tổ Bát Như
Mật Ða
- 27 Tổ Bát Nhã
Ða La
- 28 Tổ Bồ Ðề
Ðạt Ma.
- (Theo truyện
Phú Pháp Tạng Nhơn duyên)
- Hai mươi tám
vị tổ này được làm rực rỡ cho Phật Giáo ở Ấn Ðộ, chứ không cho
riêng gì Thiền Tôn Phật Giáo sau này được lan rộng trên toàn
cầu, một phần lớn do công đức của 28 vị Tổ này. Ngày nay khi
nhắc đến những tên như Ma Ha Ca Diếp, A Nan, Hiếp Tôn Giả, Mã
Minh, Long Thọ, không một Phật tử nào là không biết đến. Và sự
kiện này chứng tỏ rằng phần lớn các vị Tổ có tiếng tăm đều ở
trong Phật Thiền Tôn. sự nhận xét này không những được chứng
minh ở Ấn Ðộ, mà cả đến Trung Hoa, Nhật-Bản và đến Việt-Nam nữa.
- Sự Truyền
Thừa Thiền Tông Ở Trung Hoa
- 1.- Ngài Bồ
Ðề Ðạt Ma, sơ Tổ của Thiền Tôn ở Trung Hoa.
- Sau khi Ngài Bát Nhã Ða La, vị
Tổ 27 của Thiền Tôn ở Âún-Ðộ, ấn chứng cho làm tổ thứ 28, Ngài
Bồ Ðề Ðạt Ma ở lại Ấn Ðộ ít lâu, rồi vâng lời phú chúc của sư
phụ, Ngài sanh Trung Hoa truyền đạo.
- Ngài sang
Trung Hoa nhằm vào đời vua Lương Võ Ðế (528 dl.) trị vì, Ngài
đến yết kiến vua và hy vọng rằng vua sẽ giúp một tay đắc lực
trong việc truyền bá Phật Giáo ở Trung Hoa. Nhưng nhận thấy căn
cơ của vua còn thấp thỏi và tín ngưỡng của vua chỉ có tánh cách
hình thức bề ngoài, nên tổ Ðạt Ma được giả từ vua đến tu tại
chùa Thiếu Lâm, ở Trung Sơn (đất Ngụy). Ngài ngồi xâymặt vào
tường, tham thiên nhập định trong chín năm, đợi thời cơ thuận
tiện để truyền đạo ( xem quyển tổ Ðạt Ma, do Hương Ðạo xuất
bản). Chính lối tham thiền này mà đòi sau có tên là ''Ðạt Ma tổ
sư thiền ''. trong thời gian chín năm, Ngài tham thiền ở Thiếu
Lâm, có nhiều vị tu sĩ nghe danh Ngài , đến cầu đạo, nhưng Ngài
không tiếp một ai. Ðó cũng là một phương pháp dò xét căn cơ, tâm
tánh của những người đến cầu đạo có thiết tha với đạo hay không.
Trong số những người đến cầu đạo này, chỉ có một vị tỏ ra vô
cùng kiên nhẫn nhiệt thành, dám hy sinh tất cả vì đạo. Ðó là
Ngài Thần Quang mà sau này được tổ Ðạt Ma ấn chứng cho làm tổ
thứ hai của Thiền Tôn ở Trung Hoa, và đổi pháp hiệu là Huệ Khả.
- Dể làm kim
chỉ nam cho người tu thiền đơui sau, tổ Ðề Ðạt Ma còn truyền lạ
bộ kinh Lăng Già gồm 4 quyển, rất có giá trị.
- 2.- Ngài Huệ
Khả (Thần Quang) vị tổ Thiền Tôn thứ hai ở Trung Hoa.
- Ngài Thần
Quang, nghe danh tổ Ðạt Ma đến cầu đạo. Nhưng tổ không tiếp.Ngài
Thần Quang quỳ đọei luôn mấy năm suốt mấy năm ở ngoài hiên chùa;
nhưng tổ cũng không đoái hoài đến không. Cuối cùng, để tỏ lòng
chí thành tột mức của mình. Lúc bấy giờ tổ Ðạt Ma mới xoay lại
hỏi:
- Ông đến đây
cầu gì?
- Ngài đáp:
- Con cầu pháp
an tâm.
- Tổ bảo:
- Ông đem tâm
đến đây để ta an cho.
- Ngài thưa:
- Con tìm tâm
không được.
- Tổ dạy:
- Ta đã an tâm
cho ông rồi đó !
- Ngài liền ngộ
đạo. Tổ Ðạt Ma nói bài kệ sau đây, trong khi truyền pháp cho
Ngài Huệ Khả:
- Nguyên văn:
- Ngô bổn lai
tư độ
- Truyền pháp
độ mê tình
- Nhất hoa khai
ngũ diệp
- Kết quả tự
nhiên thành.
- Dịch nghĩa:
- Ta đến nước
Trung Hoa
- Truyền pháp
độ kẻ mê
- Một bong trổ
năm cánh
- Kết quả tự
nhiên thành.
- 3.- Ngài Tăng
Xán, vị tổ thứ ba của Thiền ở Trung Hoa.
- Ngài Huệ Khả,
sau một thời gian hành đạo, lại ấn chứng cho Ngài Tăng xán làm
vị Tổ thú bacu thiền tôn ở Trung Hoa.
- 4.- Ngài Ðạo
Tín, vị tổ thứ tư của Thiền tổ ở Trung Hoa.
- Tổ Tăng Xán
truyền pháp cho Ngài Ðạo Tín là vị tổ thứ tư. Sự truyền pháp ại
chia ra làm hai dòng, do hai ngài sau đây cầm đầu.
- Ngài Hoằng
Nhẫ ở núi Ðông Sơn, huyện Hùynh Mai.
- Ngài Pháp
Dung ở non Ngưu Ðầu, cũng gọi là "Ngưu Ðâu Thiền".
- 5.- Ngài
Hoằng Nhẫn,vị tổ thứ năm của Thiền tôn ở Trung Hoa.
- Chữ Hoằng
Nhẫn có nghĩa là kiên nhẫn tột độ, chịu đựng lâu dài. Hai chữ
này có thể tóm tắt cho cả một câu chuyện truyền pháp, bao hàm
nhiều tính chất nhẫn nhục sau đây:
- Một hôm Ngài
Ðạo Tín, vị tổ thứ tư Thiền tôn,thấy một ôn già đến cầu đạo, căn
tánh thông lợi,có thể được truyền thọ đạo pháp. Nhưng vì tuổi
ông đã già, chẳng còn sống được lâu nên Tứ tổ dạy:
- Ta đã già,
ông đã già ! Nếu truyền pháp cho ông ít ngày ta chết, rồi ông
cũng chết, thì ai ở lại mà truyền đạo? Vậy nếu ông có thhể đi
đổi xác, ta sẽ truyền đạo cho ! Ông già thưa:
- Nếu con đi
đổi xác chưa xong, mà lỡ Tổ được tịch trước, thì làm sao truyền
đạo cho con được?
- Ðức Tứ tổ
dạy:
- Ta sẽ ở nán
lại cỏi đời để chờ ông.
- Vâng lời tổ
dạy, ông giá đi vòng theo dòng suối, thấy một cô gái gồi giặt
bên bờ. Ông già hỏi:
- Cô cho tôi
ngủ nhờ một đêm, có được không?
- Cô gái thưa:
- ông hãy hỏi
cha mẹ cháu.
- Ông già nói
tiếp:
- Nếu cô bằng
lòng thì tôi hỏi sau.
- Cô gái trả
lời:
- Dạ bằng lòng
- Ðược lời, ông
già đi khuất vào rừng rồi bỏ xác.
- Còn cô giá
kia, không có chồng mà từ dó trở nên có mang. Bị cha mẹ đánh
đuổi, cô gái phải bỏ nhà đi ăn xin vất vã, nhẫn chịu không biết
bao nhiêu điều khổ nhục. Sau khi sanh được đứa bé được vài tuổi,
cô bồng nó vào chùa. Ðứa bé vừa trông thấy Tứ tổ, mừng rỡ mỡ
miệng cười. Tổ nói:
- -Ta đang
trông đợi ngươi đây !
- tổ xin đứa bé để nuôi và đặt tên
là Hoằng Nhẫn. Ngài đặt tên ấy là có ý rằng: Tổ đã nhẫn đợi,
chưa chết để chờ truyền đạo, và bà mẹ đã chịu bao sự nhục nhã,
oan ức, khổ sở để sanh đứa bé.
- Tổ Ðạo Tín
nuôi đứa bé cho đến khi khôn lớn ròi truyền pháp cho. Ngài Hoằng
Nhẫn tức là vị tổ thứ năm của Thiền Tôn. sau khi truyền đạo
xong, tứ tổ Ðạo Tín mới viên tịch (xem Quy Nguyên Trực Chỉ âm
nghĩa).
- 6.- Ngài Huệ
Năng vị tổ thứ sáu của Thiền Tôn ở Trung Hoa.
- Ngài Huệ Năng
lúc nhỏ nhà nghèo, không biết chử, chuyên nghề đốn củi đem bán
lấy tiền về nuôi mẹ già. Một hôm, gánh củi đến bán cho một nhà
phú ông. Trong khi chờ đọi Ngài lắng nge chủ nhà tụng kinh Kim
Cang. Ðến câu ''ưng vô sở trụ nhi sanh kì tâm '', Ngài liền ngộ
đạo.
- Ðợi cho chủ
nhà tụng kinh xong, Ngài trầm trộ khên ngợi và hỏi rằng:
- Chẳng hay ông
tụng kinh gì mà hay quá vậy?
- Tôi cũng mốn
thọ trì tụng đọc như ông.
- Phú ông mách
cho Ngài:
- Tại núi Ðông
Sơn, huyện Huỳnh Mai có đức Ngủ tổ, thường truyền Phật độ người,
ông nên đến đó mà mà cầu đạo.
- - Ngài trả
lời:
- Tôi cũng muốn
như thế lắm; ngặt còn mẹ già không ai nuôi dưỡng nên không biết
liệu làm sao !
- - Phú ông
bảo:
- Nếu ông thật
quyết chí xuất gia cầu đạo, thì hãy về cố gắng đốn củi tật
nhiều, đem đến đây tôi sẽ đổi vàng cho. Ông lấy vàng ấy để lại
nuôi mẹ, rồi đi xuất gia.
- - Ngài Huệ
Năng mừng rỡ trở về, ngày đêm cố gắng đốn thật nhiều củi, đem
đến bán cho Phú ông, và sau khi thu xếp việc nhà xong xuôi, Ngài
đến huyện Huỳnh Mai cầu bái yết đức Ngũ tổ Hoằng Nhẫn.
- - Ngũ tổ thấy
Ngài hỏi:
- Ông ở đâu đến
và đến đây để cầu việc gì?
- - Ngài đáp:
- Con từ phương
Nam đến đây, để cầu làm Phật.
- Ngũ tổ thấy
hình thù Ngài kì dị, nhưng căn tánh lại thông lợi phi thường, có
thể nối Tổ vị sau này. Ngài không muốn trong chúng biết, nên giả
quở to rằng:
- Ông là người
mọi rợ phương Nam mà cầu thành Phật làm gì?
- - Ngài Huệ
Năng trả lời:
- Bạch tổ sư !
Thân người tuy có phân chia kẻ Nam người Bắc, chứ Phật tánh vẫn
bình đẳng, không phân biệt Nam, Bắc.
- Ngũ tổ sợ
trong công chúng để ý, lộ bí mật nên chẳng hỏi han gì nữa, mà
truyền cho Ngài xuống nhà trù công giã gạo
- Trải qua một
thời gian lâu, một hôm Ngũ tổ thấy mình được già, muốn chọn
người truyền Tổ vị, nên tuyên bố rằng:
- Nếu ai làm kệ
dâng lên, được tỏ ngộ thiền cơ, thì sẽ ấn chứng và truyền pháp
cho làm Tổ thứ sáu.
- Tin này được
truyền ra rất mau chóng.
- Trong chúng
mọi người đều nô nức, xôn xao bàn tán:
- Trong chúng
chỉ có Thưởng tọa Thần Tú là thông minh, học nhiều và tài giỏi
hơn hết, chắc thế nào Thượng tọa củng được truyền tổ vị.
- Nhưng Thượng
tọa Thần Tú lại không dám tin chắc mình sẽ được cái may mắn ấy,
nên không dám trực tiếp đem dâng bài kệ của mình cho Ngủ Tổ.
Thượng tọa đợi đêm khuya thanh vắng, trong chúng đều ngủ cả, mới
cầm đèn hồi hợp đến víwt một bài kệ trên vách phía đông lang và
không dám ký tên. Thượng tọa Thần Tú nghĩ thầm:" Nếu nhờ công
phu tu hành bấy lâu mà bài kệ này được trúng ý Tổ, thì đây là
một diễm phúc lớn lao vô cùng cho ta. Lúc bấy giờ ta sẽ ra bái
nhận, bằng không thì ta sẽ làm thinh như không ai biết".
- Nguyên văn:
- Thân thị
Bồ-Ðề thọ
- Tâm như minh
cảnh đài
- Thời thời
thường phất thức
- Dật sử nhá
trần ai.
- Dịch nghĩa:
- Thân là cây
Bồ-Ðề
- Tâm như đài
gương sáng
- Thường ngày
hằng quét lau
- Chớ cho dính
bụi trần.
- Sáng nay,tăng
chúng qua lại thấy bài kệ xuất hiểntên vách đông lang, ai nấy
đều trầm trồ kính phục:
- -Ðây rồi! Kế
tổ vị đây rồi!Nếu không phải Thượng tọa Thần Tú thì còn ai
nữa!nghe tăng chúng trầm trồ khen ngợi, nô nức kéo nhau đến xem
bài kệ, Ngài Huệ Năngcủng từ nhầ trùtheo chúng lên xem. Sau khi
xem xong bài kệ,Ngài Huệ Năng nói:- Còn đứng ngoài cửa rào.
- Kẻ qua người
lạinghe Ngài nói thế, bĩu môi khinh bỉ:
- -Ðã dốt nát
không biết một chữ thế kia, mà dám chê là còn đứng ngoài cửa
rào!
- Ngài Huệ Năng ôn tồn bảo:
- -Tôi củng có
một bài kệ, xin các Ngài viết lên vách giùm tôi, vì tôi không
biết chữ.
- Một người
liền hoan hỷ viết hộ. Huệ Năng đọc bài kệ sau đây:
- Nguyên văn:
- Bồ-Ðề bổn vô
thọ
- Tâm phi minh
cảnh đài
- Bổn lai vô
nhứt vật
- Hà xứ nhá
trần ai?
- Dịch nghĩa:
- Bồ-Ðề vốn
không cây
- Tâm không
phải đài gương
- Xưa nay không
một vật
- Chỗ nào dính
bụi trần?
- Nghe xong bài
kệ, mọi người dều kinh ngạc: Không ngờ một người dốt nát như
thếmà lại làm được bài kệ xuất sắc thâm diệu như thế?
- Ngủ Tổ thấy
trong chúng xôn xao bàn tán, muốn dánh tan dư luấnco thể nguy
hại cho Ngài Huệ Năng, nên bảo trong chúng truyền đọcbài kệ của
Thượng tọa Thần Tú, mà bôi bỏ bài kệ của Ngài Huệ Năng.
- Một buổi
chiều, Ngủ Tổ một mình đi xuống nhà trù, đến chỗ Ngài Huệ Năng
giã gạo và hỏi rằng:
- - Gạo đã
trắng chưa? (mật ý hỏi: Ðạo đã ngộ chưa? )
- Ngài Huệ Năng
đáp:
- -Bạch Tổ, gạo
con giả đã trắng rồi mà còn thiếu người sàng ( mật ý Ngài muốn
nói:Ðạo con đã ngộ rồi mà còn thiếu người truyền ).
- Ngũ Tổ nghe
xong, lấy cây gậy gõ lên dầu chày ba cái rồi đi lên ( Ngủ Tỏ bảo
Huệ Năng canh ba vào phòng ).Ngài Huệ Năng vào phòng Ngủ tổ.
Ngài được Ngủ Tổ ấn chứng và truyền y bát cho Ngài làm tỏ thứ
sáu, và dạy Ngài phải đi về phương nam ngay đêm hôm ấy, để hoằng
hóa đạo pháp ( Xem quyển Lục Tổ Huệ Năng).
- Từ đó, Ngài
Lục Tổ Huệ Năng truyền pháp ở phương Nam, còn Ngài Thần Tú thì
truyền pháp ở phương Bắc. Phương Bắc chủ trương về Tiệm tu, nên
gọ là "Nam đốn, Bắc tiệm" hay" Nam Năng Bắc Tú".
- Sau đây là
bản lược đồ về sáu vị tỏ thiền tôn ở Trung Hoa:
- Sơ tổ : Ngài
Bồ-Ðề Ðạt -Ma
- Nhị tổ : Ngài
Huệ -Khả (Thần Quang)
- Tam tổ :Ngài
Tăng- Xán
- Tứ tổ :Ngài
Ðạo Tín
- Ngũ tổ :Ngài
Hoằng Nhẫn
- Ngài Ngưu Ðầu
thiền Sư
- Lục tổ :Ngài
Huệ Năng
- Ngài Thần Tú.
- Từ Ngài lục
tổ Huệ Năng về sau, không còn cái lệ truyền y bát nữa, và các tổ
không còn ấn chứng rieng cho một vị nào. Do đó trong Thiền thiền
Tôn không còn truyền thống duy nhất nữa, mà lại chia ra làm hai
phái và năm dòng sau đây:
- Hai Phái Và
Năm Dòng Thiền
- Ngài Huệ Năng
từ khi lên làm lục tổ đã truyền pháp cho rất nhiều đệ tử. Trong
số các đệ tử, nỗi tiếng hơn hết là Ngài Hoài NHượng ởở nam nhạc
và Ngài Hành Tú ở Thanh Nguyên (xêm Pháp Bảo Ðàn Kinh). Hai Ngài
này là mở đầu cho hai phái Thiền Tôn là phái Nam nhạc và
pháiTHanh Nguyên.
- Phái Nam nhạc
vè sau lại chia làm hai dòng là: Lâm tế và Quy ngưởng.
- Phái Thanh
Nguyên lại chia làm ba dòng là: Tào Ðộng, Vân Môn và Pháp Nhãn.
- Sau đây là
lược đồ của hai phái và năm dòng Thiền Tôn ở Trung Hoa.
- I pháp (thiền cơ) của
tôn Lâm Tế:
- Như chúng tôi
đã nói ở phần đầu của tập sách này, sự truyền pháp của phái
Thiền Tôn khó mà hiểu được, đói với người thường. Chẳng hạn như
trong phái Lâm tế, sự truyền pháp chỉ dùng thiền trượng đánh và
hết to lên, mà làm cho thiền giả được ngộ đạo. Cái lối khai ngộ
này khởi đầu từ Ngài Huỳnh Nghiệt Thiền-sư:
- để cầu giác
ngộ, một hôm Ngài Lâm tế hỏin Huỳnh Nghiệt:
- -Sao gọi là
đại ý Phật pháp?
- Ngài Huỳnh
Nghiệt liền lấy thiền trượng( gậy hoặc roi) đánh Ngài Lâm tế một
cái. Ba lần Ngài Lâm tế hỏi, thì ba lần được dánh như thế.
- Ngài Lâm tế
lầylam bối rối, không hiểu ý nghĩa làm sao, nên đến tham học với
Ngài Ðại Ngu Thiền sư, nhờ thế Ngài Lâm tế mợingô được tôn chỉ
của Ngài Huỳnh Nghiệt.
- Từ đó về sau,
dòng Lâm tế mỗi khi khai ngộ cho đệ tử, đều dùng phương pháp
đánh và hét ấy.
- Ngài Lâm tế
nói:"Có khi hét một tiếng như bữu kiếm kim cương vương , có khi
hét một tiéng như sư tử giậm chân , có khi hét một tiếng như quơ
cây nơi bóng cỏ, có khi hét một tiếng, không khởi cái dụng của
tiếng hét ".bởi thế nên người đời gọi là" Lâm tế tứ yết "
- (bốn tiếng
hét của Lâm tế).
- Dòng Lâm tế
sau lại chia làm hai nhánh:Dương kỵ và Huỳnh long. Từ đời Tống
về sau, dòng Lâm tế rất thạnh hành. Cho đến ngày nay về Thiền
tôn trong các Ðại tòng lâm, phần nhiều là dòng Lâm tế.
- 2.-Dòng Quy
Ngưỡng
- Tổ Bách
Trượng Thiền sư truyền cho Ngài Linh Hựu Thiền sư ở núi Quy sơn
đất Ðàm châu. Ngài Linh Hựu truyền cho Ngài Quy Ngưỡng Huệ Tịch.
- Ngài Quy
Ngưỡng là một vị Thiền sư đắc đạo, sự mầu nhiệm của Ngài , không
ai có thể lường được . ảnh hưởng của Ngài rất lớn, vì thế cho
nên người ta lấy tên Ngài để đặt tên cho cả một dòng Thiền tôn.
sự truyền đạo của Ngài củng rất kỳ lạ. Một khi có ai đến hỏi
đàothi Ngài Quy Ngưỡng chỉ vẽ tướng trâu, hoặc vẽtướng người ,
tướng Phật hay chữ Vạn, mà người được ngộ đạo.
- 3.-Dòng Tào
Ðộng:
- Sự truyền
thừa của tôn này, thứ tự như sau:
- Ngài Thanh
Nguyên Thiền Sư
- Ngài Hy Thiên
Thiền sư, tức Ngài Thạch Ðầu Hòa Thượng
- Ngài Dược Sơn
Thiền Sư
- Ngài Vân Nham
Thiền Sư
- Ngài Lương
Giới Thiền Sư ở núi Ðông Sơn
- Ngài Bổn Tịch
Thiền Sư ở núi Tào Sơn
- Ngài Vân Nham
Thiền Sư đã dùng pháp Bửu cảnh tam muội, truyền cho Ngài Lương
Giới (Ðông Sơn); Ngài lương giới cũng dùng pháp này để truyền
cho Ngài Bửu Tịch (Tào Sơn).
- 4.- Dòng
Vân-Môn:
- Sự truyền
thừa của tôn này, thứ tự như sau:
- a).Ngài
Thạch-Ðầu Thiền sư
- b).Ngài
Thiên-Hoàng.
- c).Ngài
Long-Ðàm.
- d).Ngài
Ðức-sơn.
- đ).Ngài
Tuyết-phong.
- e).Ngài
Vân-Uyển Thiền-sư ở đất Thiền-châu, Vân-môn.
- Cách truyền
pháp của Ngài Vân-Uyển (Vân-môn) cũng rất kỳ lạ, ít ai hiểu được
nghĩa lý: ai đến hỏi đạo, thì Ngài chỉ nói một chữ ''Dám''. Nếu
người cầu đạo ngần-ngại không hiểu, thì Ngài nói thêm chữ
''Di''. Vì Ngài chỉ đáp có một chữ như thế cho người cầu đạo,
nên người đời gọi pháp quán của Ngài là '' Nhứt tự quán '' (
Quán sát cái lý trong một chữ Dám hay chữ Di ''.
- 5.- Dòng Pháp-nhãn :
- Sự truyền
thừa của tôn này, thứ tự như sau:
- a). Ngài
Tuyết-phong Thiền-sư.
- b). Ngài
Huyền-sang Thiền-sư.
- c). Ngài
Xa-hán Thiền-sư.
- d). Ngài
Vân-ích Thiền-sư.
- Phương pháp
khai thị cho người đến cầu đạo của Ngài Vân-ích Thiền-sư là đúng
sáu tướng trong kinh Hoa-Nghiêm sau đây:
- - Tổng tướng:
Tức là muốn nói đến chơn-như nhứt tâm.
- - Biệt tướng:
Tức là các duyên sanh khởi từ chơn-như nhứt tâm.
- - Ðồng tướng:
Các pháp đều đồng như nhau.
- - Dị tướng:
Tùy theo mỗi tướng không bình đẳng.
- - Thành
tướng: Dựng lập ra cảnh-giới.
- - Hoại tướng:
Vị trí không đồng tức là hoại tướng.
- Thiền Tông Ở
Việt Nam
- Như chúng ta
đã biết, Phật Giáo Việt-Nam chịu ảnh hưởng sâu đậm của Phật Giáo
Trung Hoa. Cho nên, nếu ở Trung Hoa Thiền tôn được thịnh hành
truyền bá, thì ở Việt-Nam Thiền tôn củng được xem như là một
phái chính củ đạo Phật . đấy cũng là một lẽ dĩ nhiên, không có
gì là khó hiểu.
- Phật giáo
truyền vào Việt-Nam từ thế kỷ thứ II tây lịch, do các vị danh
Tăng người Ấn Ðộ và Trung Hoa, như các Ngài Ma-Ha-Ha-KỳVực, Ngài
Khương-Tăng-Hội(người Ấn Ðộ ), Ngài Mâu-Bác(người Trung Hoa).
Trong thời gian xa xưa này, chúng ta không thể biết được các vị
này thuộc tôn phái nào, và truyền vào Việt-Nam giáo lý gì. Nhưng
chúng ta có thể biết chắc là không phải phái Thiền tôn. vì Thiền
tôn ở Việt-Nam là do từ Trung Hoatruyền sang. Mà Thiền tôn ở
Trung Hoathì phải đợi đếnđầu thế kỷ thứ VI, dưới đời Lương-Võ-Ðế
(528), tổ Bồ-Ðề -Ðạt-Ma mới đưa vào. vậy thì nhất địnhlà Thiền
tôn ở Việt-Nam chỉ có thể xuất hiện vào cuối thế kỷ thứ VI Tây
lịch. Sự phỏng đoán này đã được lịch sử truyền giáo ở Việt-Nam
chứng minh. Vào năm 580 ( cuối thế kỷ thứ VI ), Ngài
Tỳ-Nhiều-Ða-Lưu-Chi, làn đầu tiên truyền thiền tôn vào Việt-Nam
, và là vị sơ tổ về Thiền tôn Việt-Nam . sau Ngài
Tỳ-Nhiều-Lưu-chi củng có nhiều vị danh tăng khácđem truyền Thiền
tôn vào Việt-Nam , và nhờ đó, Việt-Nam cũng có nhiều môn phái
Thiền tôn như ở Trung Hoa. Một diều đặc biệt, đáng hãnh diện cho
Phật tử Việt-Nam là ngoài những phái Thiền tôn ở Trung Hoa
truyền sang, ngay ở nước ta, cũng có một phái Thiền tôn do một
vị vua sáng lập, đó là phái Trúc Lâm mà vị sơ tổ là vua Trần
Nhân T@´n.
- Dưới đây,
chúng ta tuần tự nói về các môn phái Thiền tôn ấy:
- 1.-Phái
Tỳ-Nhiều-Ða-Lưu-Chi;
- a )Vị Sơ tổ
Thiền tôn ở Việt-Nam .
- Ngài
Tỳ-Ni-Ða-Lưu-Chi, người Ấn Ðộ là đệ tử Ngài Tăng-Xán (Tam tổ
thiền tôn).
- Lầìn đầu tiên
gặp tổ Tăng Xán ở núi Tư Không, thấy phong mạo của tổ khác
thường, Ngài Tỳ-Ni-Ða-Lưu-Chi sanh lòng kính phục, chắp tay đảnh
lễ. Ngài đãnh lễ ba lần mà tổ vẫn ngồi lim dim đôi ắt chứ không
nói gì hết (thiền cơ) .Ngài đứng yên nghĩ ngợi một hồi, bỗng
thấy trong người đổi khác, nhu tỏ ngộ được điều gì. Ngài liền
sụp xuống lạy ba lạy.Tổ cũng chỉ gật đầu ba cái mà thôi (thiền
cơ). Sau buổi gặp gỡ đầu tiên ấy, Ngài trở thành một trong những
đệ tử xúat sắc nhất của tổ tăng Xán.
- Về sau, Tổ
dạy Ngài sang phương nam để truyền đaọ, Ngài vâng lệnh sang
Việt-Nam vào khoảng cuối thế kỷ thứ VI, trụ trì tại chùa Pháp
vân ở tỉnh Hà Ðông.
- Khi sắp thị
tịch, Ngài gọi đệ tử là Ngài Pháp Hiển vào phòng phú chúc rằng:
- " Tâm ấn của
Phật , không có thể mập mờ được , Tâm ấn viên mãn như thái hư
không thừa, không thiếu, không đến không đi không được , không
mất, không phải đông nhất, cũng không phải sai biệt, không
thường cũng không đoạn, không sanh cũng không diệt không xa xách
cũng không phải không xa xách. Chỉ vìđối với vọng nên giả đặt ra
tên ấy (Tâm ấn) mà thôi".
- Chư Phật
trong ba đời do đó (tâm-ấn) mà được đạo. Lịch đại Tổ-sư cũng do
đó mà chứng ngộ. Ta đây cũng vậy, mà ông cũng thế, cho đến các
loại hữu tình vô tình cũng đều như thế cả.
- Khi đệ tam Tổ
Tăng-xán ấn chứng ''tâm-ấn'' cho ta, đã bảo rằng: ''Ông nên sang
phương Nam hoằng đạo, chớ ở đây làm gì''.
- Do đó, ta đi
trải qua bao nhiêu chỗ mới đến đây. Ta nay được gặp ông, thật
đúng như lời huyền-ký ấy. Vậy ông nên nhớ kỹ lời ta.
- Giờ đây nhằm lúc ta đi rồi !''
- Dạy xong, Tổ
Tỳ Ni-Ðà-Lưu-Chi chắp tay ngồi yên lặng mà tịch diệt. Ðệ-tử
trà-tỳ (thiêu) rồi thu xá lợi, xây tháp để thờ.
- Về sau, vua
Lý-Thái-Tôn có bài kệ truy-tán Ngài như sau:
- Nguyên văn:
- Sáng tự lai
Nam Quốc
- Văn quân cữu
tập thiền
- Ưĩng khai chi
Phật tín
- Viễn hợp nhất
tâm nguyên
- Hạo hạo
Lăng-già nguyệt
- Phân phân
Bát-nhã liên
- Hà thời hạnh
tương kiến
- Tương dữ
thoại trùng thuyền.
- Dịch nghĩa:
- Mở lối qua
người Việt
- Nghe Ngài
thông đạo thiền
- Nguồn tâm
thông một mạch
- Cõi Phật rộng
quanh miền
- Lăng-già ngời
bóng nguyệt
- Bát-nhã nứt
mùi sen
- Biết bao giờ
được gặp
- Ðàm-đạo lẽ
thâm-huyền.
- b). Ngài
Pháp-hiển Thiền-sư, vị Tổ thừ hai của Thiền-tôn Việt-Nam:
- Sau khi Tổ Tỳ
Ni-Ðà-Lưu-Chi tịch, Ngài Pháp-hiển là vị Tổ thứ hai của phái
Thiền-tôn Tỳ Ni-Ðà-Lưu-Chi. Ngài họ Ðỗ, quê ở Quận Chu-diên (Sơn
tây bây giờ). Khi tới chùa Pháp-Vân, Tổ Tỳ Ni-Ðà-Lưu-Chi thấy
Ngài, thì nhìn kỹ vào mặt và hỏi:
- - Chú họ gì?
- Ngài
Pháp-hiển hỏi lại:
- -Hòa-thượng
họ gì?
- Tổ lại hỏi:
- -Chú không có
họ à?
- Ngài trã lời:
- -Sao lại
không có ! Nhưng đố Hòa-thượng biết?
- Tổ quát lên:
- -Biết để làm
gì?
- Ngài
Pháp-Hiển chợt ngộ ý Tổ Tỳ Ni-Ðà-Lưu-Chi (thiền cơ) liền sụp
xuống lạy, xin theo làm đệ-tử và sau được truyền tâm-ấn.
- Ðược ít lâu,
sau khi Tổ tịch, Ngài vào núi Từ-sơn tu thiền-định, những loại
cầm thú thường quấn quýt chung-quanh. Người đời thấy thế càng
lấy làm lạ và kính mộ. Ðệ-tử tìm đến học đạo rất đông. Thiền-tôn
ở trong thời kỳ này có thể nói là thạnh nhất. Ðó cũng nhờ công
đức hoằng-hóa của Ngài Tỳ Ni-Ðà-Lưu-Chi và Ngài Pháp-hiển. Về
sau trong pháp nẫycung có nhiều vị thiền-sư xuất-sắc như Ngài
Pháp-thuận, Vạn-hạnh .v.v...
- 2.- Phái
Vô-Ngôn-Thông:
- a). Vị Sư-tổ
của Pháp Thiền-tôn thứ hai ở Việt-Nam:
- Ngài họ Tịnh,
quê ở Quảng-châu, xuất gia ở chùa Song-Lâm (Triết-giang bây
giờ). Tính Ngài điềm đạm ít nói, nhưng sự lý gì cũng thông hiểu,
nên người đời đặt danh hiệu Ngài là Vô Ngôn Thông. Ngài là đệ tử
của Bách Trượng thiền sư (đệ tử của Mã Tổ).
- Khi Ngài mới đến yết kiến Bách
Trượng Thiền sư gặp lúc thiền sư đang dạy chúng tăng học. Một vị
tăng hỏi Bách Trượng thiền sư rằng:
- Thế nào là
pháp môn đốn ngộ của phái Ðại-thừa?
- Bách Trượng
thiền sư dạy rằng:
- -Tâm địa
nhược thông, huệ nhật tự chiếu (nêu tâm địa được thông thì mặt
trời huệ tự nhiên chiếu sáng).
- Nghe được câu
ấy, tự nhiên Ngài Vô Ngôn Thông ngộ đạo. Năm 820, Ngài qua
Việt-Nam tu tại chùa Kiến Sơ, làng Phù Ðổng(Bắc Ninh), Ngài ngồi
vây mặt vào vách trọn nhày tham thiền nhập định. Ngài tu như thế
mấy năm không ai biết, chỉ trừ vị sư ở chùa ấy là Cảm Thành
thiền sư, biết Ngài là bậc cao tăng trong Phật Thiền tôn, nên
tôn thờ Ngài làm Thầy.
- Trước khi
tịchn gọi Cảm Thành thiền sư mà bảo:
- -Ngày xưa tổ
sư Nam Nhạc, khi sắp tịch có dặn lại bài kệ rằng:
- Nhất thế chư
pháp, giai tùng tâm sanh
- Tâm vô sở
sanh, pháp vô sở trú
- Nhược đạt tâm
địa, sở trú vô ngại
- Phi ngộ
thượng căn, thận vật kinh hứa.
- Nghĩa là: Hết
thải các pháp, đều tự tâm sanh;tâm nếu không sanh, pháp không
chổ trú. Nếu hiểu được vấn đề ấy thì làm việc gì cũng không trở
ngại, cái tâm pháp ấy nếu không gặp được bậc tâm căn, chớ nên
truyền bậy.''
- ''Ðó là lời
dặn của người xưa nay ta cũng dặn lại câu ấy''.
- Nói xong Ngài
chắp tay mà tịch.
- b) Vị Nhị tổ
của phái Vô Ngôn Thông:
- cảm Thành
thiền sư: Thiền sư quê ở huyện Tiên Du (Bắc Ninh) trụ trì tại
chùa Kiến Sơn (Bắc Ninh).
- Khi Ngài Vô
Ngôn Thông vân du qua đấy, thấy Ngài có đủ tư cách để truyền mối
đạo, nên ở lại. Và Ngài Cảm Thành cũng nhận thấy ở Ngài Vô Ngôn
Thông một vị thiền sư đắc đạo, nên tôn làm thầy, sớm tối hầu hạ
không hề trễ nải. Hai thầy trò rất mến nhau, do đoa Ngài Vô Ngôn
Thông mới đặt cho Ngài đạo hiệu là Ngài Cảm Thành thật xứng đáng
là người nối chí của Ngài Vô Ngôn Thông. Một hôm có đệ tử hỏi
Ngài :
- -Thế nào là
Phật?
- Ngài trả lời:
- -Chổ nào cũng
là Phật cả.
- Vị đệ tử lại
hỏi:
- -Thế nào là
tâm của Phật?
- Ngài trả lời:
- -Không hề che
đậy chổ nào.
- Ðây cũng là
một câu chuyện nhỏ, nhưng nói lên được cái truyền thọ tâm pháp
đặc biệt, tuy giản ước mà bao hàm nhiều ý nghĩa vô cùng.
- Ngài Cảm
Thành không bệnh mà tịch, và truyền tâm pháp cho Thiện Hội thiền
sư.
- c) Vị tam tổ
của phái Vô Ngôn Thông:
- Ngài Thiện Hội thiền sư: Ngài
Thiện Hội quê ở Siêu Loại (Bắc Ninh). Ngài là đệ tử của Cảm
Thành thiền sư, hầu thầy đã hơn 10 năm, một hôm Ngài vào phòng
hỏi thầy:
- Trong kinh Phật có dạy: '' Ðức
Thích Ca Như Lai từng tu hành trải vô số kiếp mới thành Phật,
thế mà nay thầy cứ dạy rằng '' tâm tức là Phật, Phật tức là
tâm'' là nghĩa làm sao? Thật đệ tử không hiểu xin thầy dạy rỏ
cho.
- Cảm Thành
thiền sư nói:
- -Ngươi nói
trong kinh Phật nói thế là ai nói đó?
- -Vậy lời ấy
không phải là Phật thuyết sao?
- -Lời ấy phải
đâu là Phật thuyết. Kinh Văn Thù Phật có dạy: '' Ta trú ở thế
gian để dạy chúng sanh 49 năm, chưa đặt ra một câu bằng văn tự
để nói với ai bao giờ !'' Vì theo chánh đạo, nếu ta lấy văn tự
để làm bằng chứng để cầu đạo, ấy là nệ; lấy sự khổ hạnh để cầu
Phật, ấy là mê; lìa tâm ra mà cầu Phật, ấy là ngoại đạo; mà cố
chấp cái tâm ấy là Phật, củng lại là ma vậy.
- -Nếu bảo tâm
ấy tức là Phật, thì trong tâm ấy cái gì là Phật, cái gì không
phải là Phật?
- -Ngày xua có
người hỏi mã tổ rằng: '' Nếu bảo tâm ấy tức là Phật, thì trong
tâm ấy cái gì là Phật?'' Mã Tổ trả lời: '' Thế ông ngờ trong tâm
ấy, cái gì không phải là Phật, hãy chỉ vào ấy cho ta xem !''.
người ấy không chỉ được . Mã Tổ lại tiếp: '' Ðạt được thì khắp
mọi nơi chổ nào cũng là Phật, mà không đạt được thì cứ sai lầm
đi mãi mãi''. Thế là chỉ một lời nói nó che đi, mà thành ra sai
lầm đó thôi. Người ta hiểu chưa?
- Ngài Thiện
Hội trả lời:
- -Nếu như vậy
đệ tử hiểu rồi.
- -Người hiểu
thế nào?
- -Ðệ tử hiểu
rằng khắp hết mọi nơi, chổ nào củng là tâm Phật cả.
- Nói xong
Thiện Hội thiền sư súp xuống lạy. Ngài Cảm Thành nói:
- -Thế là người
hiểu tới nơi rồi đó.
- Do sự lãnh
hội mau chóng đó ma Ngài Cảm Thành mới đặt cho đệ tử mình đạo
hiệu Thiện Hội, nghĩa là ''khéo hiểu''.
- Trên đây là
một vài câu chuyện đến đốn ngộ mà chúng ta thường thấy trong các
vị thuộc phái Thiền tôn.
- Sứ truyền
pháp từ thầy đến trò trong phái Vô Ngôn Thông diễn ra như thế
được 15 đời. Ðến đời cư sỉ Ứng Thuận(1221) là cuối cùng.
- 3.- Phái Thảo
Ðường:
- Năm kỷ dậu
(1069) vua Lý Thánh Tôn đi đánh Chiêm Thành về, có bắt được vua
nước ấy là Chế Cũ và rất nhiều thường dân và binh lính. Số binh
lính và thường dân này được phân phát cho các quan trong triều
đình để làm quân hầu.trong số quan triều có một vị Tăng Lục. Một
hôm vị này đi vắng về thấy bản ''Ngữ lục''của mình bị một tù
binh sữa chưa lại cả. Hỏi ra thì mới biết đó là một vị thiền sư
người Trung Hoa, theo tầy qua Chiêm Thành, chẳng may bị bắt làm
tù binh. Vị thiền sư ấy là Ngài Thảo Ðường, đệ tử của Ngài Tuyết
Ðậu Minh Giác ở Trung Hoa.
- Khi biết tung
tích của Thảo Ðường thiền sư, vua Thánh Tôn liền sắc phong cho
Ngài làm Quốc sư. Ngài Thảo Ðường lập đàn khai giảng ở chùa Khai
Quốc trong thành Thăng Long. Ðệ tử đến học rất đông. Ngài Thảo
Ðường lập ra một phái Thiền Tôn thứ ba ở Việt-Nam . Phái Thảo
Ðường truyền xuống được năm đời, đắc đạo cả thầy được mười chín
vị.
- 4.- Phái Trúc
Lâm:
- Ðệ nhất tổ
của phái Trúc Lâm tức là vua Trần Nhân Tôn (1278-1308). Ngài mộ
đạo khi còn nhỏ. Năm 16 tuổi được lập làm Hoàng Thái tử, Ngài cố
nhường lại cho em nhưng không được, nên trèo thành trốn đi, định
vào tu ở núi Yên Tử. Nhưng Ngài mới đi nữa đường thì bại lộ tung
tích, bị vua cha sai quan đi bắt về. Ngài phải miễn cưỡng trở
về. Sau Ngài lên làm vua, trở thành một vị anh quân và giử vững
nền độc lập nước nhà trước sự xâm lăng ồ ạt, nhưng vô hiệu quả
của quân Nguyên. Sau khi đuổi được giặc nguyên, Ngài truyền ngôi
lại cho con là Anh Tôn, và vào tu ở núi Yên Tử, thực hiện chí
nguyện thuở thiếu thời của mình. Ngài lấy hiệu là ''Hương Vân
Ðại Ðầu Ðà '' lập trường giảng pháp, môn đồ tìm đến tu học kể có
hàng vạn người. Ngài thường đi khắp nơi để giảng đạo và phát
thuốc. Ngài tịch một cách ất bình tĩnh vào lúc 51 tuổi.
- Trong các
phái Thiền tôn ở Việt-Nam, chỉ có phái Trúc Lâm là phát tích tại
đất nước Việt. Trong phái này, cũng có nhiều vị thiền sư có
tiếng tăm như Ngài Pháp Loa tôn sư, Ngài Huyền Quang tôn sư ...
- 5.- Phái Lâm
Tế:
- Phái Lâm Tế
do Ngài Nguyên Thiều khai sáng tại Trung Việt. Ngài họ Tạ, quê ở
Quảng Châu (Trung Hoa). Ngài đi theo tàu buôn qua An Nam, trú ở
phủ Qui Ninh (Bình Ðịnh) lập chùa Thập Tháp Di Ðà, Mở trường dạy
học. Sau Ngài ra thuận hóa lập chùa Hà Trung, rồi lên Xuân Kinh
(Huế) lập chùa Quốc Ân và dựng tháp Phổ Ðồng.
- Sau Ngài
phụng mạng đức Anh Tôn ( Nguyễn Phúc Tráng 1687-1691) trở về
Trung Quốc, tìm mời các vị danh tăng và cung thỉnh pháp tượng,
pháp khí. Ngài về Quảng Ðông mời được Hòa Thượng Thạch Liêm và
các danh tăng khác, cùng thỉnh được nhiều kinh điển, tượng, pháp
khí trở về Nam. Chúc Nguyễn liền sắc mở đàn truyền giới rất long
trọng tại chùa Thiên Mụ. Sau đó, chúa Nguyễn sắc ban Ngài chức
trụ trì chùa Hà Trung.
- Năm Bảo Thái
thứ 10 nhà Lê, Ngài tịch tại chùa Hà Trung, sau khi dặn dò đệ tử
và truyền bài kệ sau đây:
- Tịch tịch,
kính vô ảnh
- Minh minh,
châu bát dụng
- Dường
đường,vật phi vật
- Liểu liểu,
không vật không
- Ðại ý: Thể
pháp thân thanh tịnh sáng suốt như mãnh gương sạch không bụi,
như ngọc minh châu, trong sáng bóng ngời. Tuy hiện tiền sự sự,
vật vật sai khác, nhưng đều là thể pháp thân biểu hiện. Thể pháp
thân thường vắng lặng mà không phải là không, tức là lý ''chân
không diệu hữu''.
- Xét trong''
Lịch truyền tổ đồ '' thì Ngài đứng về đời 69, xét về chánh thống
phái Lâm Tế thì Ngài đứng về đời 33, còn xét riêng về phái Lâm
Tế ở Trung Việt, thì Ngài là sơ tổ.
- 6.- Phái Liễu
Quán:
- Phái
Liểu-quán xuất phát từ Liểu-Quán-Hòa-Thượng. Ngài Liểu-quán quê
ở Phú-yên (Song-cầu). Ngài ra Thuận Hóa thọ giới Sang-Di với
Ngài Thạch-Liêm Hòa-Thượng. Năm 1702, Ngài đến Long-Sơn cầu học
pháp tham-thiền với Ngài Tử-Dung Hòa-Thượng (Tổ khai sơn chùa Từ
Ðàm Huế, người Trung Hoa).
- Tổ Tử-Dung
dạy Ngài tham-cứu câu: ''Vạn pháp quy nhất, nhất quy hà xứ '',
(muôn pháp về một, một pháp về đâu?) . Ngài tham cứu mấy năm,
đến khi xem bộ Truyền-Ðăng-Lục, thấy có câu: '' Chỉ vật truyền
tâm, nhơn bất hội xứ ''. Ngài liền tỏ ngộ. Năm 1742, cuối mùa
thu, Ngài thọ bịnh. Trước khi lâm chung, Ngài gọi môn đồ đến dạy
rằng: '' nhơn duyên đã hết, ta sắp chết đây ''.
- Thấy môn đệ
khóc, Ngài dạy rằng: '' các người khóc làm gì? các Ðức-Phật ra
đời còn nhập niết-bàn. Ta nay đi đến rỏ ràng, về có chổ. Các
người không nên khóc và đừng buồn thảm ''.
- Rồi Ngài viết
bài kệ từ biệt sau đây :
- Nguyên văn:
- Thất thập dư
niên thế-giới trung
- Không không,
sắc sắc diệu dung thông
- Kim triêu
nguyệt mãn, hoàn gia lý
- Hà tất bôn ba
vấn tổ tông.
- Dịch nghĩa:
- Ngoài bảy
mươi năm trong thế-giới
- Không không,
sắc sắc thảy dung thông
- Ngày nay
nguyện mãn về nơi củ
- Hà phải ân
cần hỏi tổ tông.
- Viết xong,
Ngài bảo môn đồ:
- Sau khi ta
đi, các ngươi phải nghĩ cơn vô-thường nhanh chóng, cần phải
siêng năng tu học. Các người hãy cố gắng tới chớ bỏ qua lời ta.
- Ngài tịch vào
ngày 22 tháng 11 năm Nhâm-Tuất (1742) vào giờ Mùi, sau khi dùng
nước trà xong và vui vẻ từ biệt môn đồ.
- Ðến đây chúng
ta cũng nên nhận định cho rỏ ràng điễm này: Như tôi nói ở đoạn
trước, Thiên-Tôn do người Việt sáng lập chỉ có một Phái duy nhất
do vua Trần-Nhân-Tôn làm Sơ-tổ là phái Trúc-Lâm Yên-Tử. Nhưng
đến nay, chúng ta lại thấy xuất phát một phái nữa là phái
Liểu-quán, do Ngài Liểu-quán một danh tăng Việt-Nam chủ xướng,
như vậy có mâu thuẩn với sự nhận xét ở trên không? Thật ra, so
với các phái Thiền-Tôn khác ở Việt-Nam, thì phái Liểu-quán chỉ
một phái nhỏ, chỉ nằm trong phạm vi mấy tỉnh miền Trung-Việt.
- Vả lại, Ngài
Liểu-quán cũng là đệ-tử của Ngài Tử-Dung, một vị sư Trung Hoa
thuộc phái Lâm-Tế. Do đó, pháp Liểu-quán, nếu chúng ta đi tìmm
nguồn góc xa hơn một chút nữa, thì cũng chỉ là một chi nhánh của
phái Lâm-tế mà thôi.
- Các Kinh Sách
Nói Về Thiền
- Khi kinh sách
nói về Thiền không thể kể xiết được. Tuy thế, đễ quý độc-giả
khỏi bỡ-ngỡ trong khi nghiên cứu, học hỏi, chúng tôi xin dẫn một
số sách thiết yếu sau đây:
- 1.-Kinh
Lăng-già
- 2.-Kinh
Lăng-Nghiêm
- 3.-Kinh
Viên-Giác
- 4.-Kinh
Pháp-Bảo-Ðàn
- 5.-Ðại-thừa
Chỉ-quán
- 6.-Tiểu
Chỉ-quán
- 8.-Ðồng môm
Chỉ-quán
- 9.-Kinh
Kim-cang
-
10.-Truyền-đăng-lục
-
11.-Thuyền-gia ngữ-lục
- 12.-Tọa-thiền
chỉ nam
-
13.-Tông-cảnh-lục (của Ngài Tống Diên Thọ Thiền-sư)
- 14.-Luận
Ðại-thừa khởi tín (của Bồ Tát Mã-Minh)
-
15.-Vô-môn-quán (của Tổng Tôn-Thiện Thiền-sư)
-
16.-Bích-Nha-Lục (của Phật quả Viên-ngộ)
-
17.-Thung-dung-lục (của Vạn tùng Lão-nhơn)
- 18.-Thiền-lâm
Vĩnh-gia tập (của Huyền-giác)
- 19.-Thiền-tôn
chỉ nam (của vua Trần-Thái-Tôn) .v.v...
- C.- Tổng Kết
các Loại Thiền định
- Thiền-Ðịnh có
nhiều loại, nhưng tóm lại áo thể chia làm hai loại lớn:
Chánh-định và tà-định, hay Phàm-phu thiền và Thánh-nhơn thiền và
Phật Giáo thiền.
- Thiền Ngoại
Ðạo
- Những người
theo lối thiền-định này do tâm niệm không chơn-chánh (phiền-nảo,
tham, sân, si v.v....) làm động cơ thúc đẩy. Họ không nhắm ngay
mục đích dẹp trừ vô-minh phiền-não, cầu được minh-tâm kiến-tánh,
hay giác-ngộ, giải thoát, mà chỉ nhắm mục đích nhỏ hẹp, thiển
cận, như cầu được thấy những điều huyền diệu, cầu được
thần-thông biến-hóa để đi dạo chơi ở các thé-giới khác, cầu
thành tiên để lạc-thú tiêu-dao ở cảnh tiên, cầu cho thân thể
không bệnh hoạn, được trường sinh bất tử, cầu cho được phép lạ
dể trị bệnh, để thien hạ sùng-bái, kính phục, hoặc để gần gũi nữ
sắc, hay cầu tài lợi v.v..
- Hảy lắng nghe
lời Tổ Tôn-Mật dạy: '' Người tà kiến chấp trước sai lầm , ư acõi
trên, chán cõi dưới mà tu thiền, đó là ngoại đạo thiền ''.
- Thiền Phàm
Phu
- Những người
tu theo loại thiền này không có tâm niệm cao thượng, chỉ vì chán
ngán cõi Dục làm ô-trược mà cấu sinhvề cõi sắc và Vô-sắcđể hưởng
thú vui thanh thoát.
- Hãy lắng nghe Tổ Tôn-Mật phê
phán hạng người tu về loại thiền này: '' Người chán tin nhơn
quả, nhưng dùng sự ưa cõi trên chán cõi dưới mà tu thiền là
phàm-phu thiền ''.
- Thiền Phật
Giáo
- Thiền-định
của Phật Giáo có hai loại: Tiểu-thừa thiền và Ðại-thừa thiền.
- -Tiểu-thừa
thiền: là những pháp thiền dành cho người có căn tánh Tiểu-thừa.
Người tu phép Thiền-định này chỉ có công-dụng hạn cục, vì tu
pháp nào thì chỉ trừ được phiền-não cũa pháp ấy. Và sự tu luyện
ở đây cũng chỉ tuần tự mà tiến, chứ không thể đốn-ngộ nagy được.
- Hơn nữa,
người tu Tiểu-thừa thiền, tuy đã phá ngã-chấp, nhưng còn bị
pháp-chấp. Họ không ngộ được rằng: những phương-pháp tu hành đều
là phương tiện để giúp cho họ dẹp trừ vô-minh phiền não, tiến
lên chổ giác ngộ, chớ không nên cố chấp có nên tu, thật chứng.
- - Ðại-thừa
thiền: Ðây là phương-pháp tu thiền của các vị Bồ Tát, căn tánh
mau lẹ, vượt bưc. Với hạng này, các vị chỉ nghe một câu nói hay
chỉ tu một pháp, cũng có thể liền tỏ ngộ; như Ngài Huệ-Năng, chỉ
nghe câu '' Ưng vô sở trụ, nhi sanh ký tâm '', hay Ngài Ca-Diếp,
chỉ thấy Phật đưa cành hoa sen mà liền tỏ ngộ
- Sở dĩ các vị
này mau tỏ ngộ như thế là vì họ đã trải qua nhiều kiếp tu hành
rồi, sắp được giác ngộ, nay gặp thời cơ, nhân duyên thì liền
phát-chiếu, như cành hoa đã được vun tưới đủ sức rồi, chỉ chờ
thời tiết là trổ bông.
- Hãy nghe Tổ
Tôn-Mật nói về các vị này: '' Người ngộ được lý ngã, pháp đều
không mà tu thiền là Ðại-thừa thiền. Người đốn-ngộ tự tâm xưa
nay vốn thanh-tịnh, không có phiền-não, đầy đủ trí-huệ vô-lậu,
tâm ấy tức là Phật, rốt ráo không khác. Y theo tân này mà tu
thiền là Tối-thượng thừa thiền, cũng gọi là Chơn-như tam-muội
''.
- Vè
phương-pháp tu chứng và truyền thọ của Ðại-thừa thiền có ba
cách:
- - Cách thứ
nhất: Ðây là các loại tam-muội má hành-giả căn cứ theo các kinh
sách Ðại-thừa tu luyện, như Pháp-hoa tam-muội, Niệm-Phật
tam-muội, Gíac-ý tam-muội, Thủ-tăng-liêm tam-muội v.v....
- - Cách thứ
hai: Lối thiền này không căn cứ theo kinh điển, văn tự, mà chỉ
dùng một câu nói ngắn ngủi để chỉ giáo. Trong Phật Giáo gọi lối
thiền này là: '' Bất luận văn tự, giáo ngoại biệt truyền ''
(không dùng văn tự, truyền ngoài kinh giáo). Thiền-giả chỉ căn
cứ theo một câu nói ấy mà nghiên cứu mãi cho đến khi tỏ ngộ.
Công việc tham-cứu này, Thiền-giả có nhiều khi kéo dài hàng chục
năm.
- - Cách thứ
ba: Với cách này,chúng ta khó có thể say nghĩ luận bàn gì được.
Trong cách này, khi có người đến cầu pháp, các Tổ sư không dùng
lời nói mà chỉ dùng một cử chỉ gì đó, hay một tiếng la hét mà
thôi.
- Như dòng
Lâm-Tê, khi có người đến cầu đạo, Thiền-sư chỉ dùng gậy đánh và
tiếng hét.
- Như dòng
Quy-ngưỡng, các vị Tổ-sư chỉ vẽ hình thú, hình người, hình chữ
Vạn mà khai ngộ cho đệ-tử .
- Như dòng
Vân-môn, có vị Tổ chỉ nói một chữ, mà làm cho người cầu đạotỏ
ngộ.
- Như có Ngài
chỉ đãi nước trà (Ngài Triệu-châu) hay mời ăn cơm, mà người đến
cầu đạo được tỏ ngộ.
- Có Ngài lại
ngắm bóng mình cưới nước và cười, khi đi ngang qua cầu, liền ngộ
đạo (hổ khê tam chiếu chí kim truyền), hay nghe chim oanh hót
trên cành liễu, hay lấy gậy đập cục đất cho để tan mà liền tỏ
ngộ.
- Thật là
thiền-cơ nhiệm-mầu, người ngoài không thê rsay nghĩ, bàn luận
được.
- Muốn cho
người cầu đạo được kết-quả, các vị truyền pháp phải hội đủ ba
diều kiện sau đây:
- -Biết văn-cơ
người cầu đạo.
- -Biết
thời-tiết đúng lúc truyền đạo.
- -Biết
phương-pháp nào thích hợp, trong ba phương-pháp nói trên, nếu
truyền bá không hợp cơ, hợp thời, hợp pháp thì người tu thiền
không có kết-quả.
- Trước khi
dừng bút, chúng tôi có một nhận xét sau đây ma fchác quý độc-giả
cũng đồng ý là: Nước ta ngay fxưa là một nước chịu ảnh hưởng lớn
của Thiền-tôn, và Thiền-tôn là môn phái rất thịnh hành trong
nước. Thế mà ngày nay, vi fbao cuộc biến thiên của lịch sử,
Thiền-tôn không còn được truyền thọ trong các chùa cũng như
trong dân chúng một cách sung-mậu như xưa nữa.
- Vậy chúng tôi
hy-vọng rằng, từ đây về sau, nhờ sự giao-thông tiện lợi từ nước
này sang nước khác, nhờ sự trao đổi văn hóa, và nhờ gia tâm tu
học của các Phật-tử Việt-Nam, Thiền-tôn sẽ lấy lại sắc thái
sung-mậu ở Việt-Nam như các thờiLý, Trần.
--o0o--
|
|