-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Phật
Học Phổ Thông
- Khóa Thứ
Năm
-
Lịch Sử Truyền
Bá Phật Giáo,
10 Tông Phái và Vũ Trụ Nhơn Sanh
- --- o0o ---
- Bài Thứ 7
- Mười Tông
Phái Phật Giáo Ở Trung Hoa
(tiếp theo)
-
- 4.- Duy Thức Tông Hay Là Pháp
tướng Tông
-
- I.- Duyên
Khởi Lập Tông
- Tất cả chúng
sanh đều vô thỉ đến nay, vì chấp có thật ngã, thật-pháp mà tạo
ra các nghiệp, rồi bị các nghiệp dắt dẫn nên xoay vành mãi theo
bánh xe sanh tử luân-hồi.
- Nếu con người
hiểu rỏ một cách chắc chắn rằng: tất cả các pháp trong vũ-trụ,
nhân và ngã đều không thật có, chỉ do thức biến hiện, như cảnh
trong chiêm bao, mà không còn gây phiền não, tạo nghiệp-chướng
nữa, thì tất không còn bị ràng buộc, trong bánh xe sanh tử luân
hồi.
- Ðể phá trừ
hai món chấp thật-ngã và thật-pháp, Ðức-Phật có rất nhiều
phương-pháp, có rất nhiều pháp thiền, mà Duy-Thức-Tôn hay
Pháp-tướng-tôn là một pháp tu rất cần thiết, rất hiệu-nghiệm để
đi đến giải-thoát.
- II.- Ðịnh
Nghĩa
- Tôn này thuộc
về Ðại-thừa, phân-tách vũ-trụ, vạn hữu đều do thức biến hiện.
- Duy-thức tôn,
hay Pháp-tướng tôn, như danh từ đã chỉ-định, không nói về tâm
tánh chơn như, mà chỉ nói về tướng của thức, tức cũng là tướng
của pháp. Biết rằng từ chơn vọng hòa hiệp biến thành hình tướng
thức A-Lại-Da, rồi tư thức A-Lại-Da sanh ra các tướng tâm-pháp
.v.v...tôn này quán-sát hành tướng của các pháp ấy, nên gọi là
'' Pháp-tướng tôn '' .
- Ðứng về
phương diện nguyên-nhân mà nghiên-cứu, tôn này chủ-trương rằng
vũ-trụ vạn-hữu, hay là tát cả các pháp đều do duy-thức
biến-hiện, ngoài thức không còn một yếu tố nào khác nữa nên gọi
là '' Duy thức tôn '' .
- Vậy ''
Pháp-tướng tôn '' hay '' Duy thức tôn '' cũng đều để gọi
pháp-môn mà tôn-chỉ chỉ la fnghiên cứu, quan-sát hành-tướng và
nguyên nhân sanh-khởi của vạn pháp. Nguyên nhân sanh-khởi ấy là
'' Thức ''.
- III.- Căn Cứ
các kinh sách Sau Ðây Lập Ra Duy Thức Tông
- Như tất cả
các tôn phái khác, Duy-thức tôn cũng căn-cứ vào căn luận của
Phật mà được thành lập ra. Ðó là 6 bộ kinh và 11 bộ luận sau
đây:
- Sáu bộ kinh
là:
- 1.- Kinh
Giãi-thâm-mật
- 2.- Kinh
Hoa-nghiêm
- 3.- Kinh
Như-lai xuất hiện công-đức trang-nghiêm
- 4.- Kinh
A-tỳ-đạt-ma
- 5.- Kinh
Lăng-nghiêm
- 6.- Kinh
Hậu-nghiêm (hay Mật-nghiêm).
- Mười một bộ
luận là:
- 1.-Luận
Du-già Sư-địa
- 2.- Luận
Hiển-dương Thánh-giáo
- 3.- Luận
Ðại-thừa Trang-nghiêm
- 4.- Luận
Nhiếp Ðại-thừa
- 6.- Luận
Thập-địa-kinh
- 7.- Luận
Phân-biệt Du-già
- 8.- Luận Quán
Sở-duyên-duyên
- 9.- Luận
Duy-thức Nhị-thập-tụng
- 10.- Luận
Biện-trung-biên
- 11.- Luận
Tạp-luận
- Vị sáng lập
ra Duy-thức chính là Bồ Tát Di-lặc. Ðức-Di-Lặc sau khi tu chứng
được Duy-thức, đã ýwng theo lời thỉnh-cầu của Ngài Vô-trước, nói
Luận Du-già Sư-địa.
- Hai vị có công lớn trong việc
phát-triển tôn này ở Ấn Ðộ là hai anh em nhà Vô-trước và Ngài
Thế-thân. Ngài Vô-trước dựa theo bộ '' Du-già Sư-địa '' làm ra
bộ luận ''Hiển-dương Thánh-giáo '', và '' Nhiếp Ðại-thừa ''.
Ngài Thế-thân lại có công đức lớn lao hơn nữa, tomtăts lại nghĩa
lý Duy-thức, lảma bộ luận '' Duy-thức tam thập tụng ''. Về sau,
có mười vị Ðại Luận-sư, sớ giải bộ Duy-thức tam-thập tụng, làm
thành mười bộ luận chính về Duy-thức .
- Ðến đời
Ðường, Ngài Huyền-trang từ Trung Hoa sang Ấn Ðộ thỉnh kinh và
tham-cứu về Phật Giáo. Môn học sở trường của Ngài là Duy-thức.
Sau khi trở về Trung Hoa, Ngài lượm-lặt tinh-hoa của 10 bộ
đailuận nói trên, dịch thành Hán-văn, dưới nhan đề là: '' Thành
Duy-thức Luận '', gồm cả thảy 10 quyển. Ngài Khuy-cơ là đệ-tử
lớn của Ngài Huyền-trang sớ-giải thêm rỏ nghĩa-lý bộ '' Thành
Duy-thức Luận '' làm ra thành 60 quyển, dưới nhan đề là '' Thành
Duy-thức thuật-ký ''.
- Tóm lại, ở Ấn
Ðộ, vị có công lớn nhất trong sự phát huy Duy-thức tôn là Ngài
Thế-thân. Còn ở Trung Hoa, vị có công lớn nhất trong việc truyền
bá Duy-thức tôn là Ngài Huyền-trang.
- Về phương
diện sách vở dạy về Duy-thức, từ xưa đến nay được các học giả
xem là chánh-tôn Duy-thức, thì có ba bộ sau đây:
- 1.- Ðại-thừa
Bá pháp minh môn luận (tatc giả là Ngài Thế-thân). Nội dung bộ
luận này giải-thích các danh từ chuyên-môn của Duy-thức, nói rỏ
100 pháp và hai món vô-ngã. Người học Duy-thức nếu không học bộ
luận này trước, thì không dễ gì hiếu được Duy-thức (bộ luận này
đã được dịch ra tiếng Việt và chúng tôi lấy nhan đề là: Duy-thức
nhập môn).
- 2.- Duy-thức
tam thập tụng (cũng do Ngài Thế-Thân tạo ra). Trong bộ luận này
Ngài Thế-Thân dùng 30 bài tụng để giải thích về nghĩa lý chánh
của Duy-thức, luận này chia làm bốn phần:
- a). Phần thứ
nhất nói về ba chức năng-biến:
- -Thức
năng-biến thứ nhất là thức A-lai-da (thức tứ tám).
- -Thức
năng-biến thứ hai là thức Mạt-na (thức thứ bảy).
- -Thức
năng-biến thứ ba là sáu thức năng trước.
- b). Phần thứ
hai nói về các tâm-sở:
- -Biến-hành (5
món)
- -Biệt-cảnh (5
món)
- -Thiện (11
món)
- -Căn-bổn
phiền-não (6 món)
- -Tùy
phiền-não (20 món)
- -Bất-định (4
món).
- c). Phần thứ
ba giải-đáp các nghi vấn:
- -Làm sao biết
được phận-vi sanh-khởi của các thức?
- -Nếu không có
ngoại cảnh, thì sao có sanh tử và các sự phân biệt?
- -Nếu không có
ngoại cảnh, thì sao có chúng hữu-tình sanh-tử?
- -Nếu chỉ
thức, tạo sao Phật lại nói có ba tánh?
- -Nếu có ba
tánh, tại sao Phật nói ba món vô-tánh?
- d).Phần thứ
tư nói về đệ tu Duy-thức:
- Từ khi phát
tâm tu Duy-thức cho đến khi chứng được Duy-thức tánh thành Phật,
hành-giả phải trải qua năm địa vị, thứ lớp như sau đây:
- -Vị Tư-lương
(như lương thực cửa người đi đường).
- -Vị gia hạnh
(gia công tấn hàng).
- -Vị thông-đạt
(thấu suốt đường lối).
- -Vị tu-tập
(tu-hành tập-luyện).
- -Vị cứu cánh
(đến cùng tột địa vị tu chứng).
- 3.- Bát-thức
qui-cũ tụng (tác giả là Ngài Huyền-trang). Nội dung của quyển
này, Ngài Huyền-trang dùng 12 bài tụng để toát yếu lại nghĩa-lý
Duy-thức, gồm có bốn phần:
- a). Phần thứ
nhất nói về năm thức đầu
- b). Phần thứ
hai nói về thức thứ sáu .
- c). Phần thứ
ba nói về thức thứ bảy
- d). Phần thứ
tư nói về thức thứ tám.
- Mỗi một phần
có ba bài tụng, hai bài tụng đầu nói hành-tướng các thức, khi
hành-giả còn ở địa vị phàm-phu; bài tụng thứ ba nói hành-tướng
các thức, khi lên quả-vị Thánh.
- Tóm lại, ba
bộ luận trên này, người muốn học Duy-thức, khôngthể bỏ qua được.
- IV.- Chủ
Trương Của Duy Thức Tông
- Chủ-trương
của Duy-thức tôn là phá trừ vọng chấp ngã, pháp (biến kế sở
chấp), bằng cách chỉ cho chúng sanh thấy tất cả các pháp đều
nương nơi thức hiện ra (y-tha khởi), và mục dích cuối cùng lá
đưa chúng sanh trở về với tánh chân thật (viên-thành thật).
Thế-giới hiện-tượng này này, vì mê-mờ, chúng ta tưởng là chắc
thật, nhưng hteo chủ trương của Duy-thức học, thì vũ-trụ vạn-hữu
đều là Duy-thức biến-hiện. Cũng như sơn hà, đại địa trong cảnh
chiêm bao, không có cảnh vật ấy.
- Vậy, nếu chỉ
cho chúng sanh thấy được một cách rỏ ràng, vũ-trụ vạn-hữu do
thức biến-hiện ra như thế nào, thì chắc chắn chúng sanh sẽ không
còn chấp thật ngã, thật pháp nữa. Cũng như khi biết cảnh vật
trong chiêm bao là do tâm chiêm-báoanh ra thì không còn mê muội
nơi cảnh chiêm-bao nữa. Mà không còn chiêm-bao tức đã thức-tỉnh.
Cũng thế, khi không còn chấp thật ngã, thật pháp nữa, tất sẽ
thấy được cảnh chân-thật của vũ-trụ vạn-hữu, (tánh viên
thành-thật) . đó là chủ trương của Duy-thức tôn.
- Nói một cách
vắn tắt, chủ trương của Duy-thức tôn là quy vũ-trụ vạn-hữu trở
về Duy-thức tướng, rồi từ Duy-thức tướng trở về Duy-thức tánh
(tâm chơn-như hay tánh viên-giác).
- V.- Thành
Phần Của Hiện Tượng Giới
- (vũ-trụ
vạn-hữu gồm cả tâm và pháp ).
- Phân Loại
Theo Duy Thức Tông
- Hiện tượng
giới, tức là vạn sự vạn vật trong vũ-trụ (gồm cả tâm lẫn vật),
tuy nhiên không thể kể xiết được, nhưng dưới nhãn-quan của nhà
Duy-thức học, có thể phân ra thành năm loại; năm loại này lại
chia thành 100 thành phần hay 100 pháp.
- Năm loại lớn
ấy là:
- 1.- Tâm-vương
tức là '' tướng '' của thức, thuộc về tâm-giới.
- 2.- Tâm-sở
tức là '' dụng '' của thức, cũng thuộc về tâm-giới.
- 3,- Sắc-pháp
tức là ''ảnh-tượng'' của thức, thuộc về sắc-giới.
- 4.-
Bất-tương-ứng-hành tức là ''phận-vị sai khác'' của thức, không
phải thuộc hẳn về tâm mà cũng không thuộc về sắc-giới, nhưng gồm
cả hai phần mà thành.
- 5.-Vô-vi tức
là ''tánh'' của thức, cũng gọi là ''chơn như ''
- Bốn loại
trên: tâm-vương, tâm-sở, sắc-pháp, bất tương ưng hành đều thuộc
về " hữu vi",tức là " tướng ,có sanh diệt.
- Loại thứ năm,
là pháp "vô vi", không sanh diệt, không tạo tác, tức là " tánh "
của các pháp, hay chơn như.
- Năm loaại lắn
trên đây, môĩ loại lại chia làm nhiều thành phần, có những tác
dụng hành tướng riêng biệt, mà chúng ta cần nghiên cứu kỷ sau
đây: 1.-Tâm vương
- Tâm vương gồm
có tấm món, mỗi món có những đặc tánh, khả năng và nhiệm vụ
riêng biệt, như mỗi ông vua làm chủ mỗi nước, nên gọ là tâm
vương. Tám phần của tâm vương là:
- a) Nhãn thức
- b) Nhĩ thức
- c) Tỹ thức
- d) Nhận thức
- đ)Thân thức
- e)Ý thức
- h)A-lại da
thức
- Chúng ta có
năm giác quan, mỗi giác quan có một sỡ năng, một cái biết riêng:
khi ta nhìn một cái hoa, biết cái hoa ấy màu vàng hay đỏ
v.v...cái biết ấy thuộc về con mắt, nên gọi là nhãn thức. Khi
chúng ta nhge đàn, biết tiếng đàn ấy cao hay thấp, to hay
nhỏv.v...cái biết ấy thuộc về tai, nên gọ là nhĩ thức. Khi ta
ngữi một mùi gì, biết được mùi ấy thơm hay hôi, cái biết ấy
thuộc về mũi, nên gội là tỷ thức. Khi chúng ta nếm một món ăn
gì, biết được món ăn ấy mặn hạylat, chua hay ngọt, cái biết ấy
thuộc về lưỡi, nên gọi là thiệt thức. Khi chúng ta đụng vào một
vật gì, biết vật ấy cứng hay mềm, nóng hay lạnh, cái biết ấy
thuộc về thân thể, nên gọi là thân thức.
- Năm cái biết
trên này: Nhãn, Nhĩ, Tỹ, Thiềtva Thân thức, thuộc về năm giac
quan bên ngoài nên chúng ta dễ nhận.
- Ba cái biết
sau này: Ythưsc, Mạt-na- thức, A-lại-được-thức, thuộc về nội
tâm, và theo thứ lớp, ẩn sâu vào trong, tế nhị hơn, nên khó nhận
khó biết. Tuy thế, đối với nhà duy thức học, người ta cũng có
thể nhận biết được rành rẽ hành tướng
- phân biệt
được phạm vi hoạt động, sở trường , sở đoản và công năng của mỗi
thứ.
- Trước tiên,
chúng ta nói đến thức thứ sáu hay"Ý thức".
- Yĩ thức có
hai phạm vi hoạt động:
- -Khi nào ý
thức hiẹp với năm thức trước, tiếp xúc với cảnh, thì gọi là "
Ngủ của ý thức", hây là " Minh liẽu ý thức". Trong lúc mắt thấy
sắc, tai nghe tiếng v.v...mà không có ý thức phụ vào (để ý) thì
mặc duù mắt vẫn thấy, tai vãn nghe, nhưng thấy nghe không được
rõ ràng. Sách nho chép:"Tâm bất tại diên, thị nhi bất kiến,
thính nhi bất văn" ( nếu không chú ý, thì dù xem cũng chẵng
thấy, lắng cũng chẵng nghe). Trái lại, khi có ý thức phụ vào,
thấy nghe v.v...đều minh bạch.
- -Khi nào ý
thức làm việc một mình, không cùng hợp tác với năm thức trước,
thì gọi là "Ðơn độc ý thứ" hay "Ðộc đầu ý thức".như trong lúc
năm thức trước không tiếp xúc với sắc, thanh, hương, vị và xúc,
mà trong tâm trí vẫn lưu lại bóng dáng(pháp trần) của năm trần.
Khi chúng ta nhớ tưởng lại, thì cảnh ngủ trần in như hiện rõ
ràng ở trước, đó là công dụng của " Ðộc đầu ý thức". Thức thứ
sáu này, khi tính tóan, suy nghĩ việc gì, thiện hay ác, hay hay
dở, cũng đều lanh lợi đảm đang hơn các thức khác, nên trong duy
thức nói:" Công vi thủ, tội vi khôi"( Có cngthì nó đứng đầu, mà
có tội nó cũng đứng đầu).
- Thức thứ sáu, tuy sở trường là
khôn ngoan lanh lợi, nhưng lại có sở đỏan là bất thường, không
phải lúc nào cũng hiện diện, mà lại có khi gián đoạn, ẩn phục,
như trong lúc bị hụp thuốc mê, chết giả, ngủ say, hay nhập vô
tưởng định v.v...Qua những giai đọan ấy, ý thức lại hiện trở
lại.
- Vậủy trong
lúc ý thức không hiện, nó núp ở đâu?
- Theo duy
thức,khi đó, thức thứ sáu trở về gốc của nó là ý căn, tức là
thức thứ bảy hay thức Mạt-na. Theo tâm lý họcthì cũng có thể gọi
là tiềm thức.
- Thức thứ bảy
này có hai công năng:
- -Chấp ngã;
- -Làm căn bản
choÝ thức thứ sáu.
- Nnó có công
là đem các pháp hiện hành bên ngoài ''truyền'' vào tạng thức và
đem các pháp chủng tử bên trong ''tống'' ra ngoài nên nó có tên
là ''truyền tống thức''. Sự cháp ngã của tức này và của thức thứ
Sáu, có thô và tế khác nhau. Khi nào để ý bảo thủ bản ngã, như
khi ra trận bắn nhau với địch quân, khi đánh lộn, hay tìm một kế
gì để sanh nhai, thì sự chấp ngã ấy thuộc về thức thứ Sáu. Thực
ra không có lúc nào chúng ta không chấp ngã, sự chấp ngã vẫn
thường trực trong chúng ta . nhưng nó âm thầm, sâu kín, tiềm
trực, nên chúng ta không nhận thấy được. Ðến lúc bất ngơ, đột
nhiên xãy ra một sự việc gì đó có nguy hại đến tánh mạng ta, như
bất thần có người rình rập, hay đi ra đường bị nhành cây gãy sắp
rơi xuống đầu...trong những lúc ấy, tuy thức thứ Sáu không kịp
để ý can thiệp, đối phó mà ta vẫn tự tránh né, bảo thủ cái ngã.
Ðó là ự chấp ngx của thức tứ bảy.
- Ngoài bảy
thức nói trên, còn có một thức thứ tám tế nhị, sâu kín mênh mông
hơn nữa, đó là thức A lại da, Tàu dịch là tàng thức, nghĩa là
thức ''Tích chứa''.
- Từ nhỏ đến
lớn chúng ta đọc rất nhiều sách, tếp xúc với nhiều sự vật, rồi
thời gian cứ tuần tự trôi qua, chúng ta tưởng đã quên mất rồi.
Thế mà không ! Mỗi khi ngĩ dến thì danh từ, hình ảnh của những
vật xưa củ hiện ra rỏ ràng như một cuốn phim quay lại ở trước
mắt. Những danh từ hình ảnh ấy, vì sao mấy chục năm qua mà vẫn
còn lại? Tất nhiên phải có một cái kho vô tận chứa lại, nên mới
không mất vậy ! Kho vô tận này trong duy thức tôn gọi là tàng
thức (thức chứa).
- Ðể cho dễ nhớ
hành tướng và công năng của tám thức nói trên, cổ nhân có làm
bài kệ rằng:
- Nguyên văn:
- Bát cá đệ
huynh, nhứt cá si
- Ðộc hữu nhứt
cá, tối linh tinh
- Ngủ cá môn
tiền tô úmãi mại
- Nhất cá gia
trung tác chủ y.
- Dịch nghĩa:
- Anh em tám
chú một người si (thức thứ bảy)
- Một mình ý
thức rất tinh ranh (thức thứ sáu)
- Năm chàng
ngoài cửa lo buôn bán (năm thức trước)
- Làm chủ trong
nhà, thức lại da (thức thứ tám).
- 2.- Tâm sở
- Tâm sở là tánh sở hữu, phụ thuộc
của Tâm vương, cũng như ông quan trong triều, phụ thuộc dưới
quyền sai sử của ông vua, hay những nhân viên phụ thuộc dưới
quyền sử dụng của vị Bộ trưởng. Tâm sở có tất cả 51 pháp, chia
làm sáu loẵi như sau:
- 1.- Biến hành Tâm sở: Biến là
phổ biến, hành là lưu hành; Biến hành Tâm sở nghĩa là những tâm
sở có công năng phổ cập lưu chuyển khắp cả tám thức (tâm vương),
với thức nào nó củng tương ưng được cả. Biến hành Tâm sở gồm có
5 pháp là: Xúc, Tác ý, Thọ,Tưởng và Tư.
- 2.-Biệt cảnh
Tâm sở: Biệy là riêng biệt, Biệt cảnh Tâm sở là những tâm sở
riêng mỗi cảnh khác nhau, như dục Tâm sở duyên riêng với cảnh mà
mình ưa muốn; Huệ tâm sở riêng với cánh mà mình quan sát...chứ
không phải như Biến hành tâm sở. Biệt cảnh Tâm sở gồm có 5 pháp
là : Dục, Thắng giải, Niệm, Ðịnh và Huệ.
- 3.- Thiện Tâm
sở: Thiện Tâm sở là tâm sở lành và có công năng phát sanh những
điều lành mà thôi. Thiện tâm sở gồm có 11 pháp là: Tín, Tàm,
Quý, Vô tham, Vô sanh, Vô si, Tinh tấn, Khinh an, Bất phóng dật,
Hành xã và Bất hại.
- 4.-căn-bản
phiền-não tâm sở: những tâm-sở này gây phiền não, rối loạn cho
chúng sanh. Ðây là những phiền-não làm cội góc cho các phiền-não
phát sinh, nên gọi là căn bản phiền-não. Căn bản phiền-não bao
gồm có sáu pháp là: Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi, Aĩc-kiến.
- 5.- Tùy
phiền-não tâm-sở: Những tâm-sở này nương tựa, phát sanh từ các
phiền-não căn bản tâm sở nói trên, nên gọi là tùy phiền-não.
Những tâm sở căn bản phiền-não trên là góc mà những tâm sở
phiền-não này là ngọn. Tùy phiền-não tâm sở gồm có 50 pháp là:
Phẫn, Hậu, Phú, Não, Tật, Xan, Cuốn, Siển, Hại, Kiêu, Vô-tàm,
Vô-quí, Trạo-cử, Hồn-trầm, Bất-tín, Giải-đãi, Phóng-dật,
Thất-niệm, Tán-loại, Bất-chánh-triều.
- 6.- Bất định tâm sở: Bất-định
nghĩa là không nhất định; bất định tâm sở là những tâm sở không
nhất định thiện hay ác; không đứng hẳn về một phía thiện hay ác;
như các pháp nói trên. Bất định tâm sởn gồm có bốn pháp là: Hối,
Miên,Trầm, Tư.
- 3.-Sắc pháp
- Sắc-pháp tức
là những pháp có thể hư nát và có tánh cách chướng ngại.
Sắc-pháp là sự phối hợp của năm căn và sáu trần, cộng tất cả là
11 pháp:
- Năm căn là:
Nhãn, nhĩ, tĩ, thiệt, thân.
- Sáu trần là:
Sắc, thinh, hương, vị, xúc, và pháp trần.
- 4.- Bất
tương-ưng hành pháp
- Các pháp này
không thuộc về sắc mà cũng không thuộc về tâm; nhưng chúng nó
không thể rời sắc và tâm mà có được. Thí dụ như ''đắc'' (được)
là một ''bất tương-ưng pháp''. ''được'' không thể là sắc mà cũng
không thể nào là tâm. Nhưng khi nói ''được'', tức là hàm cái
nghĩa ''được'' một cái gì, nhưng ''được'' một đồng bạc chẳng
hạn, va fphải có một yếu tố thứ hai là ''ai'' được. Ðồng bạc
thuộc về sắc, ''ai'' thuộc về tâm. Còn ''được'' không phải lá
sắc và tâm mới có. Ðó là một thí-dụ để chúng ta suy-gẫm về những
pháp Bất-tương-ưng khác, như mạn-căn, sanh, trụ, dị, diệt,
phương, thế tốc .v.v.. gồm tất cả là 14 pháp.
- 5.- Vô-vi
pháp
- Như đọan trên
đã có nói, pháp vi-vô là pháp không sanh, không diệt, không
tạo-tác, không thay đổi, xa lìa tướng hư vọng., tức là thể-tánh
của các pháp. Các pháp vô-vi, đối với phàm-phu thì khó có thể
nói-năng, nghĩ bàn, so sánh được. Tuy thế, để có một ý-niệm về
thể-tánh chơn-như, nhà chủ trương Duy-thức dựa vào sắc tướng,
danh tự để hình dung các pháp vô-vi. Do đó, mà đặt sáu pháp
vô-vi sau đây:
- a). Hư không
vô-vi: Muốn nói thể-tánh chơn-như, xa lìa các đều chướng ngại,
giống như hư-không.
- b).Trạch-diệt
vô-vi: Trạch là lựa chọn, Diệt là diệt trừ, nghĩa là nhờ các sự
lựa chọn đứng-đắn của Trí-huệ vô lậu mà diệt trừ được sự phiền
não nhiễn trước , chứng ngộ cứu cánh.
- c). Phi-trạch
diệt vô-vi: trên thì nói nhờ sự lựa chọn, đứng đắn của trí-huệ
mà diệt trừ được sự phiền não nhiếm trước. Nhưng nói thế không
có nghĩa rằng pháp-tánh nhờ có sự diệt trừ phiền-não mới có
được. Pháp-tánh vốn đã có sẳn, xưa nay là vốn là thanh-tịnh,
không có nhiễm ô, không có sanh diệt, cho nên gọi là phi-trạch
diệt vô-vi. Lại có nghĩa thứ hai là vì thiếu duyên, nên các
phiền-não nhiễm-ô không hiện; vì thế mà pháp vô-vi thanh-tịnh tự
hiện ra, không cần có sự trạch diệt.
- d).Bất động
diệt vô-vi: khi đã xa lìa các phiền-não, về cõi tịnh lự thứ ba,
thuộc về sắc-giới, dứt bỏ những sự vai buồn, thường tương ưng
cùng xả thọ, không còn bị lay động bỡi một sắc tướng gì nữa, nên
gọi là bất động diệt vô-vi: Khi đã xa lìa các phiền não , về cỏi
tịnh lự thứ ba, thuộc về sắc giới, dứt bỏ những sự vui buồn,
thường tương ưng cùng xả thọ, không còn bị lay động, bởi một sắc
tướng gì nữa, nên gọi là ''Bất động diệt vô-vi ''.
- e). Tưởng thọ
diệt vô-vi: Khi đã xa lìa được phiền não ở cõi thứ ba thuộc về
vô sắc giới, các tâm sở '' tưởng, thọ'' đều tịch diệt, chơn như
hiện ra, nên gọi là '' Tưởng thọ diệt vô-vi''.
- f) Chơn như
vô-vi: Năm pháp vô-vi trên này là hình dung các đức tánh của
chơn như; pháp thứ sáu này là "Chơn như vô-vi", mới chỉ đích
danh bản thể chơn như.
- Ðể người đọc dễ nhớ 100 pháp vừa
kể trên này, cổ nhân có làm một bài kệ, tóm tắt như sau.
- Nguyên văn:
- Sắc pháp thập
nhất, tâm pháp bát
- Ngũ thập nhất
cá tâm sở pháp
- Nhị thập tứ
chủng bất tương ưng
- Sáu món vô
vị, thành trăm pháp
- Dịch nghĩa:
- Sắc pháp mười
một, tâm pháp tám
- Năm mươi mốt
món tâm sở pháp
- Hai mươi bốn
món bất tương ưng
- Sáu món vô-vi
, thành trăm pháp .
- VI.- Phương
Pháp tu hành
- Như chúng ta
đã biết vũ trụ vạn hữu tuy vô cùng phức tạp, nhưng nhà duy thức
học có thể sắp xếp thành 100 loại (bách pháp ). Một trăm loại
này, tuy hình tướng công năng có khác nhau, chung cục lại cũng
đều Thức cả.
- Vậy phương
pháp tu hành của nhà duy thức học là làm thế nào để chứng ngộ
cái lý nói rên, thế nhập với cái chơn lý ấy. Ðể đạt được mục
đích này nhà duy thức học dạy phải thực hành 5 pháp quán sau
đây, gọi là ''Ngũ trùng duy thức quán''. với năm pháp quán
này,hành giả đi từ thô đến tế, từ phức tạp đến tinh thuần, để
cuối cùng chỉ còn thấy có thức tánh, tức là tâm chơn như.
- 1.- Bỏ cái hư giả, lưu lại cái
hư thật. (khiển hư, tồn thật): Bỏ cái hư giả ức là các vọng chấp
thật có ngã, có pháp do cái tánh '' biến kế chấp'' tạo ra. Lưu
lại cái chân thật, tức là cái tánh '' y-tha-khởi'' và
''viên-thành''. Nói một cách khác cho dễ hiểu, trong pháp quán
này, hành giả phải quán ngã và pháp là không thật ( hư) để phá
trừ cái chấp thật có. Hành giả lại quán tánh y tha, viên thành
là thật có (thật) để phá trừ chấp không. Trong lối quán duy thức
từng thứ nhất này, ''có'' và ''không'' đối đãi nhau, để bỏ''
biến kế chấp'' lưu lại ''y tha'' và ''viên thành''.
- 2.- bỏ cái
lộn lạo, lưu lại cái thuần túy (xả lạm lưu thuần): Cái lộn lạo
nói ở đây là tướng phần (nội cảnh); có thuần túy ở đây là kiến
phần. Bỏ cái lộn lạo, lưu cái thuần túy, tức là bỏ phần
''tướng'' bị duyên (sở duyên) mà lưu lại cái phần ''kiến'' là
phần năng duyên. Ðây là quán thứ hai về lối duy thức, lấy tâm
(năng) và cảnh (sở) đối đãi với nhau, và mục đích là bỏ cảnh (xả
lạm) mà chỉ giử lại tâm (lưu thuẩn). Lối quán thứ nhất là bỏ
vọng cảnh ngoài tâm; lối quán thứ hai này là bỏ cảnh nội tâm là
tướng phần của thức.
- 3.- Ðem cái
ngọn trở về gốc (nhiếp mạt quy bổn): Cái ngọn ở đây tức là muốn
nói tướng phần và kiến phần, còn gốc ở đây tức là tự chứng phần.
Kiến phần và kiến phần là ''dụng'' đều y theo tuẹ chứng phần mà
khởi ra, nên gọi là ngọn; còn tự chứng phần là ''thể tánh'' cho
nên gọi là gốc. Lối quán duy thức thứ ba này là đem ''dụng'' và
''thể'' đối đãi với nhau, mà mục đích là bỏ cái phần thuộc tương
đối ít quan trọng là dụng (kiến phần), chỉ giử lại cái phần căn
bản là thể (tự chứng phần).
- 4.- Giấu cái
liệt làm hiển lộ cái thắng (ẩn liệt hiển thắng): Cái Liệt muốn
nói ở đây tức là các tâm sở, cái Thắng tức là các tâm vương. Tâm
sở phụ thuộc vào cái tâm vương nên gọi là liệt, hay kém ; tâm
vương là phần sai sử chủ động, nên gọi là thắng, hay hơn. Lối
quán duy thức thứ tư này là đem 51 món tâm sở so sánh với 8 món
tâm vương, và mục đích là dẹp bỏ các món tâm sở và làm hiển lộ 8
món tâm vương.
- 5.- Bỏ thưc
tướng về thức tánh (khiển tướng chứng tánh): Bốn tầng quán Duy
thức trên, tuy rốt ráo chỉ còn giử lại các món tâm vương, nhưng
tâm vương cũng có sự tướng và lý tánh. Lối quán thứ năm này là
đem sự tướng đối đãi với lý tánh, mà mục đích cuối cùng là bỏ sự
tướng của thức (thức tướng) để trở về với lý tánh của thức (thức
tánh), tức cũng là chứng nhập Pháp tánh hay tâm Chơn như (quý
độc giả muốn hiểu rỏ thêm, xin xem bài duy thức quán đâị cương
của Ngài Thái Hư Pháp sư).
- Ngoài năm lớp
quán Duy thức của cổ nhơn mà chúng tôi vừa kể trên, còn có một
lối tu nữa rất dễ dàng và thiết thực, hợp với đại chúng là chúng
ta thường quan sát và kiểm điểm nội tâm của mình.
- Chúng ta hãy
độc kỹ về hai lọai Phiền não tâm sở và Thiện tâm sở trong Duy
thức, để nhìn rỏ mặt mày tướng trạng, công dụng, tánh tình và
danh tự của chúng. Rồi hằng ngày chúng ta kiểm điểm ở nội tâm:
Mỗi khi hiện lên một tâm niệm gì, chúng ta kiểm điểm và quan sát
thật kỹ tâm niệm này thiện hay ác (phiền não). Nếu tâm niệm
thiện thì chúng ta nuôi dưỡng cho nó phát-triển thêm, còn nếu
tâm niệm ác thì chúng ta mau mau lo diệt trừ đi. Chúng ta biết
sữa đổi tâm niệm xấu (tu tâm) và nuôi dưỡng tánh tốt (dưỡng
tánh) như thế phải thì chúng ta se ỵthành được Thánh hiền (xem
quyển tu tâm và dưỡng tánh).
- VII.- Hành
Giả Phải Trải Qua Năm Ðịa Vị Trong Khi Tu Duy Thức
- Người tu học
pháp môn Duy thức, cũng như kẻ bộ hành, từ khi nãy sinh ra cái ý
định muốn đi cho đến tới đích, phải trải qua năm giai đoạn hay
năm địa vị như sau:
- 1.- Vị tư
lương: Tức là thời gian chuẩn bị như người sắp đi xa, phải chuẩn
bị lương thực trước lúc lên đường.
- Trong Duy
thức Tam thập tụng:
- Nguyên văn:
- Nãi chí vị
khởi thức
- Cầu trụ Duy
thức tánh
- Ư nhị thủ tùy
miên
- Du vị năng
phục diệt
- Nghĩa là: Từ
khi chưa phát tâm cho đến khi phát tâm cầu an trụ Duy thức tánh,
trong thời gian đó, hai món thủ (ngã chấp, pháp chấp) hãy còn
miên phục, hành giả chưa có thể chinh phục diệt trừ được.
- 2.- Vị Gia
hạnh: Hành giã gia công tấn hạnh, cũng như người định đi xa, sau
khi đã chuẩn bị đủ hành lý cách bước lên đường.
- Trong Duy
thức tam thập tụng có chép.
- Nguyên văn:
- Hiện tiền lập
thiểu vật
- Vị thị duy
thức tánh
- Dĩ hữu sở đắc
cố
- Phi thật trụ
duy thức
- Nghĩa là: Nếu
hiện tiền còn thấy mình an trụ duy thức tánh, dù nhỏ nhiệm bao
nhiêu thì cũng chưa phải thật an trụ Duy thứ tánh, vì còn có chổ
sở đắc vậy.
- 3.- Vị Thông
đạt: Hành giả thông suốt đường lối tu hành, cũng như người bộ
người bộ hành.nghiên cứu kỹ lưỡng con đường mình sắp đi, biết rỏ
đoạn nào tốt, đoạn nào xấu, đoạn nào nguy hiểm, đoạn nào không
...
- Trong Duy
thức tam thập tụng có chép:
- Nguyên văn;
- Vô đắc bất
đắc nghị
- Thị xuất thế
gian trí
- Xả nhị thô
trọng cố
- Tiện chứng
đắc chuyển y.
- Nghĩa là:
cảnh giới "vô dắc"này không thể nghĩ bàn; đây là trí xuất thế
gian vô lậu. Do đã xa lìa được hai món thô trọng ( phiền não
chườngva sở triều chướng ), hành-giả chứng được hai món chuyển y
( Bồ-Ðề và Niết bàn).
- 5.-Vị cứu
cánh:Quả vị rốt ráo của sự tu chướng, tức là quả Phật , cũng như
người đi đường đã hòan toàn tới chỗ.
- Trong
Duy-thức tam thaạp tụng có chép:
- Nguyên văn:
- Thử tức vô
lậu giới
- Bất tư nghị,
thiện , thường
- An lạc, giải
thoát thân
- Ðại Mâu-nhiều
danh pháp .
- Nghĩa là: đay
là cảnh giới vô lậu, cũng gọi là:a) Bất tư nghị, b)Thiện, cũng)
Thường, được) An lạc,đời) Giải thoát thân, e) Ðại Mâu nhiều,
cũng gọi là pháp thân ( quý vị muốn rõ thêm, xem cuốn Duy-thức
học, tập Và tức là Duy-thức tam thập tụng ).
- VII.-Kết Quả
Tu Chứng
- a)Hành-giả :
sau khi đã dày công tu luyện pháp mê vọng, năm thức trước của
chúng tánh là nhãn, nhĩ, tỹ, thiềt và thân thức, duyên với cảnh
giới năm trần là sắc, thanh, hương, vị và xúc trần;nhờ thế mà
chúng ta mới thấy được sắc, nghe được tiếng , ngữi được mùi, nếm
được vịvà cảm giác được cảnh giới chung quanh. Nhưng cái giá
trịvà tầm hoạt động cũng như công dụng của năm thức ấyât nhỏ hẹp
và thường hay sai lạc, nhận giả làm thật. Do đó, chúng ta tạo ra
các nghiệp sanh tử luân hồi, quay cuồng trong lục đạo. Ðối với
người tu Duy-thức khi đã thành tựu rồi, thì năm thức này chuyển
ra thành cái trí" thành sở tác", nghĩa là cái trí này có những
công năng vô cùng rộng lớn như thị hiện thần thông biến hóa,
hiện ra ba món hóa thân, đẻ tùy theo căn cơ của chúng sanh mà
hóa dộ.
- b)Diệu quán
sát trí:khi đang còn ở trong mê thức thứ sảucghi biết so đo,
tính toán trong phạm vi nhỏ hẹp, tầm hoạt động không thể bao
quát cùng khắp được . do đó nên nó thường hay sai kạc, lầm lẫn,
và lôi kéo thân và miệng làm nhiều điều tội lỗi, tạo ra các
nghiệp sanh tử luân hồi. Ðến khi đã chứng được Duy-thức quả rồi,
thì cái thức thứ sáu nàychuyển thành cái trí diệu quan sát,
nghĩa làcái trí quan sát rát là mầu nhiệm, có thể thấy được hằng
sang thế giới; trong mỗi thế giớ thấy được toàn thể chúng sanh,
trong mỗi chúng sanh thấy được bao ngạc nhiêu tâm niệm v.v...Và
nhờ sự quan sát huyền diệu rốt ráo như thế mà tùy theo nguyện
vọng, taam lý, làm lợi lạc cho chúng sanh.
- c)Bình đẳng
tánh trí: Trong khi mê, thức thứ bảy chấp kiến phần của thức thứ
tám là ngã. Khi đã chấp "ngã" tất nhiên chỉ biết có ngã là quan
trọng nhất, và mọi ý nghĩ, mọi hành động, mọi lời nói gì cũng
đều quy tụ chung quanh cái ngã. Diều gì thích hợp với cái ngã
thì yêu thương, chiều chuộng, cưng dưỡng, diều gì trái với cái
ngã thì khinh ghét,hất hũi, chà đaạp. Do đó, gaay ra không biết
bao nhiêu là bất công, bất bình đẵng làm xáo trộn, điêu đứng phá
hũy cõi trần gian này. Ðến khi chứng được Duy-thức quả, thức thứ
bảy này không còn chấp ngã nữa, mà chỉ thấy mình và người , cho
đến lòai vật đều như nhau. Khi đã có được trí bình đẵng rồithi
sẽ dùng tâm từ bi hiện đủ phương tiện, để tùy theo căn cơ mỗi
loài mà hóa độ, làm cho chúng sanh đều được giải thoát.
- d). Ðại viên
cảnh trí: Khi còn mê-mờ bị thức thứ Bảy chấp ngã và bị các
chủng-từ phiền-não hữu-lậu, nhiễm-ô chi-phối, nên thức thứ Tám
không được sáng suốt thanh-tịnh. Ðến khi nhờ tu-hành, chứng được
Duy-thức tánh, thì thức thứ Tám này trở thành như một cái gương
lớn được lau chùi sạch bụi-bặm, có thể phản chiếu khắp cả mười
phương thế-giới, nên gọi là ''Ðại viên cảnh trí''.
- 2.- Hai trí:
- Bốn trí trên
này, tuy có phân chia khác nhau, tùy theo công năng của mổi thứ,
nhưng rốt lại, có thể gồm hai trí sau đây là Căn-bản trí và
Hậu-đắc trí.
- a). Căn-bản
trí: Tức là trí thể, chư Phật có chúng sanh đều sẳn có. Trí này
cũng gọi là Vô phân-biệt trí.
- b). Hậu đắc
trí: Trí là trí dụng. Sau khi chứng quả Thánh, được Căn-bản trí
rồi mới được Hậu-đắc trí. Trí này cũng gọi là Sai-biệt trí;
nghĩa là trí phân biệt các pháp do tánh y-tha-khởi mà có sai
khác.
- Tóm lại,
thành quả rốt-ráo của người tu học Duy-thức là chuyển đỗi được
tám thức thành bốn trí là: Thành-sở-tác trí, Diệu-quán-sát trí,
Bình-đẳng-tánh trí vá Ðại-viên-cảnh trí. Ðứng về mặt thể và dụng
mà xét thì bốn trí này chỉ gồm lại làm hai là: Căn-bản trí và
Hậu-đắc trí. Khi đã được hai trí này hành-giả đã chứng được
Duy-thức tánh, ngộ nhập chơn-tâm, hoàn thành quả Phật.
- IX.- Lợi Ích
Thiết Thực Trong Khi Học Và Tu Duy Thức
- Kết quả thu
hoạcgh được như trên, hành-giả tất phải trải qua nhiều kiếp
tu-hành. Nhưng chúng ta đừng thấy con đường đi qáu xa-xôi, diệu
vợi mà nản chí. Vã lại không phải đợi đến khi thu hoạch được
kết-quả cuối cùng mới nhận chân được sự lợi ích của pháp môn
này. Ngay trong khi đang tu học, môn Duy-thức này cũng đã đem
lại cho chúng ta nhiều lợi ích thiết thực cho đời sống hiện tại
rồi.
- 1.- Chúng ta
tự biết được mình một cách rỏ-ràng: Từ hồi nào đến giờ, chúng
cho ta thân tâm này là của tánh, tưởng rằng chúng ta đã hiểu rõ
bản thân tánh nhiều lắm. Nhưng nghĩ cho kỹ, chúng ta chỉ biết sơ
sài về ta mà thôi. Về thân xác này, chúng ta chỉ thấy được những
bộ phận ở bên ngoài như mặt, mũi, tay, chân v.v...Muốn biết các
bộ-phận bên trong, chúng ta tất phải học khoa phẩu thuật.
- Về tâm-tánh
chúng ta lại càng dốt hơn nữa. Nhiều khi chúng ta tưởng hiểu rõ
nội tâm của mình, kỳ thật đã lầm nhiều lắm. Vậy muốn rõ biết
tâm-tánh một cách rõ ràng, chúng ta hãy tu học Duy-thức. Như
phần trên đã nói. Duy-thức học đã phân tích, chia-chẻ một cách
tường tận, tỉ-mỉ, tâm-lý của chúng ta , liệt kê ra thành nhiều
loại; mỗi loại có tên riêng, hành-tướng, công-năng, phạm-vi
hoạt-động khác nhau như thế nào. Học Duy-thức, chúng ta thấy
được phần nội tâm một cách rỏ ràng như người cầm gương soi, thấy
tất cả những gì ở trên mặt. Chúng ta sẽ biết rõ những tâm-niệm
xấu-xa để diệt-trừ (tu tâm), những tánh-tình tốt đẹp để bồi
dưỡng (dưỡng tánh). Do đó, chúng ta sẽ trở thành người hiền
lương, đạo-đức.
- 2.- Chúng ta
thấy được cái chánh-phủ nội tâm của chúng ta: Tâm-lý của mỗi
người mới xem qua thật vô cùng phức-tạp; nhưng nếu suy nghiệm
cho kỹ, chúng ta thấy vẫn có một tố chức gần giống như một liên
bang; các Tâm-vương khác như một vị Tổng-thống của liên bang;
các Tâm-vương khác như các vị đứng đầu của tiểu-banh; các tâm-sở
Biến-hành như một vị Bộ-trưỏng; các Tâm-sở Biệt-cảnh như các vị
Tỉnh-trưởng, Quận-trưởng; các Tâm-sở Bất-định như các vị
dân-biểu không đảng phái; các Tâm-sở Thiện như các vị công-thần
liêm-khiết hay các vị công-chức tân tâm vì dân vì nước; các
Tâm-sở phiền nảo như những tham quan ô lại, hay cướp dựt lưu
manh v.v... con các chủng-tử (thiện, ác, vô ký) thì như toàn thể
dân chúng trong liên bang.
- Với một liên-bang nội tâm như
thế, nếu chúng ta biết sắp đặt điều hòa bộ máy chính-quyền nội
tâm cho vững vàng, thì tất nhiên liên-bang ấy sẽ vững mạnh,
hùng-cường, và văn minh tiến bộ. Trái lại, nếu chúng ta không
nắm vững được bộ máy hành-chính nội-tâm, thì liên-bang ấy sẽ
loạn lạc, đói khổ và không sớm thì muộn, sẽ rơi vào vực thẳm tối
tăm.
- Duy-thức học
giúp cho chúng ta thấy rõ chánh-phủ nội-tâm của mình, để tự điều
hòa cho được thạnh trị, thái-bình.
- 3.- Chúng ta
trau giồi được một đức tánh tốt đẹp là tánh ''kiên nhẫn'':
- Học Duy-thức,
trước tiên chính là chúng ta học đức tính kiên nhẫn. Thật vậy,
người không kiên nhẫn không thể học Duy thức đến nơi đến chốn
được, vì môn học này chia chẻ tâm lý một cách tỷ mỷ, phiền tóai;
mỗi tâm niệm đều cũng nhiều danh từ chuyên môn,và được nghiên
cứu kỹ lưỡng về tánh chất, hành vi, tướng trạng...những người
không chịu khó, tánh tình hời hợt, nóng nảy, không thể nào thành
công được trên đường tu học triều Duy-thức. Cho nên chỉ những
người kiên nhẫn mới thành công, hay ngược lại,muốn thành công
thì phải luyện tập đức tính kiên nhẫn. Từ xưa đến nay, trong đạo
hay ngoài đời, những người được thành công vĩ đại đều nhờ đức
tánh kiên nhẫn.
- 4.- chúng ta
giữ thái độ bình tĩnh tự tại: Như csác đọan trướ đã nêu rõ, mọi
sự vật trong vũ trụ này đều do thức biến, chớ không chắc thật.
Do đó, khi gặp điều may mắn, chúng ta không kiêu hãnh, ngạo mạn,
cống cao; khi gặp cảnh đau buồn như tử biệt sanh ly...chúng ta
bớt khổ não, kêu than, giữ được thái độ bình tĩnh và cũng cho
biết được cõi đời là giã tạm, như mây bay, như gió thỏang,nên
chúng ta không say đắm, tham lam, luyến tiếc, và nhờ thế, chúng
ta bớt dần những nghiệp giữ, chóng được giải thóat.
- 5.- Chúng ta
nắm vững lòng tin:
- Học Duy-thức,
chúng ta thấy được giá trị cao siêu của nó, nên lại càng tin
tưởng mạnh mẽ vào tôn giáo của chúng ta, một tôn-giáo không phải
dựa trên giáo điều độc đóan, mà dựa trên thực nghiệm, và lấy
ngay nội tâm của con người làm nền tảng cho sự tu học của mình.
- X. Kết Luận.
- Chúng tôi đã
trình bày xong những điểm chính yếu của Duy-thức tôn giáo hay
Pháp tướng tôn. tấĩt nhiên, với phạm vi những bài giảng này,
chúng tôi không thể đi sâu vào chi tiết, trình bày một cách rộng
rải, đầy đủ hơn. Quý vị nào muốn nghiên cứu sâu xa về môn học
này, xin hãy tim trước tiên ba bộ sách chính tông của Duy-thức
là: Ðại-thừa Bá Phát minh môn luận (Duy-thức nhập môn),Duy-thức
Tam Thập Tụng và Bát Thức Quy Củ tụng; sau đósẽ nghiên cứu thêm
những tập sách khác hiện đã xuất bản rất nhiều ở Việt-Nam .
- Tuy thế, sau
khi xem qua nội dung bài này, quý vị có thể quyết định được con
đường tu hành của quý vị rồi. Nếu quý vị thấy đây là một con
đường tu hành thích hợp và thiết thực lợi ích đối với mình thì
xin hãy hạ thủ công phu ngay, nghĩa là ngày đem quan sát kiểm
thảo tâm thức của mình. Như quý vị đã biết, trong mỗi chúng ta
đều có sáu đầu đảng giải quyết là sáu món Căn bản phiền não. Sáu
đầu đảng này lại có hai mươi tên bộ hạ nguy hiểm là 20 Tùy phiền
não. Chính bọn giặc cướp này, từ vô thỉ đến nay phá hoại chúng
ta vô cùng vô tận, làm cho chúng ta điêu đứng và trầm luân trong
biển khổ sanh tử luân hồi. Nếu ngày nay biết được sự tàn phá của
chúng, quyết tâm diệt trừ, không cho chúng hoành hành,chắc chắn
cuộc đời chúng ta an cư lạc nghiệp (xong cuốn tu tâm).
- Hơn nữa, bên cạnh những bọn giặc
cướp ấy, chúng ta còn có những anh hùng nghĩa sĩ, chuyên làm các
việc thiện là 11 món tâm sở thiện. Với những vị hảo hán này,
chúng ta phải luôn luôn ân cần trọng đãi, khuyến khích cổ võ để
cho họ càng thêm hăng hái và mạnh mẽ làm các việc lành (xem
quyển Dưỡng Tánh).
- Một khi các
tâm niệm xấu xa hoàn toàn tiêu diệt, các đức hạnh tốt hoàn toàn
đầy đủ, chúng ta sẽ thành Phật quả.
- Cầu mong quý vị thành công.
--o0o--
|
|